Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu THỰC TRẠNG SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT TRONG NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN VÀ MỘT VÀI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT CHO NÔNG DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.34 KB, 5 trang )

Nguyễn Duy Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 23 - 27
23



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
THỰC TRẠNG SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT TRONG NÔNG NGHIỆP Ở THÁI NGUYÊN VÀ
MỘT VÀI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT
CHO NÔNG DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Nguyễn Duy Tiến
1*,
Phí Văn Liệu
2

1
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
2
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thái Nguyên là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị của vùng Đông Bắc Bắc Bộ, là vùng
nối giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với đồng bằng châu thổ sông Hồng. Kể từ sau Khoán 10 (năm
1988), năng suất lúa ở Thái Nguyên đã tăng lên gần ba lần so với năm 1990, đưa sản lượng lúa thu
được đạt 325 381 tấn (năm 2008) [1]. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự biến đổi về năng suất và
sản lượng lúa ở Thái Nguyên từ sau Khoán 10 đến năm 2005 là bắt nguồn từ sự thay đổi về hình
thức sở hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất.
Trong bài viết này, chúng tôi đề cập tới thực trạng ruộng đất trong nông nghiệp ở Thái
Nguyên và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân
trong giai đoạn hiện nay.
Từ khoá: Sở hữu, Ruộng đất, nông dân, nông nghiệp, Thái Nguyên.
THỰC TRẠNG RUỘNG ĐẤT


Ở THÁI NGUYÊN
Những thành tựu của kinh tế nông nghiệp ở
Thái Nguyên trong gần hai thập kỷ qua là
một thực tế không thể phủ nhận. Đó là kết
quả của chính sách đổi mới trong quan hệ sở
hữu và sử dụng ruộng đất mang lại. Tuy
nhiên, thực trạng ruộng đất cũng như tình
hình nông nghiệp, nông thôn ở Thái Nguyên
trong những năm gần đây đang đặt ra những
vấn đề cần được giải quyết thoả đáng và kịp
thời.
Một là, tình trạng phân tán và manh mún
của ruộng đất. Đây là một thực trạng về
ruộng đất không chỉ riêng ở Thái Nguyên
mà là hiện tượng phổ biến của nhiều địa
phương khác trên cả nước. Nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến tình trạng này là do chính
sách giao khoán ruộng đất được thực hiện
theo nguyên tắc bình quân chủ nghĩa “có
tốt, có xấu, có gần, có xa” dựa trên số nhân
khẩu hoặc lao động của mỗi gia đình nhận
ruộng. Việc giao khoán ruộng đất đến từng
hộ gia đình nông dân theo tinh thần Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị có tác dụng phát
huy tính tự lực, tự cường của nông dân, khắc
phục được tình trạng ruộng đất không có
chủ cụ thể trong thời kỳ tập thể hoá nông
nghiệp. Song điều này cũng làm cho ruộng
đất bị xé nhỏ và trở nên manh mún. Theo
đó, mỗi gia đình bình quân có khoảng trên

dưới một mẫu ruộng và được chia làm nhiều
thửa ruộng. Mỗi thửa ruộng rộng khoảng
trên dưới một sào Bắc Bộ (khoảng 360 m
2
)
và vị trí của mỗi thửa ruộng lại ở những xứ
đồng khác nhau. Để thấy rõ được điều này,
chúng tôi xin lấy ví dụ gia đình ông Trần
Văn Thành (67tuổi) ở thôn Hoà Bình, xã
Xuân Phương, huyện Phú Bình. Gia đình
ông Thành có tổng số 8 sào ruộng nhưng có
tới 13 thửa ruộng khác nhau. Theo ông, thửa
ruộng nhỏ nhất (còn gọi là đất trồng rau)
rộng 5 thước (khoảng 105 m
2
), thửa rộng
nhất chỉ khoảng 1 sào 1 thước. Vị trí 13 thửa
ruộng nhà ông Trần Văn Thành nằm ở 7 xứ
đồng khác nhau. Hoặc trường hợp gia đình
ông Ngô Quang Sơn thôn Hạnh Phúc xã
Xuân Phương, huyện Phú Bình có 8 sào 6
thước ruộng được chia thành 8 thửa ruộng ở
4 xứ đồng khác nhau.
Tình trạng manh mún, nhỏ lẻ của ruộng đất
ở Thái Nguyên như trên đã gây cản trở cho
Nguyễn Duy Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 23 - 27
24




