Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP Dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.74 KB, 79 trang )

Trần Thị Kim Chi - TC12B
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tại Việt Nam, doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ một vị trí quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt sau khi có sự chuyển đổi kinh tế
từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
(năm 1986). Sau Đại hội VI, thành phần kinh tế tư nhân bắt đầu được quan tâm
đúng mức. Khẳng định kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế quan trọng
trong nền kinh tế thị trường có sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, đóng góp
quan trọng vào sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Các hộ kinh
doanh cá thể, các doanh nghiệp tư nhân được thành lập tăng lên nhanh chóng,
chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Các doanh nghiệp này có vốn đầu
tư ít nhưng lại sử dụng một lượng lao động rất lớn. Theo thống kê hiện nay các
DNV&N chiếm tới 95% trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước, đóng
góp vào 30% GDP, thu hút 70% lao động làm việc trong lĩnh vực phi nông
nghiệp, địa bàn hoạt rộng khắp trên cả nước. Cùng với sự phát triển của các
DNV&N, có một thực tế các doanh nghiệp này đang rất thiếu vốn để có thể mở
rộng sản xuất kinh doanh. Các DNV&N sử dụng nguồn vốn tự có hay huy động
từ người thân không đáp ứng được yêu cầu về thời gian và số lượng. Phát hành
Trái phiếu, Tín phiếu doanh nghiệp cũng không phải là một giải pháp tốt khi chi
phí phát hành tương đối tốn kém, thời gian dài và một vướng mắc lớn nhất là đa
số các DNNVV rất khó phát hành đủ lượng vốn cần thiết theo kế hoạch do
người mua thiếu thông tin về doanh nghiệp phát hành. Do đó, để loại hình doanh
nghiệp này hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích cho nền kinh tế, bên cạnh nỗ
lực của bản thân các doanh nghiệp để khắc phục những yếu điểm nội tại, cần có
sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước, của hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác.
Thực tế cho thấy việc tiếp cận nguồn vốn Ngân hàng của các doanh
nghiệpvừa và nhỏ là không đơn giản. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp
1
Trần Thị Kim Chi - TC12B


nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là mối quan
tâm đặc biệt của các NHTM, trong đó không loại trừ NHTMCP Dầu khí – GP
Bank. Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP Dầu
khí” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
*Khoá luận hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân
hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế thị trường. Từ đó thấy rõ được tầm quan trọng và ý nghĩa của
việc nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
* Đánh giá thực trạng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
NHTMCP dầu khí, những kết quả đạt được và những hạn chế cần khắc phục.
* Từ thực tế, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để nâng cao chất lượng
tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP dầu khí.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận là hoạt động tín dụng
ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP Dầu khí
* Phạm vi nghiên cứu: những vấn dề liên quan tới cơ chế, định hướng
chính sách cho hoạt động tín dụng, các giải pháp, quy trình cho vay tại
NHTMCP Dầu khí trong thời gian từ 2007 – 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong khoá luận có sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kết
hợp lịch sử với logic, phương pháp hệ thống, thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp… và minh hoạbằng các bảng, biểu số liệu được thu thập qua nhiều năm.
5. Kết cấu của đề tài.
2
Trần Thị Kim Chi - TC12B
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được kết cấu thành 3 chương
như sau:

Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP Dầu khí
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP Dầu khí
Đề tài khoá luận này là một lĩnh vực rộng và phức tạp. Do trình độ lý luận
cũng như thực tiễn còn hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót.
Vì vậy,em mong nhận được sự tham gia góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị
tại NHTMCP Dầu khí để bổ sung và hoàn thiện khoá luận của em được hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

3
Trần Thị Kim Chi - TC12B
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1.1.Khái niệm.
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá. Quan hệ tín dụng
phát sinh từ nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất của các chủ thể trong nền kinh tế.
Tín dụng trước hết được hiểu là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau
dưới hình thức tiền tệ hay hàng hóa dựa trên nguyên tắc có hoàn trả và tin tưởng
nhau. Theo định nghĩa của Luật các tổ chức tín dụng (2003) thì: “Tín dụng là
một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hay
tài sản cho bên kia sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời bên
nhận tiền hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thỏa thuận” .

Căn cứ vào chủ thể tham gia quan hệ tín dụng, các hình thái tín dụng bao
gồm: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước và tín dụng
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại,tín dụng Ngân hàng ngày
càng phát triển mạnh mẽ và đóng góp vai trò ngày càng quan trọng vào sự phát
triển của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản(tiền hoặc hàng hoá) giữa
bên cho vay (Ngân hàng) và bên đi vay(cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó Ngân hàng chuyển quyền sử dụng cho bên đi vay trong một
khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vốn gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
4
Trần Thị Kim Chi - TC12B
Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà ngân hàng đóng vai trò trung
gianhuy động vốn từ các chủ thể có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay đối
với các chủ thể có nhu cầu về vốn. Vì thế, tín dụng ngân hàng là hình thức tín
dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho
nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
1.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Một là: Quan hệ tín dụng được thiết lập trên cơ sở lòng tin. Các DNV&N
tin rằng sau một khoảng thời gian nhất định, phương án và dự án kinh doanh của
họ sẽ có hiệu quả và tạo ra lợi nhuận đảm bảo nguồn trả nợ cho ngân hàng. Các
Ngân hàng cũng tin tưởng rằng sau khoảng thời gian đã thoả thuận trong HĐTD,
khách hàng sẽ hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi vay. Như vậy cơ sở
lòng tin này được hình thành thông qua uy tín của DNV&N, giá trị tài sản đảm
bảo, tính khả thi và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, uy tín của
người bảo lãnh…
Hai là: Tín dụng ngân hàng mang tính thời hạn. Thời hạn của một khoản
vay phụ thuộc vào đặc điểm luân chuyển vốn, chu kỳ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, tính chất nguồn vốn của ngân hàng.

