Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Toà án liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về lối đi qua bất động sản liền kề mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.44 KB, 27 trang )

BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

BÀI TẬP NHĨM
MƠN: LUẬT DÂN
SỰ
Đề tài: sớ 14
Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Toà án liên
quan đến việc giải quyết tranh chấp về lối đi qua bất
động sản liền kề mà theo quan điểm của nhóm bản án đó
chưa phù hợp với quy định của pháp luật, và giải quyết
các yêu cầu.

NHÓM

: 01

LỚP

: N03. TL1

Hà Nội, 2022


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
BÃNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHĨM
Gờm: 16 thành viên



Nhóm: 01
Lớp: N03.TL1

1. Kế hoạch làm việc của nhóm
- Nhóm trưởng phân cơng việc cho các thành viên.
- Họp nhóm và chỉnh sửa bài
- Hoàn thiện bản in.
- Hoàn thiện PowerPoint.
- Họp nhóm lần cuối để thống nhất nội dung và biên bản đánh giá hoạt động nhóm.
2. Phân chia cơng việc và họp nhóm
MSSV

Họ và tên

Cơng việc thực
hiện

460501

Phạm Trung
An

460502

Lê Thị
Nguyệt Ánh

460503


Lưu Hoàng
Anh

Nội dung câu 1,
mở đoạn

460504

Nguyễn Thị
Kim Anh

Nội dung câu 4

460506

Vũ Hà Anh
(nhóm
trưởng)

Nội dung câu 3,
kết luận, sửa nội
dung và hình
thức word chính
Nội dung câu 4

460506

Nguyễn
Lương Bằng


460507 Nguyễn
Vân
Chi

Nội dung câu
2 và word
chính
Nội dung câu 1

Powerpoint,
hình thức

Tiến độ
Mức độ hoàn thành
thực hiện
(đúng hạn)
Có Khơng Khơng Trung Tốt
tốt
Bình

Họp nhóm
Tha
m gia
đầy
đủ

Tích
cực
sơi
nổi


Đóng
góp
nhiều
ý
tưởng
X

Kết
luận
Xếp
loại

X

X

X

X

X

X

X

X

A


X

X

X

X

A

X

X

X

X

A

X

X

X

X

X


A+

X

X

X

X

X

A

X

X

X

X

A+

A-


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ

460508

460509

Phạm
Ngọc
Diệp
Mai Thị Hà
Dun

Nội dung
nhỏ
powerpoint
Nội dung câu 2

460510 Nguyễn Hữu
Đạt

Nội dung câu 4

460511

Trần Xuân
Đức

Nội dung câu 1

460512

Lê Ngọc Hà


Nội dung câu 3

460513 Nguyễn Việt


Nội dung câu 2

460514

Nguyễn
Nhật Hạ

Nội dung câu
2 và kết luận

460515

Nguyễn
Xuân
Hiếu
Phạm
Huy
Hiếu

Nội dung câu 3

460516

Nội dung câu 3


X

X

X

X

A

X

X

X

X

A

X

X

X

A

X


X

X

X

A

X

X

X

X

X

A

X

X

X

X

A


X

X

A-

X

X

X

X

X

X

A

X

X

X

X

A


Đề tài số 14: Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Toà án liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp về lối đi qua bất động sản liền kề mà theo quan điểm của nhóm
bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu sau:
1.
Từ bản án, quyết định đã sưu tầm được, hãy tóm tắt nội dung vụ việc dưới
dạng tình huống dài tối đa 1 trang A4 (giãn dịng 1.5, cỡ chữ 14, khơng giãn
đoạn, khơng giãn chữ).
2.
Hãy chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quyết định hoặc bản án sơ
thẩm mà nhóm đã sưa tầm và giải thích vì sao nhóm lại cho rằng chưa phù hợp?
3.
Hãy đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy
định của pháp luật.
4.
Từ việc phân tích vụ án, nhóm hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định
pháp luật hiện hành.


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

1


1. Từ bản án, tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình h́ng

1

2. Những điểm theo nhóm chưa phù hợp trong bản án sơ thẩm trên

2

2.1. Khái quát về lối đi qua bất động sản liền kề

2

2.2. Một số điểm chưa phù hợp theo quan điểm của nhóm trong bản án

3

3.
Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định
của pháp luật
6
3.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị N về việc yêu cầu ông
Nguyễn Văn A phải mở lối đi là phần đất tranh chấp.