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
việc áp dụng những thiết bị máy móc trong
sản xuất. Điều này lý giải tại sao từ bao đời
nay hình ảnh “con trâu đi trước cái cày theo
sau” vẫn tồn tại ở Thái Nguyên. Việc sử
dụng máy cày, máy kéo phục vụ làm đất,
máy gặt phục vụ khâu thu hoạch là rất ít.
Giả sử, nếu có được đầu tư máy móc đi
chăng nữa thì cũng rất khó thực hiện được
bởi ruộng của mỗi gia đình không kề liền
mảnh mà thuộc nhiều xứ đồng khác nhau.
Rõ ràng, tình trạng manh mún ruộng đất
như trên đã và đang ảnh hưởng đến hiệu
quả của sản xuất và thực sự cản trở sự phát
triển của nền kinh tế hàng hoá trong nông
nghiệp.
Hai là, tình trạng ruộng trồng cấy một vụ
trên một năm ở Thái Nguyên chiếm tỷ lệ đáng
kể dẫn đến lãng phí tiềm năng đất sản xuất
nông nghiệp. Thái Nguyên do đặc thù là một
tỉnh bán sơn địa, địa hình phức tạp, chỉ có các
huyện phía Nam tỉnh như: Phú Bình, Phổ
Yên là mang tính chất đồng bằng, cho nên
diện tích đất gieo cấy lúa một vụ trên một
năm ở đây chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Để
minh chứng cho điều này, chúng tôi xin dẫn
ra biểu số liệu sau đây:
Đất ruộng lúa, lúa màu ở Thái Nguyên năm 2005
[3]
Đơn vị tính: ha

Loại đất
Diện tích
Tỷ lệ %
Đất ruộng lúa, lúa màu
43 240,19
100,00
- Ruộng ba vụ
4373,55
10,11
- Ruộng hai vụ
25190,89
58,19
- Ruộng một vụ
13192,80
30,5
- Đất chuyên mạ
58295
1,3
Từ biểu số liệu trên cho thấy diện tích đất
lúa, lúa màu cấy 3 vụ trên năm đạt 4 373,55
ha chiếm 10,11% là tương đối ít. Còn diện
tích lúa, lúa màu chỉ trồng cấy một vụ trên
năm đạt 13 192,80 ha chiếm 30,5% là tương
đối nhiều. Lẽ ra, diện tích trồng cấy một vụ
trên năm có nhiều khả năng để nâng lên
thành hai vụ, ba vụ trên một năm. Có một số
địa phương diện tích đất lúa, lúa màu trồng
cấy một vụ trên năm chiếm tỷ lệ rất lớn như:
huyện Võ Nhai có 1 989,22 ha diện tích chỉ
cấy được một vụ trên năm chiếm 68,2% [4]