Ba là: Tín dụng ngân hàng mang tính hoàn trả. Giá trị hoàn trả thông
thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Điều đó có nghĩa là, doanh nghiệp vay
vốn phải hoàn trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Lãi cho vay chính là chi phí cho
việc sử dụng vốn của DNV&N trong một khoảng thời gian nhất định.
Bốn là: Tín dụng ngân hàng đối với DNV&N mang tính rủi ro cao. Khả
năng thu hồi nợ của Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả sản xuất kinh
doanh của DNV&N. Trong khi đó môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
thường xuyên biến động, chịu tác động của nhiều nhân tố: lạm phát, sự biến
động tỷ giá, lãi suất thị trường…
5
Trần Thị Kim Chi - TC12B
1.1.1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
a. Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu, tập
trung vào sản xuất và khai thác tối đa tiềm năng của DNV&N.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn
tự có của mình để sản xuất kinh doanh. Vì như vậy sẽ gây lãng phí, hạn chế khả
năng mở rộng sản xuất cũng như làm tăng giá vốn của doanh nghiệp. Thông
thường ngoài vốn tự có, doanh nghiệp thường sử dụng vốn đi vay từ ngân hàng.
Tuy nhiên nếu sử dụng vốn vay quá lớn sẽ làm tăng chi phí trả lãi, giảm lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Do vậy các DNV&N cần thiết phải xây dựng một cơ
cấu vốn tối ưu với số lượng nợ vay hợp lý. Điều này không những làm giảm bớt
rủi ro mất vốn cho doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận
tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
b. Tín dụng ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi đưa vào đầu tư,đáp ứng nhu cầu vốn để dảm bảo cho hoạt động của
doanh nghiệp được liên tục, thuận lợi và góp phần tái sản xuất mở rộng nền
kinh tế.
Thông qua quá trình tập trung và phân phối vốn, NHTM với tư cách là
trung gian tài chính, tiến hành huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tất

cả các thành phần kinh tế và trong dân cư để cho vay đối với nền kinh tế. Nhờ
nguồn vốn mà ngân hàng cho vay, doanh nghiệp không những đảm bảo cho hoạt
động sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến
kĩ thuật, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó các doanh
nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh quá trình tái sản
xuất mở rộng. Như vậy tín dụng ngân hàng không chỉ còn là nguồn vốn bổ sung
để bù đắp nhu cầu vốn tạm thời mà đã dần trở thành nguồn vốn chủ yếu, quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNV&N hiện nay.
6
Trần Thị Kim Chi - TC12B
c. Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo áp
lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Bản chất của tín dụng ngân hàng không phải là hình thức cấp phát vốn mà
phải hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã thoả thuận. Do vậy có thể trả hạn
cho ngân hàng và toạ lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng,
doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả. Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là
một yếu tố kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, đảm bảo
tạo ra tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng để có thể trả được nợ vay. Về
phía ngân hàng, để đảm bảo an toàn tránh rủi ro không thu hồi được vốn, ngân
hàng chỉ cho vay đối với doanh nghiệp có uy tín, có phương án sản xuất kinh
doanh khả thi hiệu quả. Muốn vậy doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ thị trường,
định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng thời thúc đẩy đổi
mới công nghệ, cải tiến sản phẩm để rút ngắn chu kỳ sản xuất, tăng nhanh vòng
quay vốn để nâng cao vị thế trên thị trường, tạo lập uy tín đối với ngân hàng.
Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, ngân hàng thường xuyên kiểm
tra, giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải sử
dụng vốn vay đúng mục đích để đem lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, vai trò
tư vấn của cán bộ tín dụng giúp doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn để tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
d.Tín dụng ngân hàng kích thích tính năng động linh hoạt của các

doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNV&N trên thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan: quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh… Khi nhu cầu của thị trường ngày càng cao, để
có thể đứng vững trên thị trường các DNV&N phải chủ động ứng dụng những
thành tựu mới, đổi mới công nghệ, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nâng cao
chất lượng lao động, tìm kiếm thị trường mới, mở rộng quy mô sản xuất một
7
Trần Thị Kim Chi - TC12B
cách thích hợp…Để thực hiện những hoạt động này, đòi hỏi một khối lượng lớn
về vốn, có thể vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó
khăn này, doanh nghiệp đã tìm tới sự hỗ trợ của ngân hàng. Nguồn vốn tín dụng
ngân hàng giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản
xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo chỗ
đứng vững chắc trong cạnh tranh.
e. Tín dụng ngân hàng giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần tạo
nên một cơ cấu kinh tế hợp lý và là công cụ tài trợ lực cho các ngành kinh tế
mũi nhọn và các ngành kinh tế kém phát triển.
Tín dụng ngân hàng là một công cụ hữu hiệu cho việc thay đổi cơ cấu sản
xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong
nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế bằng việc di chuyển vốn từ
ngành này sang ngành khác. Các nhà sản xuất kinh doanh sẽ dễ dàng chuyển từ
những ngành có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao, tạo điều kiện cho
việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nhằm hình thành nên một
cơ cấu kinh tế hợp lý. Đối với những ngành kinh tế mũi nhọn hoặc những ngành
kinh tế kém phát triển, Ngân hàng sẽ thực hiện những chính sách ưu đãi về lãi
suất, giúp các ngành nghề hay khu vực đó dễ dàng tiếp cận được vốn vay Ngân
hàng, thông qua đó làm đòn bẩy để các ngành đó phát triển.
f. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình

mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các nước trong khu vực
và trên thế giới mở rộng, phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Đầu tư vốn ra
nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực
hợp tác kinh tế phổ biến nhất giữa các nước. Ngân hàng với tư cách là tổ chức
kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động cho vay, bảo lãnh trở thành người cung
cấp vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá. Đồng thời nguồn tín dụng
bên ngoài cũng góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Từ đó Ngân hàng sẽ
8
Trần Thị Kim Chi - TC12B
trở thành đòn bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là
phương tiện nối liền nền kinh tế các nước.
1.1.2. Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn vay đa dạng, phong phú và khả
năng kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đòi hỏi tín dụng
ngân hàng phải có nhiều phương thức cho vay phù hợp. Có thể xem xét một số
hình thức tín dụng chủ yếu sau:
a. Cho vay từng lần:
Hình thức tín dụng này được thực hiện cho vay những khách hàng không
có nhu cầu vay vốn bổ sung thường xuyên hoặc khách hàng có quan hệ lần đầu
và có giá trị khoản vay nhỏ .Mỗi lần vay khách hàng và ngân hàng thực hiện các
thủ tục vay vốn, ký kết, giải ngân, thu nợ theo từng HĐTD. Việc rút vốn vay có
thể được thực hiện một lần hay nhiều lần phù hợp với tiến độ sử dụng vốn vay
thực tế của khách hàng nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn không được vượt
quá số tiền trong HĐTD. Thời hạn cho vay của phương thức này được xác định
phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Với
hình thức này, ngân hàng có thể kiểm soát, quản lý việc sử dụng vốn vay của
khách hàng.
b. Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời

gian nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng (thường là một năm).Cho vay theo hạn mức tín dụng thường được áp dụng
đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn - trả nợ thường xuyên, có đặc điểm sản
xuất kinh doanh luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng
lần và có uy tín với ngân hàng . Theo phương thức này khách hàng được cấp
một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Ngân hàng
và khách hàng căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với tài sản đảm bảo, khả năng
9
Trần Thị Kim Chi - TC12B
nguồn vốn của ngân hàng để tính toán và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy
trì trong thời hạn nhất định không theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. HĐTD hạn
mức chỉ hết hiệu lực khi khách hàng trả hết vốn, lãi vay và các chi phí khác (nếu
có) của tất cả khế ước nhận nợ phát sinh từ HĐTD hạn mức.
c. Cho vay theo dự án đầu tư.
Đây là hình thức cho vay đối với những khách hàng co nhu cầu vay để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án
phục vụ đời sống. Tổng nhu cầu vốn được tài trợ cho tài sản cố định và nhu cầu
vốn lưu động của dự án. Ngân hàng cho vay cùng với khách hàng kí HĐTD và
thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định
các kì hạn trả nợ. Thời hạn cho vay bao gồm thời hạn ân hạn và thời hạn trả nợ,
không được vượt quá thời gian hoạt động của dự án. Trong thời hạn rút vốn quy
định trong HĐTD, khách hàng có thể rút vốn nhiều lần phù hợp với tiến độ thực
hiện dự án nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn không vượt quá số tiền cho
vay đã thoả thuận.
d. Cho vay hợp vốn.
Phương thức này áp dụng khi số tiền cho vay tối đa của một ngân hàng
đối với một khách hàng chỉ đáp ưng được một phần nhu cầu vay vốn của khách
hàng để thực hiện dự án đầu tư phát triển kinh doanh. Hình thức này cũng được
sử dụng khi ngân hàng muốn phân tán rủi ro khi cho vay một dự án lớn. Khi đó

các ngân hàng tham gia cho vay hợp vốn sẽ cùng kí vào hợp đồng đồng tài trợ
để xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi ngân hàng trong toàn bộ quá trình cho
vay. Trong phương thức này, sẽ có một ngân hàng đầu mối đứng ra ký khế ước
cho vay mỗi lần giải ngân và thu nợ khách hàng.
e. Cho vay trả góp.
Là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi)
cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay,
mỗi kỳ trả một phần gốc và lãi vay. Phương thức này thường được áp dụng đối
với những khoản vay có giá trị lớn, người đi vay có nguồn thu nhập định kỳ,
10
Trần Thị Kim Chi - TC12B
nhưng không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Khách hàng thường
có nhu cầu vay vốn để mua sắm tài sản tiêu dùng sinh hoạt, chi trả chi phí du
lịch… hoặc phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Đối với phương thức này, lãi suất cho
vay có thể tính theo lãi suất trả góp hoặc tính theo dư nợ vốn gốc thực tế.
f. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
Phương thức này áp dụng đối với khách hàng cần dự phòng nguồn vốn tín
dụng trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đảm bảo khả năng chủ động về
tài chính khi thực hiện dự án đầu tư. Sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết, khách
hàng và ngân hàng ký HĐTD hạn mức dự phòng, trong đó ngân hàng cam kết
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng dự phòng
trong một khoảng thời gian nhất định và khách hàng phải trả phí cho hạn mức
tín dụng dự phòng. Trong thời hạn rút vốn, nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn
thì phải ký khế ước nhận nợ và gửi kèm bản sao các tài liệu chứng minh mục
đích sử dụng vốn vay phù hợp với HĐTD hạn mức đã ký. Tổng số lần rút vốn
không được vượt quá hạn mức tín dụng dự phòng và thời hạn cho vay trong
từng khế ước nhận nợ không được vượt quá thời hạn cho vay quy định trong
HĐTD hạn mức dự phòng.
g. Cho vay theo hạn mức thấu chi.
Trong hình thức cho vay thấu chi, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng

