Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

đánh giá việc thực hiện chính sách xã hội đối với các tộc người thiểu số ở tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.03 KB, 113 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CHÍNH SÁCH CƠNG VÀ CHU TRÌNH CHÍNH SÁCH
CƠNG

1.1. Chính sách cơng
1.2. Đánh giá chính sách - một giai đoạn của chu trình chính sách cơng
1.3. Chính sách xã hội và chính sách xã hội đối với các tộc người
thiểu số

9
9
17
22

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI
VỚI CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN

2.1. Quá trình triển khai thực hiện
2.2. Kết quả thực hiện chính sách xã hội đối với các tộc n gười thiểu
số ở Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra

41
41
52

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT


HƠN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC

3.1. Các quan điểm
3.2. Một số giải pháp chủ yếu

84
85
90

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

107
108

NGƯỜI THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN


DANH MỤC ĐỒ THỊ, BẢNG
Đồ thị 1.1: Hệ số Gini
Bảng 2.1: Giá trị và tốc độ tăng trưởng GDP vùng Tây Nguyên thời
kỳ 2001-2010 (theo giá so sánh 1994)
Bảng 2.2: Cơ cấu GDP vùng Tây Nguyên 2001-2005-2010 (theo giá
so sánh 1994)
Bảng 2.3: Hệ số Gini thời kỳ 1993-2008
Bảng 2.4: Thu nhập bình quân đầu người (2001-2010) theo giá hiện hành
Bảng 2.5: Kết quả giảm nghèo vùng Tây Nguyên (2001-2006-2010)
Bảng 2.6: Kết quả giải quyết đất ở, đất sản xuất nhà ở theo các Quyết
định: 132 và 134 của TTCP
Bảng 2.7: Tình hình lao động, việc làm vùng Tây Nguyên 2001-2010

Bảng 2.8: Thực trạng đội ngũ cán bộ cấp xã (đến tháng 6-2010)

Trang
29
63
63
64
66
68
70
75
79


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh”. Để hiện thực hóa mục tiêu trên, trong quá trình lãnh đạo, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra hệ thống các chủ trương, chính sách, trong đó có các chính
sách xã hội đối với tộc người thiểu số. Chính sách xã hội này đã và đang được
thực hiện ở khắp các địa phương, địa bàn trên cả nước nhằm tạo điều kiện cho
đồng bào các tộc người thiểu số, miền núi vươn lên xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, góp phần ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh, tăng cường,
củng cố vững chắc khối đại đoàn kết các dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu
chung của đất nước.
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng từng được ví như
“mái nhà của Đông Dương”, khi tiến hành xâm lược nước ta, Pháp và Mỹ đều
tìm mọi cách đánh chiếm khu vực này để từ đó khống chế vùng Nam Lào,

Căm-pu-chia, Nam Bộ và miền Trung Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công
mùa Xuân năm 1975, thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên được coi là thắng
lợi then chốt và quyết định của quân và dân ta, tạo nền tảng cho phát triển thời
cơ và thế trận của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hồn tồn miền
Nam, thống nhất đất nước. Từ sau ngày đất nước thống nhất đến nay, với tầm
nhìn chiến lược và nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị của Tây Ngun, Đảng và
Nhà nước ta đã luôn dành sự quan tâm lớn cho địa bàn này, đặc biệt là tập trung
sức lực và của cải để xây dựng Tây Nguyên phát triển mạnh và vững chắc về
kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh.
Tây Nguyên hiện nay gồm 5 đơn vị hành chính cấp tỉnh: Kon Tum, Gia
Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đăk Nơng, với diện tích 54.474km 2, dân số hơn 4,8
triệu người, trong đó 1,5 triệu người là đồng bào dân tộc thiểu số. Từ khi thực


2
hiện đường lối đổi mới đất nước đến nay, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương, chính sách cho đối tượng là các tộc người thiểu số, trong đó có đồng
bào Tây Ngun. Nhiều cơ chế, chính sách đã đi vào cuộc sống, mang lại
nhiều thành tựu quan trọng, kết quả tích cực, tuy vậy, nhiều vấn đề kinh tế xã hội chưa được giải quyết tốt, đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo, lao động việc
làm, an sinh xã hội chưa đạt được những kết quả như mong muốn đã đặt ra.
Thành tựu xóa đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc (số hộ
nghèo và tái nghèo ở một số vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn
vẫn còn cao); Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị
thiên tai cịn nhiều khó khăn, nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ
nghèo cao hơn so với mức bình quân của cả nước. Một số chính sách
trợ giúp người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo chưa được tổ chức thực
hiện tốt. Cơ chế, chính sách về văn hóa - xã hội chậm đổi mới; nhiều
vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt; ... Nhu cầu về việc
làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt. Chất lượng
nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo, lao động nông

nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao, lao động thiếu việc làm và khơng có việc
cịn nhiều [21, tr.62-63,173].
Nhằm tổng kết và đánh giá các chính sách xã hội, nhất là chính sách
xóa đói, giảm nghèo, lao động, việc, an sinh xã hội để tạo điều kiện hồn
thiện các chính sách xã hội cho các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, tôi chọn
đề tài “Đánh giá việc thực hiện các chính sách xã hội đối với các tộc người
thiểu số ở Tây Nguyên” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Vấn đề tộc người và thực hiện chính sách đối với tộc người thiểu số
luôn là mục tiêu quan trọng có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam,
của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, do vậy vấn đề này luôn được Đảng
và Nhà nước ta quan tâm cụ thể hóa bằng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và


3
hệ thống Pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, trong thời gian gần đây có nhiều
cơng trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề tộc người và việc thực hiện chính
sách đối với tộc người thiểu số của Đảng và Nhà nước ta như:
+ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Khoa
Dân tộc học (1995), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta. Nội dung cuốn sách làm rõ những vấn đề cơ bản về dân tộc và chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong những năm đổi mới.
+ Ủy ban Dân tộc và miền núi, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (1996), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc và hướng giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của Người
ở Việt Nam.
+ PGS.TS. Nguyễn Quốc Phẩm, GS.TS. Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đề cập đến lý luận và thực tiễn về dân

tộc và quan hệ dân tộc, vai trò của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đối
với việc xây dựng và phát huy vai trò Hệ thống chính trị các vùng dân tộc
thiểu số ở nước ta.
+ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Tập bài giảng lý
luận dân tộc và các chính sách dân tộc. Cuốn sách gồm 6 chuyên đề trình bày
vấn đề quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
ta về vấn đề dân tộc và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng ta.
+ Ủy ban dân tộc và miền núi (2001), Vấn đề dân tộc và cơng tác dân
tộc ở nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đưa ra vấn đề tìm
hiểu quan điểm chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước và yêu cầu nhiệm vụ
với các cán bộ làm công tác dân tộc hiện nay.
+ Ủy ban dân tộc, Viện dân tộc - Hội đồng khoa học (2006), 60 năm
công tác dân tộc thực tiễn và bài học kinh nghiệm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà


4
Nội. Các tác giả đã đề cập đến sự hình thành và phát triển của cơ quan công
tác dân tộc cùng các quan điểm chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước qua
các thời kỳ cách mạng, làm rõ những thành tựu, tồn tại, đúc rút bài học kinh
nghiệm trong công tác dân tộc trên cả nước và các địa phương.
+ GS.TS. Hồng Chí Bảo (chủ biên), Bảo đảm bình đẳng và tăng
cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội (2009). Tập thể tác giả đánh giá
thực trạng cơng bằng, bình đẳng và hợp tác giữa các dân tộc, đồng thời đưa ra
những giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm trong phát triển kinh tế - xã hội tại
các vùng dân tộc ở miền núi nước ta hiện nay.
+ PGS. TSKH. Phan Xuân Sơn, ThS. Lưu Văn Quảng (2006), Những
vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb. Lý luận chính
trị, Hà Nội. Cuốn sách đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân

tộc, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta qua các giai đoạn cách
mạng, chỉ ra những vấn đề nảy sinh cho việc thực hiện chính sách dân tộc và
những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách dân tộc ở
nước ta hiện nay.
+ GS.TS. Nguyễn Đình Tấn, TS. Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận
thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải
pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đánh giá thực trạng, nhận
thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân tộc thiểu số, cùng đưa ra các quan
điểm, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ của cộng
đồng các dân tộc thiểu số nhằm thực hiện tốt hơn các chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước.
+ Đặng Vũ Liêm, "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ở các vùng dân tộc
và miền núi, cải thiện đời sống nhân dân". Tạp chí quốc phịng tồn dân, số
2/1999. Trên cơ sở phân tích các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,


5
tác giả nêu ra những giải pháp trong việc thực hiện chính sách của Đảng và
Nhà nước ta ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Nguyễn Phương Thủy (2009), Luận án tiến sĩ, “Thực hiện chính sách
dân tộc ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Luận
án đã làm rõ nhưng chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay; những yêu câu của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đến việc thực hiện chính sách dân
tộc, đồng thời cũng đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện hơn nữa việc
xây dựng và thực thi chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Cùng các bài viết, cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học và các
nhà quản lý ở cấp Trung ương và địa phương có giá trị rất lớn về mặt khoa
học và thực tiễn nhằm tạo giải pháp tốt cho việc thực hiện chính sách đối với
tộc người thiểu số của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

- Về thực hiện các chính sách kinh tế, chính sách xã hội đối với tộc
người thiểu số ở địa bàn Tây Nguyên, về công tác tư tưởng của Đảng ở Tây
Ngun, đã có một số cơng trình khoa học tiêu biểu sau:
+ Nguyễn Văn Chỉnh (chủ nhiệm), Một số chính sách kinh tế - xã hội
đối với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, đề tài khoa học cấp bộ 1997-1998. Tại cơng trình nghiên cứu này,
các tác giả đã đi sâu phân tích một số chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước ta đối với các tộc người thiểu số đang được thực hiện ở Tây
Nguyên; nêu lên những thành tựu, những vấn đề bức xúc đang đặt ra; các
quan điểm, giải pháp để thực hiện tốt hơn các chính sách kinh tế - xã hội đối
với tộc người thiểu số ở Tây nguyên.
+ Trương Minh Dục (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã khẳng
định truyền thống đoàn kết dân tộc ở Tây Ngun; phân tích q trình xây
dựng và thực thi chính sách đại đồn kết các dân tộc thiểu số trong cách mạng
dân tộc dân chủ, trong chiến tranh giải pháp dân tộc, trong thời kỳ xây dựng


6
chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc đổi mới; đồng thời cũng đề xuất một số
quan điểm, giải pháp xây dựng và củng cố khối đoàn kết dân tộc ở Tây
Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
+ Trương Minh Dục (2009), Mấy vấn đề về dân tộc và quan hệ dân tộc
ở Tây Nguyên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích, làm
rõ đặc điểm và mối quan hệ giữa các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên; thực
trang mối quan hệ giữa các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên; nêu lên một số
quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó giữa
các tộc người ở Tây Nguyên, góp phần xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc hiện nay.
+ Trương Minh Tuấn (2011), Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ở

Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Hà Nội.
Tác giả luận án đã làm rõ nội dung công tác tư tưởng; thực trạng công tác tư
tưởng ở các tỉnh Tây Nguyên; nêu lên những quan điểm và giải pháp đổi mới
công tác tư tưởng của Đảng ở Tây Ngun hiện nay.
Bên cạnh đó, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí
khoa học như: Lê Bảo (2000), “Một số giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
miền núi vùng dân tộc tại các tỉnh Tây Nguyên”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận (1);
Nguyễn Bá (2000), “Tây Nguyên: Thành tựu và những thách thức trên con
đường phát triển”, Tạp chí Kinh tế dự báo, (9); Trần Thái Học (2007), “Các
giải pháp cơ bản để giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Ngun”,
Tạp chí Cộng sản, (2); Đồn Tuấn Anh (2009), “Những thành tựu nội bật trong
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở miền Trung - Tây Nguyên qua 10 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (2);
Nguyễn Mậu Dựng (2009), “Nhận rõ những đặc điểm tâm lý con người, cộng
đồng - một trong những yếu tố góp phần xây dựng khối đại đồn kết các dân
tộc Tây Ngun”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (5); các bài tham luận trong hội
nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 10 về “Phát triển kinh tế-xã hội và
bảo đảm an ninh quốc phòng vùng Tây Nguyên thời kì 2001- 2010”…