6

3.2. Buộc bà Trần Thị N đền bù cho ông Nguyễn Văn A đúng với giá thị
trường ở phần đất mà bà đã mở lối đi trên bất động sản thuộc chủ sở hữu nhà
ông A
7
3.3. Tuyên bố hạn chế quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn A

4. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành từ phân tích vụ án

7
7

KẾT LUẬN

10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÃO

11


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
DANH MỤC TỪ VIẾT TAT

Bộ luật Dân sự năm 2015

BLDS 2015


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ xã hội phát triển, pháp luật được đặt lên hàng đầu đòi hỏi các
nhà làm luật phải liên tục xây dựng, nâng cao và củng cố pháp luật sao cho công
bằng, nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực tế hiện nay, những vấn đề pháp lý xoay
quanh lĩnh vực đất đai ngày càng nhiều đồng nghĩa với sự gia tăng phát sinh tranh

chấp giữa các bên tham gia vào quan hệ dân sự, có thể kể đến một vấn đề hết sức
nhạy cảm và phức tạp đó là tranh chấp lối đi qua giữa chủ sở hữu bất động sản với
bất động sản bị vây bọc. Vì vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 đã quy định trong những trường hợp đó, chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc có
quyền yêu cầu một trong các chủ sở hữu bất động sản vây bọc đáp ứng những nhu
cầu thiết yếu của họ mà trong số đó là nhu cầu có lối đi qua bất động sản vây bọc.
Để tìm hiểu rõ hơn về tranh chấp lối đi qua bất động sản liền kề thông qua đề số 14,
nhóm đã lựa chọn bản án 06/2018/DS-ST ngày 18/07/2018 tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Bạc Liêu mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy
định của pháp luật; từ đó phân tích, nghiên cứu và đề xuất hướng giải quyết phù hợp
hơn.
NỘI DUNG
Ngày 18 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 11/2017/TLST- DS ngày 31 tháng 8 năm
2017 về việc “Tranh chấp mở lối đi qua bất động sản liền kề” theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử sơ thẩm số 09/2018/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 5 năm 2018 giữa
các đương sự: Nguyên đơn là Bà Trần Thị N và bị đơn là Ông Nguyễn Văn A.
1. Từ bản án, tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình h́ng
Nội dung tình huống: Phần đất tranh chấp là của bố mẹ ông Nguyễn Văn A
cho vào năm 1978, đã kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhà
bà Trần Thị N ở phía sau nhà ơng A, bị bất động sản nhà ông A và một số nhà khác
vây bọc. Trước đây nhà bà có đường đi ra lộ CH A – HT nhưng tới khi xáng múc thì
khơng cịn đường đi nữa nên có xin đi nhờ trên đất của ông A vào khoảng năm
1997. Vào năm 2015, ông A cho bà N đổ bê tông trên phần đất này nối từ lộ CH A –


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
HT đến nhà bà với chiều ngang 0,7m, dài 48m, chi phí bà bỏ ra để làm là
19.000.000 đồng. Đến tháng



BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
9 năm 2016, do hai bên phát sinh tranh chấp nên gia đình ông A không cho gia đình
bà N tiếp tục sử dụng lối đi này nữa và cho con trai NLQ3 cất một gian nhà bếp trên
lối đi. Hiện nay gia đình bà đi nhờ trên đất của ông Nguyễn Văn C, nhưng ông C chỉ
cho đi nhờ đến khi Tòa án giải quyết xong vụ kiện. Nay gia đình bà khơng cịn lối đi
nào khác nên bà N đã khởi kiện yêu cầu ông A chuyển nhượng lại cho bà phần đất
trên với diện tích qua đo đạc thực tế là 31m2 để làm lối đi, bà đồng ý trả giá trị đất
cho ông A theo giá thị trường theo biên bản định giá ngày 24 tháng 02 năm 2017 và
yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ơng A đối với phần
đất nêu trên. Ơng A không đồng ý chuyển nhượng lại cho bà N.
Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 18–7-2018 về tranh
chấp mở lối đi qua bất động sản liền kề, Tịa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã quyết
định: khơng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị N đối với ông Nguyễn
Văn A về việc yêu cầu mở lối đi trên đất phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do hộ ông A đứng tên. Buộc ông Nguyễn Văn A trả cho bà Trần Thị N chi phí đổ bê
tông lối đi với số tiền là
9.500.000 đồng. Gia đình ông Nguyễn Văn A được quyền quản lý, sử dụng đường
bê tông này.
2. Những điểm theo nhóm chưa phù hợp trong bản án sơ thẩm trên
2.1. Khái quát về lối đi qua bất động sản liền kề
Bất động sản liền kề là bất động sản cùng loại, sát kề nhau. Giữa chúng có
một ranh giới về địa lí cũng như có quy chế pháp lý đối với quyền và nghĩa vụ của
chủ sở hữu bất động sản liền kề. Theo điều 245 BLDS 2015 quy định: “Quyền đối
với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất
động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản
khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền)”.
Quyền về lối đi qua là một trong những quyền đối với bất động sản liền kề.

Quy định quyền này sẽ giúp bảo vệ quyền lợi ích của các chủ thể, bảo đảm cân bằng
giữa chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền và chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng
quyền.
Căn cứ xác lập của quyền về lối đi qua: Theo Điều 246 BLDS 2015, quyền về


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
lối đi qua được xác lập do địa thế tự nhiên, theo quy định thông qua quy định tại
Khoản


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
1, Điều 254 BLDS 2015, theo thỏa thuận thông qua quy định tại Khoản 2, Điều 254
BLDS 2015 hoặc xác lập theo di chúc.
2.2. Một sớ điểm chưa phù hợp theo quan điểm của nhóm trong bản án
Dựa vào bản án số 06/2018/DS-ST của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu, nhóm
chúng em cho rằng trong 6 phán quyết cuối cùng mà tòa án đưa ra vẫn còn những
điểm chưa thỏa đáng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các bên tham gia và
vẫn chưa giải quyết được hoàn toàn vấn đề mâu thuẫn giữa hai bên bị đơn và nguyên
đơn. Sau đây, nhóm sẽ chỉ ra những điểm mà nhóm nhận định chưa hoàn toàn hợp lý
trong các phán quyết của Tịa án cùng lý do:
Thứ nhất, nhóm thấy quyết định: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Trần Thị N đối với ông Nguyễn Văn A về việc yêu cầu mở lới đi trên phần đất có
diện tích 31m2 tại thửa 594, tờ bản đồ 03 tọa lạc tại ấp GH, xã HT, huyện VL, tỉnh
Bạc Liêu do hộ ông Nguyễn Văn A đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất” của Tòa án là chưa hợp lý bởi những lý do sau đây:
Thực tế, trước khi xáng múc, đất của bà N vẫn còn lối đi ra đường lớn công
cộng tuy nhiên, sau khi xáng múc, lối đi này đã khơng cịn nữa. Vì đất của bà N là

đất bị vây bọc bởi các bất động sản khác nên bà N có xin chủ sở hữu bất động sản
liền kề là ông A một lối đi qua tới đường lớn CH A - HT và được ông A cho phép sử
dụng từ năm 2000. Không chỉ vậy, tới đầu năm 2016, ông A đồng ý để bà N đổ bê
tông cho lối đi này nhằm phục vụ cho mục đích đi lại cũng như cho công việc bn
bán của bà N. Chi phí mà bà N bỏ ra để đổ bê tông cho lối đi này là 19.000.000
đờng. Vì vậy, căn cứ vào Khoản 1 Điều 254 BLDS 2015 có quy định: “Chủ sở hữu
có bất đợng sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà khơng
có hoặc khơng đủ lới đi ra đường cơng cợng, có qùn u cầu chủ sở hữu bất đợng
sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ…” thì bà N có
quyền sử dụng hợp pháp lối đi qua mà bà đã xin phép và đổ bê tông (với sự đờng ý
của chủ sở hữu).
Bởi những phân tích trên, nhóm nhận định đây là con đường hợp lý và thuận
tiện nhất đối với gia đình bà N theo đúng quy định của Khoản 1 Điều 254 BLDS
2015: “...Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị
vây bọc và