và cũng không có diện tích nào trồng cấy
được ba vụ trên một năm, huyện Phú Lương
diện tích đất lúa, lúa màu chỉ trồng cấy được
một vụ đạt 185688 ha chiếm 45,22% [5].
Theo Báo cáo Thuyết minh tổng hợp điều
chỉnh, Bổ sung quy hoạch sử dụng đất đai
tỉnh Thái Nguyên đến năm 2010 thì đến năm
2005, Thái Nguyên vẫn có khoảng hơn 30%
đất trồng cấy một vụ lúa, lúa màu trên một
năm. Từ thực tế này đã dẫn đến tình trạng để
lãng phí tiềm năng đất đai. Nguyên nhân
chính của tình trạng trên là do địa hình ở Thái
Nguyên phức tạp, hệ thống giao thông thuỷ
lợi chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất nông
nghiệp. Nhìn chung, các công trình thuỷ lợi
của tỉnh được xây dựng từ những thập niên
60,70 của thế kỉ trước và có tới 75% là công
trình tạm. Qua thời gian dài sử dụng do tác
động của thiên nhiên cũng như các hoạt động
của con người, đến nay đa số các công trình
thuỷ lợi bị xuống cấp, diện tích tưới tiêu chỉ
đạt 37 084 ha vụ mùa, 26 707 ha vụ chiêm,
mới đáp ứng được 65,6% yêu cầu tưới [6].
Ba là, Thái Nguyên là một trong những tỉnh
có nhiều thế mạnh để phát triển các loại cây
trồng hàng năm, nhưng việc sử dụng nguồn
đất này chưa hợp lý dẫn đến tình trạng để
lãng phí tiềm năng đất đai. Sở dĩ chúng tôi
coi đây là một thực trạng vì như phần trước
đã đề cập Thái Nguyên là một tỉnh có nguồn

đất đai rất phong phú và đa dạng. Là tỉnh
bán sơn địa nên diện tích đất đồi, gò, đất
vườn chiếm diện tích lớn, cho phép phát
triển một số loại cây công nghiệp ngắn ngày
có giá trị kinh tế cao như: đậu tương, lạc,
vừng. Nhưng trên thực tế, việc phát triển các
loại cây này ở Thái Nguyên chưa được chú
trọng đúng mức, diện tích không ổn định và
phụ thuộc rất nhiều vào thị trường nông sản.
Do đó, việc sử dụng loại đất này chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh.
Bốn là, hiện tượng mua bán, tích tụ, tập
trung ruộng đất một cách tự do đang có xu
Nguyễn Duy Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 23 - 27
25



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hướng gia tăng. Đây là một thực trạng
không phải chỉ có riêng ở Thái Nguyên mà
là hiện tượng phổ biến trên phạm vi cả
nước. Mặc dù đây là một xu hướng tất yếu
của nền kinh tế thị trường hiện nay nhưng
trên thực tế, quá trình tích tụ ruộng đất đang
làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp do quá
trình chuyển nhượng ruộng đất không thực
hiện đúng như các quy định của pháp luật.
Không phải là toàn bộ nhưng phần lớn các
hộ chuyển nhượng ruộng đất theo phương

thức mua bán trao tay mà không làm thủ tục
tại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Các gia đình bán ruộng đất phần lớn là các
hộ có con cái đi thoát li, ruộng đất không có
lao động canh tác nên phải bán ruộng hoặc
cho thuê. Đối với những người có ruộng cho
thuê, sau mỗi vụ thu hoạch, người đi thuê
ruộng phải trả cho người có ruộng từ 40 đến
60 kg thóc trên một sào Bắc Bộ. Tuy nhiên,
hiện tượng trao đổi, mua bán này chỉ diễn ra
bằng phương thức trao tay giữa người mua
và người bán chứ không hề làm thủ tục tại
các cơ quan có thẩm quyền. Sở dĩ họ có thể
mua bán trao tay được là do người mua và
người bán đã quen biết nhau nên họ không
nhất thiết phải qua giấy tờ trước cơ quan có
thẩm quyền. Việc cho thuê ruộng đất cũng
diễn ra tương tự như vậy. Để nắm được điều
này chúng tôi xin lấy dẫn chứng gia đình
ông Trần Văn Thành ở thôn Hoà Bình, xã
Xuân Phương, huyện Phú Bình có tổng số 8
sào ruộng, do con cái ông thoát ly làm công
chức nên toàn bộ gia đình chuyển lên thành
phố Thái Nguyên sinh sống. Tổng số 8 sào
ruộng của gia đình ông Thành cho 5 người
thuê gồm: gia đình chị Nguyễn Thị Thiết (2
sào), gia đình chị Dương Thị Tuyết (1,5
sào), gia đình chị Dương Thị Quý (2 sào),
gia đình chị Dương Thị Hải (1 sào), gia đình
ông Hoàng Văn Nhân (1,5 sào). Theo ông