7
Các cơng trình này, dưới góc độ này hay góc độ khác đã đề cập nhiều
vấn đề tộc người thiểu số; đến đời sống chính trị, tơn giáo, văn hóa và kinh tế
ở Tây Nguyên, tuy vậy, chưa có một cơng trình nào tập trung đánh giá việc
thực hiện chính sách xã hội đối với các tộc người thiểu số Tây Nguyên với tư
cách là một luận văn nghiên cứu chun sâu nói chung, và chun ngành
Chính trị học nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thơng qua đánh giá việc thực hiện chính sách xã hội đối với các tộc

người thiểu số ở Tây Nguyên, luận văn cung cấp những căn cứ khoa học,
những quan điểm và giải pháp nhằm hồn thiện q trình thực hiện chính sách
xã hội đối với các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn (khung lý thuyết về
đánh giá chính sách cơng nói chung, chính sách xã hội nói riêng).
- Đánh giá thực trạng q trình thực hiện chính sách xã hội đối với các
tộc người thiểu số ở Tây Nguyên.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm hồn thiện q trình thực
hiện chính sách xã hội đối với các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Chỉ nghiên cứu các chính sách xã hội trực tiếp liên quan đến đối
tượng là các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên: Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu vấn đề “An sinh xã hội” trong các chính sách xã hội. Cụ thể là các chính
sách: Xóa đói, giảm nghèo; lao động việc làm; chăm sóc sức khỏe, giáo dục
hướng nghiệp....trong q tình phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên.
- Thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
5. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc và chính sách xã hội.


8
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Luận văn sử dụng các phương pháp chuyên ngành của Chính trị học
như phân tích hệ thống chính trị, phân tích cấu trúc, chức năng, phân tích
chính sách, phân tích xung đột, v.v. và các phương pháp liên ngành như: phân
tích, tổng hợp, lịch sử, lơgíc, thống kê, so sánh, ...

Đặc biệt là pháp phân tích hệ thống chính trị. Nghiên cứu chính sách
với tư cách là đầu ra của hệ thống chính trị, trong trường hợp một chính sách
có tính ưu tiên đối với một đối tượng đặc thù. Nghiên cứu chính sách xã hội
đối với các tộc người thiểu số là nghiên cứu một q trình chính trị, đánh giá
tính hiệu quả, hiệu lực của các thể chế nhà nước và thể chế chính trị, năng lực
của cơ quan cơng quyền trong thực hiện chính sách và năng lực thu hút sự
tham gia của người dân vào các q trình chính sách.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá việc thực hiện chính sách xã hội đối với các tộc người thiểu
số ở Tây Nguyên;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện chính sách xã hội đối với
các tộc người thiểu số Tây Nguyên trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn có thể cung cấp những dữ liệu, các phân tích cho các cơ quan
hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý; có thể làm tài liệu tham khảo cho
các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, nhất là cấp địa phương và các cơ sở trên địa
bàn Tây Nguyên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia
làm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
CHÍNH SÁCH CƠNG VÀ CHU TRÌNH CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1. CHÍNH SÁCH CƠNG

1.1.1. Khái niệm chính sách cơng
Ngày nay, thuật ngữ “chính sách cơng” (trong nhiều trường hợp, được

gọi là chính sách) được dùng rất phổ biến, đặc biệt là ở các nước phát triển.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về thuật ngữ
“chính sách cơng”. Có rất nhiều qua niệm, định nghĩa khác nhau về chính
sách cơng. Jam Anderson cho rằng: “Chính sách cơng là một q trình hành
động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải
quyết những vấn đề lặp đi lặp lại” [29, tr.37].
Còn nhà kinh tế học, ơng Frak Ellis cho rằng khơng có một định nghĩa
duy nhất về thuật ngữ chính sách cơng với tất cả các tác giả. Theo ơng, “chính
sách cơng là một thuật ngữ chung vì nó ngụ ý sự can thiệp của nhà nước vào
nền kinh tế”, và “chính sách công được xác định như là đường lối hành động
mà Chính phủ lựa chọn đối với một lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục
tiêu mà Chính phủ lựa chọn đối với một lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các
mục tiêu mà Chính phủ đó tìm kiếm và sự lựa chọn các phương pháp để theo
đuổi các mục tiêu đó” [23, tr.23].
Theo Từ điển kinh tế:
Chính sách là biện pháp mà nhà nước mới áp dụng một giai
đoạn, một thời kỳ lịch sử, nhằm đạt được những yêu cầu và
những mục tiêu kinh tế, chính trị nhất định. Chính sách có thể
mang tính chất sách lược lâu dài, có thể mang tính chất sách lược
ngắn hạn. Chính sách kinh tế được xây dựng trên cơ sở, những
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và những xu hướng phát
triển của xã hội [44, tr.477].


10
Như vậy, chính sách cơng là một khái niệm vừa mang tính khoa học cơ
bản, vừa mang tính ứng dụng, nhất là tính chỉ đạo thực tiễn của những chủ thể
quản lý nhà nước nhất định. Trên thực tế sẽ ln tồn tại những cách định
nghĩa chính sách khác nhau do cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau.
Chính sách cơng thể hiện những vấn đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, trước hết, chính sách cơng là sản phẩm của các cơ quan nhà
nước, là sự thể hiện quyền lực của giai cấp thống trị trong sự thống trị xã hội,
giai cấp thống trị được tổ chức thành nhà nước, đồng thời là kết quả (đầu ra)
trong hoạt động của cả hệ thống chính trị, thể hiện tập trung nhất ở nhà nước
(hay nói chung là của các cơ quan cơng quyền). Chính vì vậy, theo Frank Ellis,
Chính sách (Politicy) là các chủ trương, biện pháp, là sách lược, kế hoạch cụ
thể của chính phủ (cơ quan cơng quyền, của cơ quan nhà nước) đối với các lĩnh
vực đời sống xã hội. Như vậy, có thể nói tất cả các quyết định đưa ra từ cơ
quan công quyền đều được coi là chính sách cơng [4, tr.121]. Nói cách khác,
chính sách cơng là đường lối hành động mà chính phủ lựa chọn để thực hiện
các mục tiêu nhất định của nhà nước đối với những vấn đề xã hội nhất định.
Chính sách công là sản phẩm của nhà nước nên tất yếu là nó mang thể
chế, tính hợp pháp và tính cưỡng chế. Đó là một hệ thống các quyết định và
những tác động có ý thức (tự giác) của nhà nước đến đời sống xã hội, nhằm đạt
được các mục tiêu do nhà nước đã đặt ra trong quá trình thực thi quyền lực.
Thứ hai, chính sách cơng là thể hiện ý chí nhà nước trong giải quyết
các quan hệ xã hội được thể hiện thông qua tất cả những tác động, các chủ
trương của cơ quan công quyền. Trên ý nghĩa đó, E. Anlerson coi chính sách
cơng là những hoạt động mà chính quyền chọn làm hoặc khơng làm, cái gì
cấm làm hoặc cho phép làm đối với mỗi tổ chức kinh tế - xã hội và công dân
[4, tr.122]. Thơng qua chính sách cơng, nhà nước thực hiện các lợi ích của
giai cấp cầm quyền cũng như những lợi ích nhất định của cộng đồng xã hội.
Và như vậy, chính sách cơng là sự thể hiện uy lực, quyền lực công.