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
○ thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất đợng sản có mở lới đi…”. Vì đã được ông A
đồng ý nên lối đi này không hoặc ít gây thiệt hại đến bất động sản của ông và ông
A cũng đồng ý cho bà N đổ bê tông con đường này nên việc đổ bê tông cũng
không gây thiệt hại đến bất động sản ấy, mặc dù để phục vụ cho lợi ích chính đáng
của bà N nhưng ơng A cũng có phần hưởng lợi từ việc cải tạo và nâng cấp lối đi
này. Tiếp đến, tuy ngoài lối đi mà bà N đã sử dụng này ra vẫn còn những lối đi

khác nối từ bất động sản thuộc chủ sở hữu của bà N ra đường lớn nhưng những lối
đi qua này hoàn toàn chưa được sự đồng ý của chủ sở hữu các bất động sản khác.
Như ông C cho phép bà N và gia đình sử dụng lối đi qua bất động sản thuộc chủ
sở hữu của ông nhưng chỉ tạm thời trong khoảng thời gian Tòa giải quyết tranh
chấp cho bà N và ơng A. Khơng có một cơ chế nào để đảm bảo rằng ông C sẽ tiếp
tục cho bà N sử dụng con đường này sau khi Tòa đưa ra quyết định cuối cùng để
giải quyết cho yêu cầu khởi kiện của bà N, vì vậy nên nếu Tịa quyết định khơng
chấp nhận u cầu khởi kiện của bà N về việc mở lối đi qua trên bất động sản nhà
ơng A thì bà N sẽ hoàn toàn khơng cịn con đường nào để phục vụ cho lợi ích đi
lại cũng như phục vụ cho việc buôn bán của gia đình bà N nữa. Việc khởi kiện yêu
cầu mở lối đi qua trên các bất động sản khác cũng sẽ tốn thời gian và phức tạp, vì
thế trong thời gian ấy, gia đình bà N hoàn toàn không có lối đi ra lộ CH A - HT.
Bởi vậy, đứng trên quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà N, nhóm
cho rằng quyết định này của Tòa án là chưa hoàn toàn thỏa đáng.
■ Bên cạnh những phân tích trên, nhóm cho rằng việc Tịa nhận định do mâu
thuẫn của hai bên rất trầm trọng nên không thể để bà N sử dụng lối đi này
cần được cân nhắc lại. Trước khi khởi kiện yêu cầu được mở một lối đi qua
trên bất động sản thuộc sở hữu của ông A, việc gia đình bà N gặp phải sự
cản trở lúc sử dụng lối đi tranh chấp này sau khi mâu thuẫn giữa hai nhà xảy
ra, là do khi ấy việc bà N được phép sử dụng lối đi qua này chưa được pháp
luật bảo vệ, chỉ là thỏa thuận giữa đôi bên. Vậy nên nếu sau khi có được sự
chấp nhận của Tịa về việc mở lối đi trên phần đất thuộc sở hữu của ông A
thì bà N đã được pháp luật bảo vệ trong việc sử dụng lối đi qua này một
cách hợp pháp vì mục đích chính đáng của mình. Thêm vào đó, dù chính


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
quyền địa phương đã vận động gia đình bà N và gia đình ông A không xúc
phạm lẫn nhau nhưng ông A cùng gia đình vẫn có những hành động gây cản