chi vượt số tiền hiện có trên tài khoản thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong một khoảng thời gian cho phép. Hầu hết các NHTM áp dụng
hình thức tín dụng này đối với các khách hàng quen thuộc, độ tin cậy cao,
thường xuyên có số dư tiền gửi thanh toán lớn, nhu cầu thanh toán thường
xuyên. Đây là một hình thức tín dụng linh hoạt tạo thuận lợi cho khách hàng
trong thanh toán, còn các ngân hàng được mở rộng, tăng cường khả năng thu hút
được nhiều hơn khách hàng đến với ngân hàng, tăng nguồn thu từ dịch vụ thanh
toán .
11
Trần Thị Kim Chi - TC12B
h. Các hình thức cho vay khác.
Ngoài các hình thức cho vay trên, tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa ngân
hàng và doanh nghiệp, còn có các phương thức cho vay khác như chiết khấu,
cho thuê tài chính, cho vay dưới hình thức bảo lãnh…
1.1.3. Quy trình tín dụng ngân hàng đối với DNV&N.
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro và
nâng cao doanh lợi, mỗi ngân hàng cần thiết phải thiết lập một quy trình tín
dụng hợp lý. Có thể nói quy trình tín dụng là quy phạm nghiệp vụ bắt buộc trong
nội bộ ngân hàng. Một khoản tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ phải
được thực hiện theo một quy trình sau:
Bước 1: Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi hồ sơ vay vốn tới ngân
hàng. Hồ sơ vay vốn bao gồm:
* Giấy đề nghị vay vốn.
* Các tài liệu chứng minh năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự như
giấy phép thành lập, đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động…
* Phương án, dự án vay vốn.
* Các tài liệu liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay, tính khả thi của
phương án, dự án vay vốn.
* Các tài liệu chứng minh tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài
chính của khách hàng vay, bên bảo lãnh (nếu có): báo cáo tài chính và thuyết

minh báo cáo tài chính (trong 3 năm gần nhất), báo cáo tình hình vay nợ, hàng
tồn kho, khoản phải thu, phải trả và các tài liệu khác có liên quan đến tình hình
tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Hồ sơ tài sản đảm bảo khoản cho vay.
* Các tài liệu khác nếu có.
Bước 2: Ngân hàng tiến hành thẩm định khoản vay.
Dựa trên cơ sở hồ sơ vay vốn của khách hàng và các nguồn thông tin thu
thập được, cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định để ra quyết định cho vay. Nội
dung phân tích tín dụng bao gồm:
12
Trần Thị Kim Chi - TC12B
* Năng lực pháp lý của doanh nghiệp: giấy phép thành lập đăng ký kinh
doanh, cơ cấu tổ chức…
* Uy tín của doanh nghiệp: ngành nghề kinh doanh, phẩm chất đạo đức,
năng lực của người lãnh đạo, văn hoá doanh nghiệp…
* Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện qua việc phân tích báo cáo
tài chính, các hệ số tài chính cơ bản…
* Đánh giá năng lực kinh doanh về thị trường, sản phẩm, các nguồn lực
của doanh nghiệp, năng lực quản lý…
* Phân tích môi trường kinh doanh.
* Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh về mục tiêu của dự án đầu
tư, thị trường tiêu thụ, hiệu quả kinh tế, tính khả thi…
* Phân tích bảo đảm tiền vay của khách hàng.
Bước 3: Quyết định cho vay.
Từ việc phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn, cán bộ tín dụng đưa ra
quyết định và thông báo chấp nhận hay từ chối cho vay đối với khách hàng. Nếu
quyết định cho vay, ngân hàng và khách hàng ký kết HĐTD. Trong HĐTD bao
gồm các nội dung chủ yếu sau:
• Điều kiện vay vốn.
• Mục đích sử dụng tiền vay.

• Số tiền vay, lãi suất, thời hạn cho vay.
• Phương thức giải ngân.
• Phương thức, kỳ hạn trả nợ.
• Hình thức đảm bảo tiền vay, giá trị tài sản đảm bảo.
• Quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
• Các cam kết khác được hai bên thoả thuận.
Bước 4: Giải ngân.
Cơ sở để ngân hàng thực hiện giải ngân là kế hoạch sử dụng vốn tín dụng
đã cam kết trong HĐTD. Việc giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của
tín dụng gắn liền với vận động của hàng hoá. Tức là việc phát tiền vay phải có
13
Trần Thị Kim Chi - TC12B
hàng hoá đối ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng. Một khoản
tín dụng có thể được giải ngân một lần toàn bộ số tiền vay hoặc giải ngân thành
nhiều đợt, với nhiều phương thức giải ngân bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Bước 5: Giám sát và thu nợ đối với khoản vay.
Ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay
vốn, sử dụng vốn, tình hình hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và đảm
bảo tín dụng của khách hàng, việc tuân thủ các nguyên tắc, các cam kết cho vay.
Quá trình kiểm tra giám sát của ngân hàng giúp ngăn ngừa các hành vi vi phạm
của khách hàng, hạn chế rủi ro đạo đức nhằm đảm bảo an toàn tín dụng. Đồng
thời phát hiện kịp thời những biểu hiện vi phạm để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngân hàng có trách nhiệm theo dõi lịch trả nợ của khách hàng đã cam kết trong
HĐTD, tiến hành thu hồi các khoản nợ cả gốc và lãi khi đáo hạn. Trong trường
hợp do điều kiện khách quan mà khách hàng không thể trả nợ đầy đủ và đúng
hạn, ngân hàng có thể xét gia hạn nợ để khách hàng vượt qua khó khăn và trả nợ
cho ngân hàng.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Khi khoản nợ đã được hoàn trả đầy đủ thì ngân hàng tiến hành thanh lý
hợp đồng, giao lại tài sản thế chấp cho khách hàng (thanh lý tín dụng mặc