Thành, mỗi một sào thuê như vậy, người đi
thuê phải trả cho người có ruộng( cụ thể là
ông Thành) là 2,5 nồi trên một sào (mỗi nồi
là 25 kg), tức là một sào người thuê phải trả
62,5 kg. Tuy nhiên, ông Thành phải đóng
các khoản thuế ruộng, các loại phí khác cho
Uỷ ban nhân dân xã Xuân Phương.
MỘT VÀI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ QUYỀN SỞ HỮU
RUỘNG ĐẤT NÔNG DÂN THÁI
NGUYÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
Dưới tác động của chính sách giao khoán
ruộng đất đến từng hộ nông dân theo tinh
thần Nghị Quyết 10 của Bộ Chính trị, ruộng
đất đã bị manh mún, nhỏ lẻ. Do đó, vấn đề
đặt ra là phải tìm ra những giải pháp để khắc
phục tình trạng này. Trong những năm trở
lại đây, một số nơi trên địa bàn tỉnh, nông
dân đã thực hiện biện pháp dồn điền đổi
thửa để ruộng nhà mình vẫn giữ nguyên số
lượng nhưng nó sẽ quy ruộng về một mối ở
một xứ đồng nhất định. Theo đó, số thửa
ruộng sẽ ít đi nhưng tổng số sào vẫn giữ
nguyên. Tuy nhiên, phong trào dồn điền đổi
thửa ở Thái Nguyên diễn ra còn chậm do
nhận thức của đa số người nông dân ngại bị
xáo trộn, tâm lý “an phận thủ thường” đã
làm cản trở tiến trình dồn điền đổi thửa ở
Thái Nguyên. Hơn thế nữa, địa hình Thái

Nguyên phức tạp, có xứ đồng ở những chân
ruộng cao, có những xứ đồng ở chân ruộng
trũng nên nông dân không ai muốn lấy toàn
ruộng xấu. Ngoại trừ có một số nông dân ở
huyện Phú Bình, Phổ Yên đã dồn ghép
ruộng của mình lấy phần ruộng trũng để đào
ao thả cá, trên bờ làm trang trại chăn nuôi
gia súc, gia cầm kết hợp việc trồng một vụ
lúa, một vụ cá. Bằng biện pháp này, chủ
trang trại đã tiến hành sản xuất nông nghiệp
theo hướng hàng hoá, góp phần nâng cao
hiệu suất sử dụng đất, mở ra hướng đi mới ở
nông thôn, tạo thu nhập cho nông dân, thực
hiện công tác xoá đói giảm nghèo ở vùng
nông thôn. Thiết nghĩ, nông dân Thái
Nguyên cần phải xem xét giải pháp dồn điền
đổi thửa để áp dụng vào từng địa phương
cho phù hợp với đặc thù của địa phương đó.
Bởi vì, một nền nông nghiệp phát triển trong
điều kiện đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước không phải là
một nền nông nghiệp phát triển theo kiểu
phân tán, manh mún như hiện tại. Để phát
triển kinh tế trong nông thôn ở Thái Nguyên
theo hướng hàng hoá, cần phải giải quyết
Nguyễn Duy Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 23 - 27
26