11
Thứ ba, chính sách cơng là chiến lược sử dụng các nguồn lực của nhà
nước thông qua việc phân bổ các giá trị xã hội, nhằm thực hiện lợi ích nào đó
cho giai cấp cầm quyền, cộng đồng xã hội, hoặc mang lại hiệu quả trong quản
lý xã hội của một quốc gia.

Trong xã hội dân chủ, quyền lực nhà nước là của dân, do dân ủy quyền,
thông qua phân bổ các giá trị xã hội cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trị cơng
bộc đối với nhân dân, nhà nước vì dân, nhà nước tạo thời cơ điều kiện để phát
huy tốt nhất các nguồn lực trong dân, gìn giữ hạnh phúc, an toàn cho mọi người
dân. Với ý nghĩa đó, chính sách cơng là cái thể hiện khả năng thực thi quyền lực
nhà nước, là công cụ để thực hiện ý chí nhà nước (hay ý chí của nhân dân).
Thứ tư, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên đời sống xã
hội ln có những biến đổi. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, điều kiện khác
nhau, với những quan hệ lợi ích khác nhau, đặt ra những yêu cầu khách quan
trong sự phát triển khác nhau. Do đó, trong các chủ trương chính sách nhà
nước, bên cạnh những yếu tố, những mặt ổn định, bất biến, cũng xuất hiện
những mặt, những yếu tố khả biến, đòi hỏi nhà nước phải ứng phó hiệu quả,
phải có những chủ trương, biện pháp, sách lược, kế hoạch thích hợp ở từng
thời kỳ. Do đó, chính sách cơng cịn là nghệ thuật để can thiệp cần thiết vào
đời sống xã hội của chính phủ.
Thứ năm, coi chính sách cơng là các quyết định, các chương trình hành
động của nhà nước và cũng có thể coi chính sách cơng là một chuỗi các hoạt
động có tính hệ thống của cơ quan nhà nước, được sắp xếp theo một trật tự
nhất định. Hệ thống này có mục tiêu dài hạn hoặc ngắn hạn và được tính tốn,
cân nhắc cẩn thận. Đó là một chuỗi những hoạt động như: Xác định chương
trình chính sách; xây dựng và lựa chọn chính sách; tổ chức thực hiện chính
sách; tổng kết, bổ sung, hồn thiện chính sách.
Thứ sáu, trong các xã hội hiện đại, chính sách cơng có quan hệ mật
thiết với quyết sách của đảng cầm quyền.


12
Quyết sách của đảng cầm quyền là chủ trương của tổ chức chính trị
nắm quyền đại diện ý chí chung của xã hội, chi phối tổ chức và hoạt động của
nhà nước. Do đó chính sách cơng có quan hệ mật thiết với các chủ trương,

đường lối của đảng cầm quyền. Trong mối quan hệ đó, chủ trương, đường lối
của đảng cầm quyền là sản phẩm của tổ chức chính trị (đảng cầm quyền) chi
phối nhà nước về mặt chính trị, nó mang tính ngun tắc chung, có tính định
hướng của đảng cầm quyền đối với nhà nước. Cịn chính sách nhà nước là sản
phẩm của cơ quan công quyền, của nhà nước, đồng thời là kết quả của quá
trình thể chế hóa các chủ trương của đảng cầm quyền thành các quyết định
mang tính nhà nước, buộc tồn xã hội thực hiện.
Chính sách cơng cũng liên quan mật thiết đối với ý chí, nguyện vọng
của nhân dân, được thể hiện thông qua những kiến nghị, đề xuất của các đồn
thể đại diện cho lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
Trên ý nghĩa đó, đường lối của đảng chính trị nói chung, của đảng cầm
quyền nói riêng và đề xuất của các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi
ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân có ảnh hưởng rất lớn đến q trình
hình thành chính sách cơng.
Mặc dù nhà nước là cơ quan quyền lực có tính độc lập cao, nhưng sự
phân biệt chính sách cơng với quyết sách của đảng cầm quyền chỉ là tương
đối. Trên thực tế có thể có những quyết định của đảng cầm quyền trực tiếp
được coi là ý chí nhà nước, là quyết định của nhà nước, là chương trình hành
động của nhà nước trong trường hợp đảng cầm quyền can thiệp sâu vào các
công việc nhà nước, đảng cầm quyền làm thay nhà nước, đảng cầm quyền và
nhà nước là một, khơng có sự phân biệt.
Tóm lại, chính sách cơng là chương trình hành động của nhà nước, là
ý chí nhà nước mang tính quy phạm pháp luật, nhằm giải quyết các vấn đề cụ
thể mà xã hội quan tâm trong những thời hạn nhất định, là chuỗi các quyết
định và hành vi nhất định của các cơ quan công quyền, nhằm quy định mục


13
đích và cách thức hành động của những đối tượng liên quan, nhằm thực thi
quyền lực nhà nước.