nhiên). Đối với các khoản nợ quá hạn, không có khả năng thu hồi, ngân hàng
dựa vào cơ sở pháp lý để tìm kiếm các nguồn bù đắp để xử lý như phát mại tài
sản thế chấp, trích quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp…(thanh lý tín dụng bắt buộc).
1.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N.
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.2.1.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chất lượng tín dụng ngân hàng là một chỉ têu tổng hợp phản ánh chế độ
thích nghi của ngân hàng đối với sự phát triển của môi trường bên ngoài, thể
hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh và phát triển. Hay nói
các khác, nó là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn, đảm bảo
14
Trần Thị Kim Chi - TC12B
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng
xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng được nhìn nhận dưới các góc độ kinh tế
khác nhau: từ phía khách hàng, từ phía ngân hàng và từ phía nền kinh tế.
- Đối với Ngân hàng:
Chất lượng tín dụng thể hiện ở pham vi,mức độ giới hạn tín dụng phải
phù hợp với thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm
bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và
có lãi, hạn chế thấp nhất khả năng rủi ro có thể xảy ra.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở các chỉ tiêu về lợi nhuận cao, dư nợ ngày
càng tăng trưởng nhưng vẫn đảm bảo an toàn, tỉ lệ nợ quá hạn thấp, đảm bảo cơ
cấu nguồn vốn tín dụng hợp lý. Để đạt được chất lượng tín dụng tốt, cần có sự tổ
chức và quản lý đồng bộ trong mỗi ngân hàng. Xác định đúng đối tượng cho vay
phù hợp với khả năng, quy mô ngân hàng, thực hiện tốt quy trình cho vay từ
khâu thẩm định các điều kiện vay vốn, kiểm tra giám sát tình hình tài chính, mục
đích sử dụng vốn vay… Để đảm bảo món vay được hoàn trả đầy đủ và đúng
hạn, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
- Đối với khách hàng:

Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp là để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, đầu tư, mua sắm thiết bị công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng
sản phẩm… Từ đó tạo ra lợi nhuận, trả nợ ngân hàng, tăng tích luỹ cho doanh
nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy, chất lượng tín dụng chính là sự dáp ứng kịp thời các nhu cầu
hợp lý của doanh nghiệp với lãi suất và kì hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận
lợi, thu hút được khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo đúng nguyên tắc tín dụng.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp sẽ làm lành mạnh
tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp, góp phần duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội:
15
Trần Thị Kim Chi - TC12B
chất lượng tín dụng được đánh giá qua khả năng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hoá, thúc đẩy quá trìng tích tụ và tập trung sản xuất, hỗ trợ hoạt động
sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, thu hút và tranh thủ tối đa các
nguồn vốn trong nước và nước ngoài để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế
xã hội. Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Qua việc đánh giá chất lượng tín dụng từ các góc độ khác nhau ta thấy,
chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, vừa mang tính trừu tượng, vừa
mang tính cụ thể. Vì nó không chỉ thể hiện qua các chỉ tiêu định tính như kết
quả kinh doanh, doanh số cho vay, tỉ lệ nợ xấu… mà còn thể hiện qua khả năng
thu hút khách hàng , mức độ thoả mãn, tác động tới nền kinh tế… Hiểu đúng
bản chất, phân tích, đánh giá đúng thực trạng về chất lượng tín dụng giúp cho
các ngân hàng đưa ra được các giải pháp quản lý thích hợp, làm cho hệ thống
ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế vĩ mô, thúc đẩy hội nhập
kinh tế quốc tế.
1.2.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối
với DNV&N.

Đối với DNV&N, nâng cao chất lượng tín dụng góp phần phát triển chất
lượng sản xuất kinh doanh và làm lành mạnh hoá tình hình tài chính. Chất lượng
tín dụng được đảm bảo nghĩa là dự án đưa vào khai thác đã phát huy hiệu quả
kinh tế theo đúng kế hoạch đề ra, nguồn vốn vay được sử dụng đúng mục đích
nên đạt hiệu quả cao nhất. Do đó sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, tiêu
thụ nhanh, có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhờ đó làm tăng nhanh vòng
quay vốn, doanh thu của doanh nghiệp không ngừng tăng lên, vừa đảm bảo cho
nguồn thu vững chắc để trả nợ gốc và lãi vay cho ngân hàng vừa tạo ra nguồn
tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Khi đó uy tín của doanh nghiệp được nâng cao,
tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng. Bởi vì uy tín là cơ sở để duy
trì mối quan hệ tín dụng lâu dài giữa doanh nghiệp với ngân hàng.
16
Trần Thị Kim Chi - TC12B
Đối với ngân hàng, chất lượng tín dụng được nâng cao là tiền đề cho việc
đẩy mạnh phát triển quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các DNV&N. Nâng cao
chất lượng tín dụng là nâng cao chất lượng thông tin tài chính của các DNV&N
tạo ra hệ thống thông tin trung thực, khách quan, minh bạch giúp ngân hàng ra
các quyết định chính xác.
Chất lượng tín dụng còn góp phần tăng cường các hoạt động dịch vị tư
vấn của ngân hàng đối với doanh nghiệp trong việc xây dựng các dự án sản xuất
kinh doanh, làm tăng tính khả thi và hiệu quả cho dự án đầu tư.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng buộc ngân hàng phải không ngừng
hoàn thiện quy trình tín dụng, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trên cả
hai mặt huy động vốn và cho vay. Nhờ nâng cao chất lượng tín dụng, không chỉ
đảm bảo tính an toàn hiệu quả cho hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro cho danh
mục cho vay vì số lượng DNV&N lớn, quy mô khoản vay nhỏ, mà còn giúp
ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng có uy tín, trung thành. Đó là cơ sở
đảm bảo khả năng thanh toán, tăng lợi nhuận, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong
cạnh tranh.
Đối với nền kinh tế, nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng góp phần

