Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG CÁC MÔ HÌNH NUÔI CUA BIỂN (Scylla pp) Ở TỈNH CÀ MAU pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.34 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
LĂNG ĐOÀN THÁI MINH
KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG CÁC MÔ HÌNH NUÔI CUA
BIỂN (Scylla pp) Ở TỈNH CÀ MAU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH QUẢN LÝ NGHỀ CÁ
2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
LĂNG ĐOÀN THÁI MINH
KHẢO SÁT HIỆN TRẠNG CÁC MÔ HÌNH NUÔI CUA
BIỂN (Scylla pp) Ở TỈNH CÀ MAU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH QUẢN LÝ NGHỀ CÁ
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
T.s TRƯƠNG HOÀNG MINH
Th.s. TRẦN VĂN VIỆT
2009
i
LỜI CẢM TẠ
Trước hết, xin chân gởi đến thầy Trần Văn Việt và thầy Trương Hoàng Minh
lời cảm ơn sâu sắc đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp nầy.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô khoa thủy sản, trường Đại học Cần Thơ đã
tận tình giảng dạy, bồi dưỡng cho tôi những kiến thức bỗ ít để thực hiện tốt đề
tài nầy.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ đang công tác tại phòng nông
nghiệp huyện Đầm Dơi, Ngọc Hiển và Trần Văn Thời đã cung cấp cho tôi
những thông tin cần thiết.
Xin cảm ơn tất cả các bạn lớp Quản lý nghề Cá khóa 31 đã nhiệt tình giúp đỡ


và động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Lăng Đoàn Thái Minh
ii
TÓM TẮT
Với giá trị kinh tế cao, cua biển (scylla sp) đang được nuôi phổ ở nhiều địa
phương của tỉnh Cà Mau, đem lại lợi ích không nhỏ cho người nuôi. Tuy
nhiên sự phát triển của nghề nuôi còn mang tính tự phát, chưa có hệ thống quy
hoạch cụ thể và thiếu thông tin một cách đầy đủ về đối tượng nuôi này. Vì
vậy, việc điều tra hiện trạng các mô hình nuôi cua biển, có ý nghĩa quan trọng
trong việc đề xuất các biện pháp quy hoạch và quản lý phù hợp cho sự phát
triển nghề nuôi cua biển ở tỉnh Cà Mau. Hai mô hình nuôi cua chủ yếu được
ghi nhận ở Cà Mau là: cua - rừng - tôm qua phỏng vấn trực 30 hộ nuôi ở
huyện Đầm Dơi và Ngọc Hiển, mô hình nuôi cuabán thâm canh phỏng vấn 10
hộ nuôi ở huyện Trần Văn Thời. Hai mô hình nuôi, có sự khác biệt rõ rệt về
các yếu tố như: mật độ thả, cho ăn, chăm sóc, quản lý… Diện tích mặt nước
trung bình của mô hình cua – rừng – tôm là 40,843± 30,779 m
2
, mô hình bán
thâm canh cua là 2.572±1.867 m
2
. Năng suất thu hoạch, lợi nhuận trung bình ở
mô hình bán thâm canh cua là 1.259±868 kg/ha/năm và 24,89±28,13
triệu/hộ/ha, ở mô hình cua – rừng – tôm là 69±28 kg/ha/năm, lợi nhuận từ nuôi
cua trong mô hình là 11,35±5,46 triệu/hộ/ha/năm.
Nuôi cua biển với hai mô hình nuôi trên điều đạt hiệu quả kinh tế. Nghề nuôi
cua ở Cà Mau đang phát triển theo hướng tích cực, do đó cần đầu tư, hỗ trợ
vốn, tập huấn kỹ thuật nuôi cho các hộ nuôi ở cả hai mô hình.
iii
MỤC LỤC
Tựa đề trang