trở hay kiên quyết ngăn cản trong quá trình bà


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
○ N sử dụng lối đi qua như rải đinh mỗi khi bà chạy xe qua, quăng rác và hất nước
bẩn, đập vỡ đường đi, xây rào, dựng bếp,... thì tức là ơng A đang thực hiện những
hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là vi phạm quy định của Khoản 3 Điều 248 của
BLDS 2015: “Không được thực hiện hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực
hiện quyền đối với bất động sản hưởng quyền trở nên khó khăn”
■ Thứ hai, nhóm cũng nhận định quyết định: “Buộc ông Nguyễn Văn A trả
cho bà Trần Thị N chi phí đổ bê tông lối đi với số tiền là 9.500.000 đồng.
Gia đình ông Nguyễn Văn A được quyền quản lý, sử dụng đường bê tông
này.” là chưa hoàn toàn thỏa đáng.
■ Căn cứ theo những lý do đã phân tích ở trên, nhóm nhận định: Theo cơ sở
thực tế cho thấy tới đầu năm 2016 thì bà N mới được ông A cho phép đổ bê
tơng trên lối đi có chiều ngang là 0,7m và chiều dài là 48m, tổng cộng hết số
tiền là 19.000.000 đồng. Nhưng tới tháng 9 năm 2016 thì mâu thuẫn 2 nhà
đã phát sinh và ông A không cho bà N đi qua đoạn đường này sau khoảng
thời gian hai bên xảy ra tranh chấp nữa. Điều này chứng tỏ, dù đã bỏ ra một
chi phí khá cao, 19.000.000 đồng để đổ bể tông cho đoạn đường với mong
muốn cải tạo con đường phục vụ cho mục đích chính đáng là đi lại và bn
bán của mình, thế nhưng khoảng thời gian mà bà N cũng như gia đình bà sử
dụng con đường ấy không được bao lâu thì đã bị ông A ngăn cản không cho
phép sử dụng nữa. Dựa trên những cơng sức và chi phí mà bà N bỏ ra để cải
tạo con đường và thời gian mà bà cùng gia đình sử dụng con đường ấy thì
với số tiền mà theo phán quyết của Tòa án là một nửa chi phí mà bà N đã bỏ
ra để cải tạo con đường, 9.500.000 là chưa hợp lý. Khơng chỉ vậy, dựa vào
những phân tích của nhóm ở trên cho rằng bà N có quyền được sử dụng lối
đi qua được mở trên bất động sản thuộc sở hữu của ơng A thì việc bà N cải

tạo, nâng cấp con đường là hợp pháp và phục vụ cho lợi ích của cá nhân và
gia đình bà N, vậy nên việc ông A phải bồi thường cho bà N với một nửa
giá trị chi phí mà bà N đã bỏ ra để đổ bê tông cho con đường (9.500.000
đồng) là không cần. Việc cải tạo con đường ấy là mong muốn của bà N phục
vụ cho lợi ích cá nhân bà và gia đình vậy nên ông A không cần phải trả cho


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
bà N bất kì một khoản chi phí nào khác nhưng bà N vẫn phải được sử dụng
hợp pháp lối đi trên theo quy định của pháp luật.
■ Qua những lý do đã nêu và giải thích ở trên về những vấn đề chưa phù hợp
ở bán án này, chúng em mong muốn đề xuất cách giải quyết hợp lý hơn để
bảo vệ quyền và


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
○ lợi ích hợp pháp cho người dân.
○ Quan điểm của nhóm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của
pháp luật
■ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị N về việc yêu cầu ông Nguyễn
Văn A phải mở lối đi là phần đất tranh chấp.
■ Theo quyết định của bản án sơ thẩm, bà N không được chấp nhận yêu cầu
khởi kiện về việc yêu cầu mở lối đi trên phần đất có diện tích 31m2 tại thửa
594, tờ bản đồ 03 tọa lạc tại ấp GH, xã HT, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu do hộ
ông Nguyễn Văn A đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Với
lý do ngoài lối đi nhà ông A vẫn còn lối đi trên đất của các hộ gia đình khác;
như hiện tại ông C vẫn đang cho gia đình bà N đi nhờ nhưng xét trên
phương diện thực tế, mảnh đất nhà bà N bị vây quanh bởi các bất động sản