thực hiện tốt mục tiêu chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy nền kinh
tế tăng trưởng và phát triển. Thông qua việc nâng cao chất lượng tín dụng giúp
các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, từ đó góp phần tăng ngân sách nhà nước,
giải quyết công ăn việc làm, giảm tệ nạn xã hội.
Qua những phân tích trên cho thấy, nâng cao chất lượng tín dụng là thực
sự cần thiết đối với cả DNV&N, ngân hàng và nền kinh tế. Chất lượng tín dụng
được nâng cao không chỉ giúp doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn về vốn,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và uy tín tín dụng mà còn giúp ngân
hàng đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng và tạo thuận lợi cho sự phát triển
bền vững của ngân hàng và nền kinh tế. Như vậy, để có chất lượng tín dụng tốt
cần thiết phải có sự nỗ lực từ hai phía: các DNV&N và ngân hàng.
17
Trần Thị Kim Chi - TC12B
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng đối với DNV&N
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
a. Bảo đảm các nguyên tắc vay vốn.
Tín dụng là hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng, mang lại nhiều
lợi nhuận cũng như tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Để đảm bảo an toàn, hạn chế thấp
nhất mức độ rủi ro, đối với bất kì một khoản tín dụng nào cần thiết phải xem xét,
đánh giá trước hết việc đảm bảo các nguyên tắc cho vay.
Các nguyên tắc cơ bản của cho vay bao gồm:
Nguyên tắc 1: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong
HĐTD.
Nguyên tắc 2: Hoàn trả vốn gốc và lãi vay đúng hạn đã thoả thuận trong
HĐTD hay trong các khế ước nhận nợ.
Thời hạn cho vay của một khoản tín dụng là khoảng thời gian được tính từ
ngày khoản vay được giải ngân khoản đầu tiên cho đến thời điểm khách hàng trả
được hết vốn gốc, lãi vay và các chi phí khác đã thỏa thuận trong HĐTD.
Căn cứ để ngân hàng xác định thời hạn cho vay đối với khách hàng là chu
kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của

khách hàng và khả năng nguồn vốn cho vay của ngân hàng.
Xác định thời hạn cho vay hợp lý là rất quan trọng, quyết định tới khả
năng thu hồi vốn của ngân hàng. Việc xác định thời hạn cho vay sẽ gắn trách
nhiệm của người vay vốn với khoản vay, tạo áp lực buộc họ phải sử dụng vốn
vay tiết kiệm, có hiệu quả nhất trong thời hạn đó để có thể trả nợ cho ngân hàng
đúng hạn. Việc trả nợ đúng hạn của khách hàng giúp ngân hàng bảo toàn và phát
triển vốn, mở rộng quy mô tín dụng.
Nguyên tắc 3: Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện theo quy định của
Chính phủ, của Thống đốc NHNN đối với khách hàng.
b. Quá trìng thẩm định tín dụng.
Đây là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất, quyết định tới chất lượng của
khoản vay và là khâu không thể thiếu trong quy trình tín dụng, là cơ sở để ra
18
Trần Thị Kim Chi - TC12B
quyết định cho vay. Quá trình thẩm định tín dụng giúp ngân hàng hạn chế tình
trạng thông tin không cân xứng, đánh giá chính xác nhu cầu vay, mức độ rủi ro
của khách hàng vay. Việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định
cho vay là bắt buộc để một khoản vay đạt chất lượng.
c. Các chỉ tiêu dịnh tính khác.
Đó là các chỉ tiêu về chính sách, định hướng cho hoạt động của ngân
hàng, hệ thống trang thiết bị công nghệ, năng lực trình độ chuyên môn và đạo
đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng, uy tín của ngân hàng, độ thoả mãn của
khách hàng…
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng.
a. Doanh số cho vay.
Doanh số cho vay là số tiền mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng
trong một khoảng thời gian nhất định. Doanh số cho vay cao và tăng trưởng qua
các năm phản ánh quy mô tín dụng ngày càng mở rộng, khả năng đáp ứng nhu
cầu vốn của ngân hàng càng cao. Đồng thời, doanh số cho vay cao giúp ngân
hàng tạo ra thu nhập lớn từ hoạt động tín dụng.

b. Doanh số thu nợ.
Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn cho vay mà ngân hàng đã được hoàn
trả trong một thời kỳ. Doanh số thu nợ tăng trưởng qua các năm phản ánh chất
lượng của các khoản tín dụng được đảm bảo, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,
có điều kiện thuận lợi để trả nợ ngân hàng đúng hạn.
c.Dư nợ tín dụng.
Dư nợ tín dụng đối với DNV&N là số tiền ngân hàng đang cho vay doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định. Dư nợ cho vay được tính bằng số dư cuối kỳ
trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Để đánh giá chất lượng tín dụng ngân
hàng, cần xem xét mối quan hệ của chỉ tiêu này với độ an toàn của các khoản
vay.
19
Trần Thị Kim Chi - TC12B
d. Tốc độ luân chuyển vốn của ngân hàng.
Số vòng quay vốn tín dụng=Doanh số thu nợ trong kỳ/doanh số bình quân
trong kỳ
Tỷ lệ này càng lớn (>1) cho thấy vòng quay vốn tín dụng càng nhanh,
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Với một lượng vốn nhất định
nhưng do tốc độ luân chuyển vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng có điều kiện
mở rộng khả năng cho vay đối với khách hàng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về
vốn của doanh nghiệp. Vòng quay vốn tín dụng lớn phản ánh doanh số thu nợ
trong kỳ tăng, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu giảm đáng kể, cho thấy chất lượng tín
dụng ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên khi vòng quay vốn tín dụng tăng do
doanh số bình quân trong kỳ giảm, có thể là biểu hiện không tốt của tình trạng ứ
đọng vốn tín dụng. Do đó cần xem xét mối quan hệ với các chỉ tiêu khác để có
đánh giá chính xác hơn.
e. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn.
Hiệu suất sử dụng vốn=Tổng nguồn vốn cho vay/ tổng nguồn vốn huy
động
Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu này