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
một loạt các vấn đề về kinh tế, tổ chức, kỹ
thuật và chính sách, trong đó, vấn đề tích tụ
tập trung ruộng đất là một trong những vấn
đề cần được quan tâm trước hết. Bởi vì,
điều kiện Thái Nguyên hiện nay, tích tụ và
tập trung ruộng đất là một trong những điều
kiện quan trọng để phát triển nông nghiệp
theo hướng hàng hoá.
Thái Nguyên là một tỉnh bán sơn địa, cho
nên, việc dồn điền đổi thửa, tích tụ tập trung
ruộng đất để hình thành các trang trại theo
mô hình V-A-C-R (Vườn-Ao-Chuồng-
Rừng) là rất hợp lý. Bởi vì, với mô hình này
sẽ cho phép nông dân có thể khai thác tốt
hơn những tiềm năng, lợi thế vốn có của
tỉnh, góp phần tạo công ăn việc làm cho nông
dân, xoá đói giảm nghèo ở vùng nông thôn,
có tác dụng thúc đẩy tính chất hàng hoá trong
nông nghiệp ngày càng phát triển bền vững
hơn. Do đó, nông dân Thái Nguyên cần phải
nhanh chóng chọn lựa những giải pháp thích
hợp mà trước hết là giải pháp dồn điền đổi
thửa để ruộng liền ruộng, có điều kiện để
phát triển nông nghiệp theo tính chất hàng
hoá phục vụ cho yêu cầu ngày càng cao của
thị trường.
Toàn tỉnh Thái Nguyên có tới 30,5% diện
tích đất trồng lúa và lúa màu chỉ trồng cấy
được một vụ trên một năm. Điều này đã gây

ra tình trạng lãng phí nguồn đất đai. Vấn đề
đặt ra cho tỉnh Thái Nguyên là phải tìm ra
những giải pháp để nâng cao hiệu suất sử
dụng đất. Muốn làm được điều này, tỉnh
phải đẩy mạnh đầu tư để phát triển đồng bộ
hệ thống giao thông thuỷ lợi, tiến hành tu
sửa lại những công trình thuỷ nông đã cũ,
hiệu quả phục vụ thấp để đưa vào sử dụng,
tiến hành nạo vét và sửa chữa hệ thống kênh
mương nội đồng mà hướng chính là kiên cố
hoá kênh mương để có thể tưới, tiêu cho cây
trồng. Mặt khác, tỉnh cũng cần phải rà soát,
thống kê một cách cụ thể những diện tích
đất lúa, lúa màu chỉ trồng cấy được một vụ
trên một năm. Trên cơ sở đó, nếu diện tích
đất nào địa hình trũng khó tiêu nước thì
nên chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản theo
mô hình trang trại. Ngược lại, diện tích đất
trồng lúa, hoa màu mà địa hình quá cao có
thể chuyển sang trồng các loại cây công
nghiệp ngắn ngày như: lạc, đậu tương,
vừng… Đây là những loại cây có khả năng
chịu hạn, phù hợp với những diện tích đất
cao. Bằng những biện pháp chuyển dịch
cơ cấu cây trồng như trên, chúng ta có thể
khai thác tốt hơn tiềm năng đất nông
nghiệp, khắc phục được tình trạng để lãng
phí tiềm năng đất đai, tạo thu nhập cho
nông dân, góp phần vào công cuộc xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn.

Là một trong những tỉnh miền núi nên diện
tích đất đồi, gò, đất vườn ở tỉnh Thái
Nguyên chiếm số lượng tương đối lớn. Loại
đất này rất thích hợp cho các loại cây công
nghiệp hàng năm, nhất là cây đậu tương, lạc,
vừng … Đây là loại cây có giá trị kinh tế
cao, có khả năng xuất khẩu. Tuy nhiên, một
thực tế ở Thái Nguyên là diện tích trồng các
loại cây này còn rất khiêm tốn, lại không ổn
định, phụ thuộc vào thị trường nông sản. Sự
không ổn định về diện tích của loại cây
trồng này chúng tôi đã trình bày ở phần
trước. Để khắc phục tình trạng này, theo
chúng tôi, trước mắt tỉnh Thái Nguyên cần
đẩy mạnh xây dựng hệ thống giao thông
thuỷ lợi đồng bộ để đáp ứng được nhu cầu
tưới tiêu cho nông nghiệp. Bên cạnh đó, tỉnh
cũng phải phối hợp với trường Đại học
Nông Nghiệp I Hà Nội, trường Đại học
Nông - Lâm Thái Nguyên để nghiên cứu ra
những giống cây mới có năng suất cao, phù
hợp với thổ nhưỡng ở Thái Nguyên để khai
thác tốt hơn tiềm năng và lợi thế đất sản
xuất nông nghiệp ở đây. Đặc biệt, tỉnh Thái
Nguyên cũng phải có những quy hoạch
mang tính chất chiến lược, phải tính toán
đầu ra cho sản phẩm để tránh được tình
trạng “được mùa mất giá”. Trong những
năm trở lại đây, huyện Võ Nhai, nông dân
đang đẩy mạnh trồng cây công nghiệp ngắn