1.1.2. Vai trò của chính sách cơng
Chính sách cơng liên quan mật thiết đến giành, giữ và thực thi quyền
lực nhà nước nên chính sách cơng có vai trị rất quan trọng:
- Thơng qua chính sách cơng để thực hiện ý chí nhà nước, ý chí chung
của xã hội thơng qua việc thực hiện phân bổ các giá trị có lợi cho giai cấp cầm
quyền và đảm bảo nhất định công bằng xã hội, qua đó đảm bảo tính chính
đáng, củng cố địa vị của giai cấp cầm quyền.
- Thông qua một hệ thống các chính sách đúng, đáp ứng các yêu cầu
khách quan của sự phát triển, chính sách cơng tạo sự ổn định chính trị - xã hội
để phát triển. Chính sách đúng hay không đúng liên quan mật thiết tới phương
thức cai trị (hịa bình, mềm dẻo hay bạo lực cứng rắn). Tính ổn định có quan
hệ mật thiết với phát triển. Do đó, muốn có ổn định chính trị - xã hội, nhà
nước phải có những chính sách đúng, đáp ứng các yêu cầu khách quan trong
phát triển kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ, ở mỗi giai đoạn phát triển, chính
sách phải hợp lịng dân, phải hướng đến lợi ích của đại đa số nhân dân, tất
nhiên là khơng tuyệt đối.
- Do chính sách liên quan đến phân bổ hợp lý các nguồn lực, giá trị xã
hội nên việc ban hành và thực hiện chính sách có tác động đến khai thác hiệu
quả các nguồn lực xã hội (trong khi trên thực tế, khơng có một quốc gia nào
có dồi dào các nguồn lực vật chất và tinh thần).
- Cuối cùng, việc xây dựng chính sách một cách dân chủ, thông qua
việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách đúng, khơng ngừng đổi mới,
xây dựng, hồn thiện cơ chế, chính sách của nhà nước sẽ góp phần củng cố hệ
thống chính trị, trong đó phải nói đến củng cố các mối quan hệ trong hệ
thống, như quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước, giữa đảng với dân và
quan hệ giữa nhà nước với dân, củng cố các nguyên tắc dân chủ - pháp quyền,
xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân.


14

1.1.3. Chu trình chính sách cơng
Chu trình chính sách là tất cả các công việc từ đầu đến cuối của một
chính sách, kể từ khi nảy ra ý tưởng đến lúc kết thúc chính sách.
Chu trình chính sách cơng gồm các bước sau:
(1) Lựa chọn vấn đề chính sách;
(2) Quyết định, xây dựng và ban hành chính sách;
(3) Triển khai thực hiện chính sách;
(4) Đánh giá chính sách
Như vậy, Quá trình chính sách cơng được diễn ra theo từng chu trình
kín. Chúng ta xem xét từng bước của chu trình chính sách:
Bước 1: Lựa chọn vấn đề chính sách:
Trong đời sống kinh tế - xã hội có rất nhiều vấn đề mà nhà nước trong
cùng một lúc, hoặc trong một khoảng thời gian nhất định phải có trách nhiệm
giải quyết bằng các chính sách. Có rất nhiều nhu cầu, từ những vấn đề lớn
như phát triển kinh tế - xã hội, đến việc cung cấp một dịch vụ công cộng. Mỗi
nhu cầu như vậy liên quan đến một hoạc nhiều nhóm xã hội, được gọi là các
bên liên quan. Nhu cầu chính sách là một yếu tố đầu vào của hệ thống chính
trị, hay hẹp hơn là đầu vào của hệ thống chính sách.
Một chính sách ra đời bao giờ cũng là sản phẩm đầu ra của hệ thống
chính trị. Quá trình tạo ra được một “sản phẩm đầu ra” phải trải qua nhiều
cơng đoạn. Trước hết, đó là phải xác định được vấn đề của chính sách. Vấn đề
của chính sách nằm trong các nhu cầu chính sách (hay cịn gọi là nhu cầu
chính trị). Các nhu cầu này xuất phát từ lợi ích của cá nhân, các nhóm xã hội,
của các đảng chính trị, thậm chí là của các quốc gia cần được đáp ứng.
Trong thời điểm mà những vấn đề nêu trên trở thành bức xúc, trong khi
xã hội vẫn tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích của các nhóm dân cư, các
lực lượng chính trị, xã hội khác nhau thì làm sao có thể lựa chọn được vấn đề
đúng cho chính sách? Điều này liên quan đến yếu tố đầu vào thứ hai là thông



15
tin. Ai là người có khả năng cung cấp thơng tin, diễn giải về các vấn đề cho hệ
thống chính sách?
Các thông tin đến được với các nhà khoa học từ các nguồn khác nhau:
từ truyền miệng, qua dư luận, thông qua những kiến nghị bằng văn bản qua hệ
thống chính quyền, thơng qua truyền thơng đại chúng, từ các kết quả nghiên
cứu khoa học, từ hoạt động vận động hành lang, và từ nguồn thu thập thơng
tin chính thức của hệ thống các cơ quan hoạch định chính sách.
Vấn đề đặt ra ở đây là cho dù một vấn đề xã hội thực sự bức xúc hoặc
một sáng kiến chính sách rất tốt, nhưng nếu khơng có cách nào để đưa nó vào
trong chương trình nghị sự chính sách để có thể được lựa chọn, thì nó sẽ
khơng thể trở thành chính sách được. Đây là q trình thực thi quyền lực
chính trị và quyền lực nhà nước rất phức tạp thơng qua hệ thống chính trị và
hệ thống xã hội, mà kết quả phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan của
các lực lượng chính trị, của xã hội và của các nhà hoạch định chính sách.
Để có thể lựa chọn vấn đề chính sách cần có những tiêu chí, những u
cầu và cơng cụ nhất định. Chính sách phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Yêu cầu về tính chính trị:
Chính sách nếu được ban hành phải phù hợp với hệ tư tưởng của
đảng cầm quyền. Đáp ứng những ưu tiên chính trị mà nhà nước đang theo
đuổi. Có tác động rộng lớn đến đa số người dân và phù hợp với hồn cảnh
chính trị trong nước và thế giới…
- Yêu cầu về tính dân tộc:
Chính sách phải bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hóa, truyền
thống lịch sử dân tộc, năng lực cạnh tranh quốc gia trên thế giới; đảm bảo
cơng băng, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển giữa các tộc người
trong một quốc gia đa tộc người…
- Yêu cầu về tính nhân loại:
Chính sách phải phù hợp với xu hướng tiến bộ chung của nhân loại,
tuân thủ các điều ước, công ước quốc tế mà quốc gia là chủ thể luật; tích