càng lớn cho thấy ngân hàng đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được
để cho vay.
f. Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn=Tổng dư nợ quá hạn/ tổng dư nợ
Nợ quá hạn là những khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời
hạn cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian
đã được gia hạn thêm (nếu khách hàng có yêu cầu). Hay nói cách khác, nợ quá
hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng không có khả năng hoàn trả
số tiền vay (cả gốc và lãi) đã thoả thuận trong HĐTD. Khoản vay đó sẽ bị
chuyển sang nợ quá hạn và phải chịu mức lãi suất quá hạn (cao hơn mức lãi suất
thông thường).
20
Trần Thị Kim Chi - TC12B
Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao cho thấy rủi ro mất vốn, mất khả năng thanh
toán càng lớn, lợi nhuận của ngân hàng càng giảm mạnh. Do vậy, đây là một chỉ
tiêu quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Để nâng cao chất
lượng tín dụng, đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho hoạt động kinh doanh, các
ngân hàng luôn nỗ lực giảm thiểu tỷ lệ này xuống mức thấp nhất có thể. Theo
quy định của NHNH Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ lớn hơn 7%
được xem là ngân hàng yếu kém, nhỏ hơn 5% thì được đánh giá là ngân hàng có
chất lượng tín dụng lành mạnh.
Nợ quá hạn được phân loại dựa trên các tiêu chí sau:
* Theo thời gian:
+ Nợ quá hạn dưới 180 ngày
+Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
+Nợ quá hạn trên 360 ngày (nợ khó đòi)
*Theo khả năng thu hồi nợ:
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản vay mà doanh nghiệp
không thể trả đúng hạn nhưng vẫn có khả năng trả nợ sau một khoảng thời gian
nhất định trong tương lai gần. Trong trường hợp này, ngân hàng có thể tạo điều

kiện cho doanh nghiệp trả nợ bằng cách gia hạn nợ.
+ Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (nợ khó đòi): là những khoản nợ
đã vượt quá thời hạn cho vay và thời hạn gia hạn của ngân hàng mà người vay ít
có khả năng trả được nợ. Tỷ lệ này càng cao cho thấy hoạt động tín dụng của
ngân hàng kếm hiệu quả, chất lượng tín dụng thấp. Khi đó ngân hàng gặp rủi ro
mất vốn do không có khả năng thu hồi được nợ.
g. Chỉ tiêu về khả năng thu nợ.
Tỷ lệ thu nợ=Doanh số thu nợ/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ này cang cao cho thấy ngân hàng đã đầu tư, cho vay đúng hướng,
làm giảm đi những khoản nợ quá hạn, khó đòi, nên khả năng thu hồi nợ càng
cao. Do đó chất lượng của các khoản tín dụng càng cao.
21
Trần Thị Kim Chi - TC12B
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng đối
với DNV&N.
1.2.3.1. Các nhân tố chủ quan.
a. Từ phía ngân hàng.
* Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân
hàng, thể hiện đường lối, chủ trương của hoạt động tín dụng ngân hàng trong
từng thời kỳ. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố giới hạn mức cho vay đối
với một khách hàng, kỳ hạn của khoản vay, lãi suất cho vay, mức lệ phí… Một
chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả
năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở hạn chế rủi ro, tuân thủ pháp luật
và đường lối chính sách của Nhà nước. Do vậy, chất lượng tín dụng chịu ảnh
hưởng trực tiếp của chính sách tín dụng. Một chính sách tín dụng đúng đắn, linh
hoạt và phù hợp là cơ sở vững chắc để đảm bảo những khoản vay an toàn và
hiệu quả.
* Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng

trong việc cấp tín dụng. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự
nhất định từ khi chuẩn bị hồ sơ, thẩm định, xét duyệt cho vay, giải ngân, kiểm
tra giám sát quá trình vay vốn cho đến khi thu hồi nợ, chấm dứt quan hệ tín
dụng. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn,
theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, nhằm
đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Do đó chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc
thực hiện một cách đúng đắn, phù hợp và linh hoạt các quy định ở từng bước
trong quy trình tín dụng.
* Hệ thống thông tin tín dụng.
Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng (năng lực kinh
doanh, uy tín…), môi trường kinh doanh của khách hàng vay vốn… Thông tin
tín dụng có thể được thu thập từ nguồn lưu trữ tại chính ngân hàng (hồ sơ vay
22
Trần Thị Kim Chi - TC12B
vốn của khách hàng), từ trung tâm thông tin tín dụng, hay từ các phương tiện
thông tin đại chúng… Số lượng, chất lượng của các thông tin thu thập được có
tính chất quyết định tới độ chính xác trong việc thẩm định khách hàng vay vốn
để đưa ra quyết định phù hợp. Sự thiếu thông tin hay thông tin không trung thực,
thiếu minh bạch là trở ngại lớn đối với ngân hàng trong việc đưa ra quyết định
cho vay, làm tăng mức độ rủi ro cho ngân hàng.
Do vậy để nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro tới mức thấp
nhất, ngân hàng cần thiết phải xây dựng một hệ thống thông tin chính xác, kịp
thời và toàn diện. Đó chính là cơ sở để cán bộ tín dụng đưa ra những quyết định
đúng đắn.
* Khả năng nguồn vốn của ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức trung gian huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi để cho vay tới nền kinh tế. Vốn huy động bao gồm: tiền gửi thanh toán, tiền
gửi tiết kiệm cuả dân cư, các thành phần kinh tế, tiền đi vay, vốn tự có của ngân
hàng. Do vậy nguồn vốn huy động đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng tín dụng. Vốn huy động càng lớn và đa dạng, ngân hàng càng có khả