khác và ông C cho nhà bà N sử dụng lối đi qua trên phần đất nhà mình chỉ
là thỏa thuận giữa hai bên và thỏa thuận này chỉ tờn tại cho đến khi Tịa án
giải quyết xong vụ kiện. Tiếp theo, trước khi xảy ra tranh chấp trên mảnh
đất của nhà ông A, ông A vẫn cho phép bà N sử dụng lối đi trên phần đất
của mình khoảng 16 năm. Hơn nữa, năm 2015 ông A cịn cho phép bà N đổ
bê tơng trên con đường phục vụ mục đích đi lại cùng việc buôn bán với điều
kiện bà N phải tự chi trả số tiền cải tạo là 19 triệu. Về phần căn bếp mới
được cất lên trên con đường đang tranh chấp, đây chỉ là căn bếp với kết cấu
đơn giản nên nếu di dời sẽ không gây thiệt hại quá nhiều cho chủ bất động
sản liền kề là ông A và con đường bà N cùng gia đình sử dụng.
■ Từ đó có thể tính đến giải quyết một phần tình huống là: Vì nhà bà N là bất
động sản vây bọc nên theo quy định tại Khoản 1 Điều 254 của Bộ luật Dân
sự hiện hành thì bà N hoàn toàn có quyền được yêu cầu chủ sở hữu bất động
sản vây bọc dành cho bà một lối đi hợp lý trên phần đất của họ (trong đó có
nhà ơng A). Thực tế cũng khơng có gì chắc chắn rằng các chủ sở hữu khác
sẽ mở lối đi qua cho gia đình bà N và xét những căn cứ trên thì chấp nhận
yêu cầu mở lối đi qua trên phần đất do hộ ông A đứng tên là hợp lý và thuận
tiện nhất. Bên cạnh đó, vấn đề mâu thuẫn có thể giải quyết bằng cách Tòa


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
đứng ra giảng hịa ngay khi ấy, để cho hai bên trình bày những mâu thuẫn
sau đó đưa ra cơ chế hợp lý và để địa phương giám sát việc hai nhà thi hành
biện pháp giảng
○ hòa mà Tòa đã đưa ra.


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ

■ Ḅc bà Trần Thị N đền bù cho ông Nguyễn Văn A đúng với giá thị trường
ở phần đất mà bà đã mở lối đi trên bất động sản thuộc chủ sở hữu nhà ông
A
■ Ở trên, nhóm chúng em đã nêu ra quan điểm chấp thuận yêu cầu khởi kiện
của bà Trần Thị N về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn A phải mở lối đi trên
phần đất tranh chấp. Có thể thấy, việc mở một lối đi 31m2 là đúng theo quy
định của pháp luật, thuận tiện và hợp lý nhất với gia đình bà N, nhưng đồng
thời cũng ảnh hưởng tới quyền lợi của gia đình ơng A. Do đó, căn cứ theo
Khoản 1 Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “...Chủ sở hữu bất
động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất đợng
sản chịu hưởng qùn, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”, gia đình bà
Trần Thị N có nghĩa vụ phải đền bù cho nhà ông A một khoản tiền theo
đúng giá đất thị trường ứng với phần đất tranh chấp có diện tích 31m2 với
chi phí khoảng
○ 10.500.000 đờng. Nhóm đưa ra quan điểm trên nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của hai bên gia đình theo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt đối với gia
đình ông Nguyễn Văn A.
■ Tuyên bố hạn chế qùn sử dụng đất của ơng Ngũn Văn A
■ Nhóm xét thấy, mâu thuẫn tranh chấp giữa ông A và bà N vẫn chưa được
giải quyết triệt để nên nếu chấp thuận yêu cầu khởi kiện mở lối đi qua trên
phần đất nhà ơng A thì buộc phải có biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi gia
đình bà N không bị xâm phạm khi sử dụng lối đi qua này. Vì vậy, đứng trên
quan điểm bảo vệ lợi ích của các bên liên quan nhóm cho rằng Tịa nên
tun bố hạn chế một phần quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn A đối với
phần đất tranh chấp. Nên những hành vi của gia đình ông A gây cản trở việc
sử dụng đất của nhà bà N như rải đinh, quăng rác và hất nước bẩn vào
những người đến nhà bà, đập đứt một đoạn đường khoảng 02m, xây tường
cao khoảng 01m và cất gian bếp chắn ngang lối đi là những hành vi vi phạm
pháp luật theo Điều 190 BLDS 2015: “Chủ sở hữu được sử dụng tài sản
của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích



BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
q́c gia, dân tợc, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác” và Khoản 3 Điều 248 BLDS 2015.
○ Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành từ phân tích vụ án
■ Hiện nay, các quy định về quyền với bất động sản liền kề nói chung, quyền
về lối đi qua được quy định trong Điều 254 BLDS 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) vẫn