cực tham gia phân cơng lao động quốc tế và quản trị toàn cầu


16
- Yêu cầu về tính khoa học:
Chính sách phải được hoạch định trên cơ sở những căn cứ khoa học, chứ
không phải từ những mong muốn chủ quan; phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình
hoạch định chính sách; phải xác định chính xác nhưng nguồn lực, phương tiện
trong thực hiện chính sách, phải khả quy trách nhiệm và giải trình…
Để đảm ứng các u cầu của chính sách, ba cơng cụ trong hoạch định
chính sách cơng được coi là bắt buộc phải sử dụng. Đó là:
Tầm nhìn, Theo đó, phải dựa trên những căn cứ khoa học, để hình
dung rõ ràng kết quả có thể có của chính sách trong một khoảng thời gian
mà chính sách tác động, trong những bối cảnh liên quan đến chính sách.
Phân tích lợi ích các bên liên quan
Các nhà hoạch định chính sách cần tính đến những lợi ích và phản
ứng của các nhóm khác nhau trong q trình lựa chọn vấn đề chính sách.
Vấn đề càng phức tạp, có liên quan đến nhiều các chủ thể, đối tượng tham
gia vào quá trình thực hiện và hưởng thụ chính sách. Một chính sách tác
động với một phạm vi càng rộng thì cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi,
thơng thường một chính sách đưa ra bao giờ cũng mang lại lợi ích và thiệt
hại tiềm năng cho một bên và có thể sẽ làm lợi cho nhóm này song cũng
đồng thời làm thiệt hại cho một nhóm khác, có thể dẫn đến xung đột lợi ích
trong q trình thực hiện chính sách. Ví dụ, các chính sách bảo trợ xã hội sẽ
làm lợi cho các nhóm yếu thế, nhưng buộc các nhóm trung lưu hoặc giàu
phải đóng nhiều thuế hơn. Mặc khác, khi thấy được lợi ích tương đồng, có
thể xây dựng các liên minh, sự liên kết, phối hợp hành động hiệu quả hơn
trong các q trình chính sách. Sự phân tích lợi ích các bên liên quan còn
giúp nhà hoạch định chính sách trở nên khách quan hơn, thoát được những
áp lực do các nhóm vận động hành lang và các nhóm lợi ích gây nên.

Xác định nguồn lực thực hiện chính sách:
Các nguồn lực thực hiện chính sách, gồm con người, tài chính, cơng
nghệ, cơ sở vật chất khác…Cần xác định rõ và chính xác từng loại nguồn lực
và khả năng huy động.


17
Từ tất cả các thông tin trên, hệ thống hoạch định chính sách sẽ xây
dựng các phương án giải quyết vấn đề, xây dựng liên minh chính trị, thỏa
hiệp, quyết định và ban hành chính sách.
Bước 2: Xây dựng và ban hành chính sách.
Chính sách là một dạng quy phạm pháp luật, khi ban hành phải tuân thủ
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Bước 3: Triển khai, thực hiện chính sách.
Sau khi chính sách được soạn thảo, ban hành, triển khai, quá trình tiếp
theo là các chủ thể triển khai chính sách; các đối tượng chính chịu sự tác động
của chính sách, diễn giải chính sách; các vấn đề về cưỡng chế và khuyến
khích việc thực hiện chính sách. Vấn đề này sẽ được bàn kỹ hơn trong mục
thực hiện chính sách.
Bước 4: Đánh giá, tổng kết chính sách.
Khâu quản lý chính sách có đạt được những mục tiêu đặt ra hay không
phải được thể hiện trong công đoạn đánh giá, tổng kết. Vì vậy, tổng kết để
đánh giá quá trình triển khai, hiệu quả triển khai và các tác động thực tế của
chính sách. Việc đánh giá chính sách được thực hiện trên một số khía cạnh
như: đánh giá chính trị, đánh giá kỹ thuật, đánh giá tồn diện, phân tích chi
phí lợi nhuận, phân tích từ góc độ thơng tin, những hạn chế của chính sách,
những kinh nghiệm được rút ra để phục vụ cho việc đề xuất, soạn thảo những
chính sách mới phù hợp hơn.
1.2. ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH – MỘT GIAI ĐOẠN CỦA CHU
TRÌNH CHÍNH SÁCH CƠNG


Đánh giá tổng kết chính sách là so sánh kết quả thực hiện chính sách
với mục tiêu xác định ban đầu để xác định mức độ thành công hay thất bại
của chính sách cơng. Việc đánh giá này nhằm phát hiện những điểm khơng
hợp lý trong chính sách đã được ban hành, từ lựa chọn, xây dựng và ban hành,
đến những sai lệch trong quá trình triển khai thực hiện chính sách; phát hiện
những vấn đề mới phát sinh, nằm ngồi dự kiến. Trên cơ sở đó, chủ thể chính


18
sách có thể thực hiện những điều chỉnh chính sách cần thiết, bảo đảm củng cố
giá trị chính sách, củng cố được niềm tin của các chủ thể tham gia thực hiện
chính sách cũng như các đối tượng chính sách…Trên cơ sở đó, chủ thể chính
sách có thể bổ sung, điều chỉnh hoặc kết thúc chính sách.
Trước đây, do tâm lý “sự đã xong” và áp lực của công chúng khơng cao
khiến các nhà làm chính sách khơng có động lực để thực hiện những đánh giá
sau khi việc triển khai chính sách đã được hồn thành. Đồng thời, do hạn chế
về nguồn lực cũng như năng lực sử dụng các phương pháp nên khâu này cũng
ít được thực hiện trong q trình xây dựng và triển khai chính sách. Tuy nhiên,
dưới sự tác động của nhiều yếu tố, hiện nay, giai đoạn đánh giá chính sách đang
được nhìn nhận rõ ràng hơn, và được thực hiện nghiêm túc hơn.
Việc đánh giá một chính sách thơng thường nhằm trả lời các câu hỏi
như: Việc triển khai chính sách có tốt khơng? Chính sách có tác động đến các
đối tượng như dự tính ban đầu khi xây dựng chính sách hay khơng? Nếu có
thì tác động như thế nào? Với hiệu quả ra sao? Ai đánh giá các tác động này?
Các phản hồi của chính sách này là gì?”
Mặc dù về logíc phân tích, việc đánh giá chính sách là giai đoạn cuối
trong q trình triển khai chính sách, trong thực tế việc đánh giá một chính
sách có mặt trong suốt q trình của một chính sách.
Việc đánh giá chính sách cả trước và sau khi triển khai như vậy có ảnh