Lời cảm tạ ……………………………………………………………… i
Tóm tắt………………………………………………………………… ii
Mục lục ……………………………………………………………………….iii
Danh sách bảng…………………………………………………………… v
Danh sách hình ……………………………………………………………….vi
Các từ và thuật ngữ viết tắt …………………………………………………vii
Chương I: GIỚI THIỆU Error! Bookmark not defined.
1.1 Đặt vấn đề Error! Bookmark not defined.
1.2 Mục tiêu đề tài Error! Bookmark not defined.
1.3 Nội dung nghiên cứu Error! Bookmark not defined.
Chương II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU Error! Bookmark not defined.
2.1 Đặc điểm sinh học cua biển Error! Bookmark not defined.
2.3 Kỹ thuật nuôi cua kết hợp Error! Bookmark not defined.
2.4 Tình hình nuôi cua biển Error! Bookmark not defined.
2.4.1 Trên thế giới Error! Bookmark not defined.
2.4.2 Ở Việt Nam Error! Bookmark not defined.
2.4.3 Tình hình nuôi thủy sản và Cua ở Cà Mau Error! Bookmark not defined.
2.4.4 Khuynh hướng phát triển nghề nuôi cua ở Cà Mau .Error! Bookmark not
defined.
Chương III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Error! Bookmark not defined.
3.1 Thời gian và địa điểm Error! Bookmark not defined.
Hình 3.1: Bản đồ tỉnh Cà Mau Error! Bookmark not defined.
3.2 Vật liệu nghiên cứu Error! Bookmark not defined.
3.3 Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu Error! Bookmark not
defined.
3.4 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu Error! Bookmark not defined.
Chương IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Error! Bookmark not defined.
4.1 Tình hình phát triển của mô hình bán thâm canh cua và cua – rừng – tôm ở tỉnh
Cà Mau Error! Bookmark not defined.
4.2 Mô hình cua -rừng – tôm và mô hình bán thâm canh cua Error! Bookmark

not defined.
4.2.1 Mùa vụ nuôi Error! Bookmark not defined.
4.2.2 Công trình và chuẩn bị ao nuôi Error! Bookmark not defined.
Hình 4.1: Diện tích mặt nước trung bình của mô hình cua - rừng - tôm và bán
thâm canh cua (chuyên cua) ở tỉnh Cà Mau Error! Bookmark not defined.
4.2.3 Nguồn giống, mật độ nuôi Error! Bookmark not defined.
4.2.4 Chăm sóc và quản lý Error! Bookmark not defined.
4.2.5 Thu hoạch Error! Bookmark not defined.
4.2.6 Hạch toán kinh tế Error! Bookmark not defined.
4.3 So sánh hiệu quả kinh tế giữa hai mô hình bán thâm canh cua và cua – rừng –
tôm Error! Bookmark not defined.
Chương V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Error! Bookmark not defined.
5.1 Kết luận Error! Bookmark not defined.
5.2 Đề xuất Error! Bookmark not defined.
iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC Error! Bookmark not defined.
Phụ lục A: Phiếu phỏng vấn Error! Bookmark not defined.
Phụ lục B Error! Bookmark not defined.
Phụ lục B.1: Bảng tổng hợp số liệu 30 phiếu điều tra mô hình Cua-Rừng-tôm
Error! Bookmark not defined.
Phụ lụcB.2: Bảng tổng hợp số liệu 10 phiếu điều tra mô hình chuyên canh Cua
Error! Bookmark not defined.
v
DANH SÁCH BẢNG
Tựa đề Trang
Bảng 4.1: Kích thước và trọng lượng cua giống ở tỉnh Cà Mau 19
Bảng 4.2: So sánh một vài chỉ tiêu kỹ thuật giữa 2 mô hình …………………… 22
Bảng 4.3: Chi phí đầu tư cho mô hình bán thâm canh cua 23
Bảng 4.4: So sánh các chỉ tiêu kinh tế giữa 2 mô hình trong một năm ………… 23

vi
DANH SÁCH HÌNH
Tựa đề Trang
Hình 3.1: Bản đồ tỉnh Cà Mau …………………………………………………… 14
Hình 4.1: Diện tích mặt nước trung bình của mô hình cua - rừng - tôm và bán thâm
canh cua (chuyên cua) ở tỉnh Cà Mau………………………………………………18
Hình 4.2: Phần trăm số hộ sử dụng nguồn cua giống cho mô hình cua – rừng –tôm ở
tỉnh Cà Mau……………………………………………………………………… 18
vii
CÁC TỪ VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL Đồng bằng sông cữu long
TTXVN Thông tấn xã việt Nam
1
Chương I
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam là vùng có hệ thống sông ngòi rộng
khắp và bờ biển dài rất thuận lợi cho việc phát triển thủy sản. Hàng năm ngành
thủy sản góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, năm
2008 tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 2.5 tỷ đô la (TTXVN, 2009).
Nghề nuôi trồng thủy sản trong những năm gần đây có những bước phát triển
vượt bậc. Trong đó nghề nuôi thủy sản nước lợ đang phát triển mạnh mẽ, được
đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển và góp phần đáng kể vào nền kinh tế
đất nước.
Những đối tượng thủy sản nước lợ được nuôi phổ biến ở ĐBSCL như: Tôm
sú, Cua biển, cá Chình, cá Mú, các loài cá nước lợ khác. Trong những loài
giáp xác được nuôi, bên cạnh con Tôm sú thì con Cua biển (Scylla serrata)
đang được người dân chọn làm đối tượng nuôi khá phổ biến trong các ao đầm
nước lợ ven biển, do chúng có khả năng tăng trọng nhanh, kích thước lớn, dễ
nuôi không đòi hỏi kỹ thuật cao và thu hoạch trong thời gian ngắn. Cua biển là