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
○ cịn một số điểm thiếu sót, chưa phù hợp với tình hình hiện nay ở Việt Nam, dẫn
đến bất cập trong việc áp dụng các quy định này trên thực tế, khiến cho việc thực
hiện chưa đạt hiệu quả cao. Vì vậy, từ việc phân tích vụ án trên, nhóm em xin có
một số kiến nghị hoàn thiện đối với Bộ Luật Dân sự hiện hành như sau:
■ Thứ nhất, tại Đoạn 3, Khoản 1, Điều 254 BLDS 2015, sửa đổi bổ sung 2017
cần quy định về phương thức đền bù, mức đền bù, thời hạn đền bù và chế tài
nếu không thực hiện việc đền bù của cả chủ sở hữu bất động sản hưởng
quyền và chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền (trừ trường hợp có
thỏa thuận khác theo quy định của luật) cụ thể như sau:
■ + Về phương thức đền bù, có thể đền bù bằng tiền hay bằng hiện vật. Theo
quan điểm của nhóm nên quy định cụ thể phương thức đền bù bằng hình
thức trả tiền, sẽ tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn trong việc giao – nhận
cũng như việc sử dụng khoản đền bù của bên được đền bù.
■ + Về mức đền bù, hiện nay tồn tại song song hai loại giá là giá đất theo
bảng giá của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và giá đất theo thị trường. Mặc dù
việc sử dụng bảng giá của Ủy ban nhân dân tỉnh có ưu điểm là được niêm

yết cơng khai và rõ ràng. Tuy nhiên với điều kiện giá đất thường không cố
định do chịu nhiều chi phối của thị trường, ... dẫn đến việc sử dụng bảng giá
đất của Ủy ban nhân dân tỉnh trở nên khơng hợp lý, ít nhiều gây ảnh hưởng
đến quyền lợi của chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền. Do đó, nhóm
kiến nghị nhà làm luật áp dụng mức đền bù theo giá đất trên thị trường.
■ + Về thời hạn đền bù, cần phải quy định để đảm bảo được quyền và lợi ích
cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền.
■ + Về chế tài, nên quy định những chế tài cụ thể để áp dụng trong trường hợp
chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền không thực hiện đền bù cho chủ sở
hữu bất động sản chịu hưởng quyền. Để ràng buộc nghĩa vụ của chủ sở hữu
bất động sản hưởng quyền và có cơ sở xử lý khi họ khơng đền bù, bảo đảm
quyền lợi của bên có bất động sản chịu hưởng quyền.
■ Thứ hai, nhóm kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định tại
Đoạn 2 Khoản 1 Điều 254 BLDS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 rằng như thế


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
nào là “lối đi thuận tiện, hợp lý” và “lối đi không đủ”. Cụ thể tại Điều 254
BLDS 2015 quy định việc


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
○ mở lối đi sao cho thuận tiện và hợp lý nhất nhưng lại không có quy định hướng
dẫn cụ thể lối đi như thế nào thì được coi là “thuận tiện” và “hợp lý”? Về giới hạn
chiều dài, chiều rộng, chiều cao do các bên tự thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho
việc đi lại và ít ảnh hưởng tới các bên. Tuy nhiên, chủ sở hữu bất động sản hưởng
quyền và chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền suy cho cùng là hai chủ thể
khác nhau nên ý chí cũng khác nhau, có thể bên đây cho rằng giới hạn này là hợp