ngày, nhất là cây đậu tương. Trong đó, bà
con nông dân đã mạnh dạn đưa các loại
giống đậu tương mới như: DT80, DT84 vào
trồng đại trà và trên thực tế giống đậu tương
này đã cho năng suất cao. Do đó, để khai
thác tốt hơn tiềm năng và lợi thế của diện
tích đất trồng các loại cây hàng năm của
Nguyễn Duy Tiến và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 63(1): 23 - 27
27



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tỉnh, hướng đẩy mạnh trồng các loại cây có
giá trị kinh tế cao như: đậu tương, lạc…
chính là một trong những giải pháp khả thi
để đưa nền nông nghiệp của tỉnh Thái
Nguyên từng bước phát triển.
Cũng như nhiều tỉnh khác, trong những năm
trở lại đây, do tác động của cơ chế thị trường
làm xuất hiện hiện tượng tập trung, tích tụ
ruộng đất một cách tự do đang có xu hướng
gia tăng. Trên thực tế, xu hướng này đã phản
ánh đúng xu thế phát triển tất yếu của nền kinh
tế thị trường. Tuy nhiên, quá trình tập trung,
tích tụ ruộng đất một cách tự do lại nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp. Thực tế này đòi hỏi
Nhà nước mà trực tiếp là tỉnh Thái Nguyên
phải có những biện pháp cụ thể và kiên quyết
hơn nhằm kiểm soát và chi phối chiều hướng

hoạt động của thị trường đất đai nói chung,
ruộng đất nói riêng, tạo điều kiện cho nền
nông nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên phát
triển lành mạnh và nhanh chóng, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chi cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên
giám thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2008, NXB
Thống kê, Hà Nội, Tr 119.
[2]. Sở Tài nguyên môi trường, Kết quả kiểm kê
đất đai năm 2005 tỉnh Thái Nguyên, Tr.19.
[3]. Sở Tài nguyên môi trường, Kết quả kiểm kê
đất đai năm 2005 tỉnh Thái Nguyên, Tr. 95.
[4]. Sở Tài nguyên môi trường, Kết quả kiểm kê
đất đai năm 2005 tỉnh Thái Nguyên, Tr.82.
[5]. Báo cáo thuyết minh tổng hợp điều chỉnh,
Bổ sung quy hoạch sử dụng đất đai tỉnh Thái
Nguyên đến năm 2010, Uỷ ban nhân dân tỉnh
Thái Nguyên, Tr.26.
SUMMARY
THE CURRENT SITUATION OF AGRICULTURAL LAND OWNERSHIP IN THE
THAI NGUYEN PROVINCE AND SOLUTIONS TO IMPROVE THE EFFICIENCY OF
LAND ENTITLEMENT CURRENTLY FOR FARMERS.

Nguyen Duy Tien
1
, Phi Van Lieu
2
1

College of Science - Thai Nguyen University
2
College of Education - Thai Nguyen University

Thai Nguyen, one of the economic and political centres in the Northeast of North Vietnam, is the
region connecting northern mountainous provines with Red river delta. Since witten promise 10
(1988), rice productivity in Thai Nguyen has increase three times compared with 1990. The main
reasons leading to the changes in productivity and yied of rice in Thai Nguyen deprived from
alteration in the ownerships and land using relationships. Such alteration is the one of the
important factors making the changes in productivity and yield of rice in Thai Nguyen.
In this article, we refer to actual situation of agricultural land in Thai Nguyen and some solutions
to improve the effectiveness of land ownership to farmers in current period.
Keywords: Own, Cultivated land, Cultivator, Agriculture Thai Nguyen.



Tel: 0982190353, Emai:

×