năng cho vay và mở rộng hoạt động tín dụng. Mặt khác kỳ hạn của các khoản
huy động vốn cũng ảnh hưởng rất lớn tới kỳ hạn, doanh số, lợi nhuận từ các
khoản cho vay.
* Chất lượng nguồn nhân sự.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động ngân hàng ngày càng
tinh vi, phức tạp, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có đủ phẩm chất đạo đức và trình
độ chuyên môn để lĩnh hội, ứng dụng công nghệ hiện đại. Chất lượng nhân sự là
yếu tố quyết định chất lượng tín dụng vì cán bộ tín dụng là người tham gia trực
tiếp vào mọi khâu của quy trình tín dụng. Cán bộ tín dụng không có trình độ
chuyên môn, thiếu kinh nghiệm trong phân tích, đánh giá sẽ đưa ra những quyết
định cho vay không chính xác, các khoản vay có vấn đề không được phát hiện
sớm do năng lực yếu kém của cán bộ tín dụng mang lại nhiều rủi ro cho ngân
hàng. Đồng thời, cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm, đạo đức kém, thông đồng
23
Trần Thị Kim Chi - TC12B
với khách hàng để cho vay những món vay không đảm bảo, gây ra những tổn
thất lớn cho ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng của khoản vay.
Như vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần một đội ngũ cán
bộ có trìng độ, năng lực phân tích, dự báo, có kỹ năng giao tiếp, chủ động trong
công việc, có kinh nghiệm, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường, về
pháp luật, thường xuyên cập nhật thông tin để bắt kịp sự biến đổi và phát triển
của nền kinh tế thị trường. Mỗi cán bộ tín dụng phải thường xuyên bồi dưỡng
đạo đức, tinh thần trách nhiệm đối với công việc. Điều đó phụ thuộc vào chính
sách tuyển dụng và đào tạo về nhân sự của ngân hàng.
* Công tác tổ chức quản lý tại ngân hàng
Công tác tổ chức không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác
động đến mọi hoạt động của ngân hàng. Sắp xếp công việc không hợp lý, không
đúng chuyên môn sẽ không phát huy được khả năng của cán bộ tín dụng. Tổ
chức thiếu khoa học tạo sự chồng chéo trong phối hợp công việc giữa các bộ
phận, ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định đối với một khoản vay. Cũng có thể

tạo ra sự thiếu chặt chẽ giữa các khâu, sự thiếu trách nhiệm đối với công việc.
Như vậy tất yếu ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Ngân hàng cần đặc biệt coi trọng vấn đề tổ chức. Cần thiết phải xây dựng
một mô hình tổ chức khoa học, linh hoạt và cụ thể hoá nhằm đảm bảo các
nguyên tắc tín dụng, rút ngắn thời gian thẩm định nhưng vẫn hạn chế tới mức tối
đa các rủi ro trong quá trình thẩm định, vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng, vừa
phục vụ khách hàng tốt hơn. Từ đó chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao.
* Kiểm soát nội bộ
Đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi ngân
hàng. Công tác kiểm tra nội bộ càng thường xuyên, chặt chẽ càng đảm bảo hoạt
động tín dụng thực hiện đúng pháp luật, đúng nguyên tắc và quy trình tín dụng.
Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa, hạn chế những sai sót
24
Trần Thị Kim Chi - TC12B
của cán bộ tín dụng để kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao
chất lượng tín dụng.
* Quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động kinh doanh luôn tiềm ẩn
rủi ro. Rủi ro tín dụng là những tổn thất không mong muốn của ngân hàng khi
khách hàng không thanh toán đầy đủ và đúng hạn nợ gốc và lãi hoặc một phần
gốc và lãi. Đó là rủi ro ứ đọng vốn hoặc mất vốn do những khoản vay có chất
lượng kém. Quản lý rủi ro tín dụng là các quy chế, chính sách, tiêu chuẩn về
quản lý tín dụng và lượng định rủi ro tín dụng có thể xảy ra để có biện pháp
kiểm soát, phòng ngừa. Việc quản lý rủi ro tín dụng càng chặt chẽ thì chất lượng
tín dụng càng cao. Do vậy, mỗi ngân hàng cần xây dựng một hệ thống quản lý
rủi ro chính xác, có hiệu quả để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng.
b. Từ phía DNV&N.
* Năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực và kinh nghiệm quản
lý kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Đây là yếu tố quyết định tính hiệu quả

của việc sử dụng vốn vay, là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện cam kết thanh
toán nợ đúng hạn và đầy đủ cho ngân hàng.
Điều kiện đầu tiên để Ngân hàng xem xét cho vay đối với một doanh
nghiệp là năng lực pháp lý. Tính pháp lý của một doanh nghiệp được chứng
minh bằng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư, điều lệ hoạt
động… Năng lực quản lý kinh doanh thể hiện ở khả năng quản lý điều hành và
trình độ, kinh nghiệm của cán bộ quản lý, khả năng nghiên cứu, dự đoán sự biến
động của thị trường, trình độ chuyên môn và đạo đức của cán bộ ngân hàng…
Năng lực kinh doanh yếu kém, thiếu năng động trong kinh doanh, không dự
đoán được sự biến đổi của môi trường kinh doanh… sẽ làm cho phương án đầu
tư thiếu thực tế, không còn đem lại hiệu quả. Từ đó ảnh hưởng tới khả năng
25

×