lý nhưng bên kia lại cho rằng không hợp lý nên khó đạt được sự thỏa thuận, dẫn
đến tranh chấp phát sinh. Trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau thì
có quyền u cầu Tịa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.
Nếu có văn bản hướng dẫn cụ thể về lối đi “thuận tiện, hợp lý” và lối đi không đủ
thì Thẩm phán cũng có đủ căn cứ pháp lý để xác định theo yêu cầu của đương sự,
tránh trường hợp xác định theo ý chí chủ quan, ảnh hưởng đến quyền sở hữu của
các bên. Đồng thời, cần quy định cụ thể căn cứ xác định lối đi không đủ cho từng
khu vực: thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi.
■ Thứ ba, cần bổ sung, sửa đổi quy định tại Khoản 2 Điều 254 BLDS 2015 về
diện tích tối thiểu được chuyển nhượng để làm lối đi căn cứ theo diện tích
của bất động sản liền kề chịu hưởng quyền để chia phần trăm diện tích đất
phù hợp để làm lối đi qua. Tại Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định vị trí,
giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận,
bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có
tranh chấp về lối đi thì có quyền u cầu tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác xác định.
■ Thứ tư, cần bổ sung vào Điều 249 BLDS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
quy định cụ thể thời hạn hợp lý mà chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng
quyền phải thông báo cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền trong
trường hợp có thay đổi về việc thực hiện quyền. Qua đó, nâng cao trách
nhiệm của bên có bất động sản chịu hưởng quyền và tạo điều kiện thuận lợi
cho bên có bất động sản hưởng quyền tìm cách thức thay thế, đảm bảo việc
thực hiện quyền được liên tục.
■ Thứ năm, cần bổ sung vào Điều 254 BLDS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
các quy định liên quan đến thay đổi hiện trạng về lối đi qua cho phù hợp với
điều kiện thực tế. Trong các quy định của pháp luật chỉ mới dừng lại ở việc

cho chủ thể quyền u cầu mở lối đi mà khơng có quy định quyền xin thay
đổi hiện trạng lối đi khi hiện trạng lối


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
○ đi khơng cịn phù hợp với thực tế. Lối đi là để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và
khai thác, sử dụng bất động sản bị vây bọc, khi lối đi đã được thiết lập mà diện
tích khơng đủ để sử dụng một cách bình thường thì yêu cầu xin mở rộng là một
việc làm cần thiết, nhu cầu xin thay đổi hiện trạng lối đi là đòi hỏi tất yếu từ những
thay đổi của cuộc sống.
■ Ngoài ra nhóm đề xuất các nhà làm luật xem xét bổ sung phạm vi quyền đối
với bất động sản liền kề trong Mục I Chương XIV của Bộ Luật dân sự 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017. Bộ Luật Dân sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
không quy định về phạm vi quyền đối với bất động sản liền kề dẫn tới thực
tế chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền có thể lạm dụng quyền của mình
để gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền. Để đảm bảo
lợi ích các bên, BLDS cần bổ sung quy định phạm vi quyền đối với BĐS
liền kề được xác định thông qua thỏa thuận, nếu khơng thỏa thuận được thì
áp dụng theo phạm vi quyền đối với BĐS liền kề.
○ KẾT LUẬN
■ Từ bản án sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 18–7-2018 về tranh chấp mở lối
đi qua bất động sản liền kề, tỉnh Bạc Liêu có thể thấy quyền về lối đi qua là
một quyền năng đặc biệt quan trọng. Thực tế, bất kì chủ thể nào cũng có
nhu cầu sử dụng lối đi để thông thương ra đường công cộng, phục vụ cuộc
sống hằng ngày. Vì vậy, quyền yêu cầu mở lối của chủ sở hữu bất động sản
bị vây bọc khi khơng có hoặc khơng đủ lối đi là một quyền dân sự rất thiết
thực của người dân. BLDS 2015 đã có những sự thay đổi rõ rệt và tiến bộ về
quy định quyền đối với bất động sản liền kề, trong đó có quyền về lối đi.
Tuy nhiên, vẫn có một số điểm bất cập cịn tờn tại, gây khó khăn cho các

bên chủ thể cũng như việc xử lý, giải quyết tranh chấp trên thực tế của Tịa
án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Vì vậy, những vấn đề bất
cập cần được sửa đổi bằng những quy định cụ thể hơn để khắc phục những
vướng mắc nhằm có những hướng giải quyết thấu đáo cho các tranh chấp
phát sinh. Phía trên đây là phần trình bày quan điểm của nhóm 1, chúng em
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ để hồn thiện hơn


BÀI TẬP NHĨM MƠN:
LUẬT DÂN SỰ
những bài làm sắp tới. Chúng em xin chân thành cảm ơn!


×