hưởng sống cịn với chính sách đó. Điều này có ý nghĩa là nó ảnh hưởng đến
tất cả các chủ thể liên quan - các nhóm ủng hộ, các chuyên viên xây dựng
chính sách, các cơ quan triển khai - khơng những về phương diện vật chất mà
cịn cả uy tín và sinh mạng chính trị của họ. Chính vì vậy, việc đánh giá chính
sách khơng đơn thuần là các đòi hỏi kỹ thuật khách quan để hiểu thấu đáo tác
động của chính sách đó.
1.2.1. Mục đích của đánh giá chính sách
Có rất nhiều mục đích trong việc đánh giá chính sách, song có thể rút ra
3 mục đích quan trọng nhất như sau:


19
- Đo lường các kết quả thực hiện chính sách: Đây là mục đích song
cũng đồng thời là nội dung và bản chất của đánh giá chính sách. Thơng qua
mối tương quan chi phí - lợi ích, để xem xét lợi nhuận trực tiếp từ chính sách,
lấy đó làm cơ sở nhằm đưa ra những nhận định về kết quả của chính sách hiện
hành sau khi so sánh với mục tiêu ban đầu.
- Xác định được mức độ thỏa mãn của các đối tượng chính sách:
Mỗi chính sách được xây dựng và đưa vào triển khai đều nhằm giải quyết
một vấn đề bức thiết của một nhóm đối tượng xác định. Thơng qua đánh
giá chính sách có thể biết được hiệu quả của chính sách theo nghĩa định
tính thơng qua mức độ hài lịng của người dân (nhóm đối tượng chịu tác
động từ chính sách).
- Điều chỉnh, hồn thiện chính sách: Cơng việc đánh giá chính sách
khơng chỉ để thỏa mãn việc cung cấp thông tin về các kết quả định tính và
định lượng từ trước cũng như sau khi thực hiện chính sách, mà cịn là tấm
gương phản ảnh rõ nhất những thiếu sót đã mắc phải trong các khâu hoạch
định và thực hiện chính sách. Qua đó, giúp cơ quan chính sách sửa chữa
những thiết sót điều chỉnh và hồn thiện chính sách.
1.2.2. Phân loại đánh giá chính sách

Mỗi tiêu chí có một các cách phân loại khác nhau, trong đó dựa theo
tính chất và mức độ là cách phân loại phổ biến nhất, gồm 3 loại: Đánh giá
chính trị, đánh giá kỹ thuật, đánh giá tồn diện [22, tr.231].
- Đánh giá chính trị. Kiểu đánh giá này tập trung vào khía cạnh khả thi
chính trị của một chính sách, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình, khi
chính sách chưa được thơng qua. Những người xây dựng chính sách, khơng
những chỉ quan tâm đến nội dung cụ thể của một chính sách mà trước hết là
về mặt chính trị của nó, xem chính sách có đáp ứng được yêu cầu về chính trị
(xem yêu cầu về tính chính trị) hay khơng?


20
- Đánh giá kỹ thuật:
Trước hết là đánh giá về “quy trình kỹ thuật” trong chu trình chính sách.
Q trình hoạch định và thực hiện chính sách có đúng quy trình chính sách hay
khơng. So sánh kết quả đạt được với những đòi hỏi đặt ra ban đầu về các yếu tố
tạo thành chính sách, từ mục tiêu tổng thể, đến hiệu quả kinh tế, xã hội…
Cách đánh giá này sẽ trả lời được các câu hỏi: Chính sách đã được triển
khai theo đúng ý định ban đầu chưa, đã có hiệu quả cao nhất chưa (chi phí tối
thiểu và lợi ích tối đa), các tiêu chí định lượng đã đạt được ở mức độ nào… Kiểu
đánh giá này hoàn tồn mang tính kỹ thuật và định lượng, phạm vi xem xét cả nó
là khá hẹp và thực chứng thơng qua các số liệu. Đặc điểm này vừa quy định mặt ưu
lẫn nhược điểm của kiểu đánh giá này. Về ưu điểm, chúng ta có thể có được những
số liệu thực và tính chính xác cao; tuy nhiên nhược điểm của nó là thơng thấy được
hết các tác động gián tiếp lên tồn bộ xã hội, do đó cũng chưa đưa ra được kết luận
về mục tiêu tổng thể của chính sách đó đã đạt được hay chưa. Những tác động gián
tiếp này còn được gọi là điểm mù trong tác động của chính sách.
Chúng ta có thể quan sát điều này thơng qua đồ thị sau:
Hiệu quả xóa đói,
giảm nghèo


A (Xác định được)

3

X

B (Không xác định được)

2
t=0

t=1

Thời gian


21
Rõ ràng với chính sách Xóa đói giảm nghèo, trong thời gian t = 0, tức
trước khi triển khai chính sách và t = 1, sau khi chính sách được triển khai,
hiệu quả kỹ thuật có thể tính được là 3 - 2 = 1. Tuy nhiên, trong thời điểm
thực hiện chương trình [khoảng giữa t(0) và t(1)] có rất nhiều điều diễn ra. Và
cùng thời điểm t = 1 thì vẫn có một nhóm chỉ nhận được kết quả X. Vậy, điểm
B là điểm khơng nhìn thấy được với những đánh giá kỹ thuật đơn thuần. Lúc
này khả năng phải xem xét là có những đối tượng chịu tác động gián tiếp từ
chính sách, khơng phải là đối tượng thụ hưởng mà là nhóm nhân chứng. Họ
có thể được hưởng lợi ích tham chiếu từ chính sách, đấy là lúc chính sách có
những tác động tích cực, song cũng có trường hợp họ bị thiệt từ chính sách.
- Đánh giá toàn diện: Kiểu đánh giá này đặt ra tiêu chí đánh giá tác động
của chính sách phải khách quan, tồn diện, hệ thống và nghiêm ngặt. Câu hỏi

chính cần giải đáp ở đây là: Điều gì đã diễn ra (sẽ diễn ra) nếu chính sách
khơng được triển khai? Qua đó, sự đánh giá giúp làm sáng tỏ các tác động gián
tiếp về xã hội, mơi trường và chính trị thông qua những con số được quy ra
bằng tiền. Điều này tăng sức thuyết phục của kết quả đánh giá. Đây cũng là xu
hướng đánh giá mà các nước trên thế giới đã và đang thực hiện.
Kỹ thuật dùng chủ yếu ở đây là phân tích chi phí - lợi ích xã hội, tuy
nhiên sử dụng những phương pháp nào để lượng hóa được những yếu tố đó vẫn
đang là một thách thức của các ngành khoa học xã hội nói chung và chính sách
cơng nói riêng. Thứ nhất, khả năng mơ phỏng chính sách trên lý thuyết chịu
q nhiều tác động trên thực tế bởi sự chi phối của các thể chế thị trường khác
nhau. Thứ hai, việc đo lường hành vi của các tác nhân cũng trở nên rất phức
tạp, và cần đến sự nghiên cứu sâu hơn bởi sự thay đổi động cơ và phản ứng của
các tác nhân làm biến đổi sâu sắc đến các tác động của chính sách. Thứ ba, việc
đánh giá vốn dựa trên mục tiêu, song làm rõ các mục tiêu xã hội một cách cụ
thể và thỏa mãn tiêu chí cơng bằng và dân chủ cũng là một thách thức của khoa
học chính sách cơng lẫn hoạt động hoạch định chính sách thực tiễn.


22
1.2.3. Các chủ thể đánh giá chính sách
- Chủ thể đánh giá chính sách chính là chủ thể hoạch định và triển khai
chính sách – cơ quan cơng quyền.
Do nắm chắc và hiểu rõ các vấn đề của chính sách từ các giai đoạn của
chu trình chính sách, cơ quan cơng quyền có đầy đủ thơng tin, cơng cụ và các
điều kiện khác để đánh giá chính sách. Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều lý do,
cơ quan công quyền có thể đánh giá chủ quan, thiếu khoa học.
- Chủ thể tham gia thực hiện chính sách.
Các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cộng đồng, các
doanh nghiệp…là những hiểu rõ những vấn đề trong q trình thực hiện chính
sách, những thuận lợi, những khó khăn, xưng đột mà họ đã gặp phải và đương

đầu. Vì vậy những đánh giá của họ là những căn cứ đáng tin cậy.
- Các cơ quan nghiên cứu khoa học, các chuyên gia, những nhà khoa
học độc lập:
Những đánh giá của các chủ thể này sẽ góp phần làm cho chính sách có
tính khách quan và khoa học.
- Đánh giá của người dân:
Việc đánh giá của người dân khơng những đáp ứng u cầu dân chủ, mà
cịn hiệu quả và ít tốn kém. Người dân sẵn sàng chia sẻ chi phí cho việc đánh
giá và sẵn sàng nói rõ những sai sót, chệch hướng trong q trình thực hiện, sẵn
sàng ngăn chặn các diễn biến xấu.
Đối với nhóm dân cư trực tiếp thụ hưởng (đối tượng trực tiếp của chính sách),
việc cảm nhận và đánh giá của họ càng quan trọng. Ý nghĩa rất lớn của việc đánh giá
của nhân dân đối với q trình thực hiện chính sách là bởi vì họ là những người giám
sát quá trình chính sách, như là một q trình thực thi quyền lực nhà nước.
1.3. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC TỘC
NGƯỜI THIỂU SỐ

1.3.1. Chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử. Nhìn chung,
trong q trình lịch sử, trong sự chuyển đổi của các quan hệ về kinh tế và đời


23
sống thì các quan điểm về mục đích và nhiệm vụ của “chính sách xã hội” lại
được thay đổi khác nhau. Mục đích của “chính sách xã hội” là nhằm để cải
cách xã hội trong những thời điểm nhất định, cho một dân tộc nhất định trước
những vấn đề nghiệt ngã hoặc nghiêm trọng của xã hội. Với cách giải thích
như vây thì chúng ta cũng dễ hiểu về chính sách ưu đãi người có cơng với
cách mạng hiện nay cũng là bộ phân hết sức quan trọng của hệ thống chính
sách xã hội, nó phản ánh giai đoạn lịch sử nước ta đã trải qua các cuộc chiến

tranh giành lại độc lập, tư do và hiện nay chúng ta vẫn phải đang giải quyết
những hậu quả của cuộc chiến tranh đó.
Đến nay, “Chính sách xã hội” có thể hiểu: Là chương trình hành động
của Nhà nước nhằm làm hạn chế các rủi ro xã hội, ngăn ngừa việc xẩy ra
những hậu quả xấu, ổn định và cải thiện cơ sở thu nhập, các khoản trợ cấp
cũng như đời sống của các thành viên trong xã hội. Những biện pháp của
“chính sách xã hội” sẽ được vận động dựa trên cơ sở các chính sách kinh tế
của nền kinh tế thị trường.
Các rủi ro xã hội thường mang lại một cách ngẫu nhiên trong đó cũng có
nguyên nhân do hậu quả của vấn đề dân số trên phạm vi rộng lớn của quốc gia.
Từ sự nghèo đói, bệnh tật, tai nạn, mất việc làm, không nhà ở đã dẫn đến trước
hết làm mất cân đối một cách thường xuyên đối với những nhóm dân cư, làm
ảnh hưởng xấu đến tình trạng việc làm, nghề nghiệp, sức khoẻ, gia đình và thu
nhập và từ đó gây hậu họa cho xã hội. Trong một tổ chức xã hội của nền kinh tế
thị trường hình thành một cách đồng bộ các yếu tố kinh tế - xã hội mang tính
điều kiện. Các yếu tố này tạo nên cấu trúc cơ bản của xã hơi, nó sẽ có tác động
mạnh mẽ đến các ngun nhân, đến tính tích cực của các tác động và sự phân
chia các rủi ro trên phạm vi rộng lớn cũng như làm hạn chế các khả năng tạo ra
sự không công bằng về sự phân chia cũng như sự không công bằng về đời sống.
Ở nước ta hiện nay, chính sách xã hội được hiểu theo nghĩa: là hệ thống
công cụ tác động vào con người, vào các tổ chức và đoàn thể xã hội nhằm


×