đối tượng nuôi có nhiều tiềm năng kinh tế do chúng có giá trị kinh tế cao, đặc
biệt là giá trị xuất khẩu và nhu cầu làm thực phẩm trong nước ổn định. Theo
đánh giá của Bộ Thủy sản năm 2004, sản lượng xuất khẩu Cua biển của Việt
Nam đạt khoảng 6000 tấn, kim ngạch đạt trên 25 triệu đô la. Hiện nay việc
nuôi Cua biển ngày càng phát triển với các hình thức nuôi như: nuôi cua con
thành cua thịt, nuôi cua ốp lên cua chắc, nuôi cua gạch và cua lột đã đem lại
kết quả.
Cà Mau là một trong những tỉnh ven biển của ĐBSCL đi đầu trong việc nuôi
trồng thủy sản, thời gian qua, con tôm sú, mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của
tỉnh liên tục gặp nhiều khó khăn về thị trường, dịch bệnh, thì sự xuất hiện nghề
nuôi Cua biển như một hướng đi tích cực cho cộng đồng ven biển với mô hình
nuôi chuyên canh và nuôi kết hợp: tôm-cua, cua - rừng - tôm đã mang lại hiệu
quả kinh tế khá cao cho người dân. Tuy nhiên sự phát triển của nghề nuôi cua
còn mang tính tự phát chưa có hệ thống quy hoạch cụ thể, hiện nay vẫn thiếu
thông tin một cách đầy đủ về đối tượng này, để nuôi một đối tượng mới hiệu
quả cần phải quan tâm và tìm hiểu một số vấn đề như: tình hình phát triển các
mô hình nuôi, nguồn giống, thức ăn, cách quản lý môi trường nuôi, kỹ thuật
nuôi, chi phí đầu tư. Với thực tế từ các vấn đề trên, đề tài “Khảo sát hiện
2
trạng các mô hình nuôi cua biển (Scylla sp) ở tỉnh Cà Mau ” đã được thực
hiện.
1.2 Mục tiêu đề tài
Tìm hiểu hiện trạng về tình hình kỹ thuật và kinh tế của các mô hình nuôi Cua
biển, từ đó cung cấp thông tin góp phần làm cơ sở cho việc phát triển nghề
nuôi Cua biển ở Cà Mau và ĐBSCL.
1.3 Nội dung nghiên cứu
- Tình hình phát triển của mô hình bán thâm canh cua và cua - tôm - rừng ở
tỉnh Cà Mau.
- Các chỉ tiêu kỹ thuật của hai mô hình bán thâm canh cua và cua - rừng - tôm.
- So sánh hiệu quả kinh tế giữa hai mô hình bán thâm canh cua và cua - rừng -

tôm.
3
Chương II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học cua biển
Giới thiệu chung
Cua biển (Scylla sp) là loài giáp xác thuộc bộ mười chân (Decapoda), là đối
tượng hải sản quý, có giá trị thương mại cao và là mặt hàng xuất khẩu quan
trọng của nhiều nước. Việt Nam có nguồn lợi cua khá phong phú, phân bố ở
khắp các vùng biển, ao đầm, cửa sông, vùng vịnh. Ở vùng biển Việt Nam cua
xanh và cua bùn là hai loài cua có kích thước lớn, có giá trị kinh tế cao. Cua có
thân hình dẹp theo hướng lưng bụng. Toàn bộ cơ thể được bao bọc trong lớp
vỏ kitin dày, thường có màu xanh lục hay vàng sẫm.
(Nguồn: htt://www.fistenet.gov.vn/DMSP/index.asp?menu=cua)
Vòng đời cua biển
Vòng đòi cua biển trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn có tập
tính sống, cư trú khác nhau.
- Ấu trùng Zoea và Mysis: Sống trôi nổi và nhờ dòng nước đưa vào ven bờ
biến thái thành cua con.
- Cua con: Bắt đầu sống bò trên đáy và đào hang để sống hay chui rúc vào gốc
cây, bụi rậm, đồng thời với việc chuyển từ đời sống trong môi trường nước
mặn sang nước lợ ở rừng ngặp mặn, vùng cửa sông hay cả vùng nước ngọt
trong quá trình lớn lên.
- Cua đạt giai đoạn thành thục: Có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển
sinh sản. Cua có khả năng bò lên cạn và di chuyển rất xa. Đặc biệt vào thời kỳ
sinh sản cua có khả năng vượt cả rào chắn để di cư sinh sản.
- Ấu trùng Zoea thích hợp với độ muối từ 25-30%o, cua con và cua trưởng
thành thích nghi và phát triển tốt trong phạm vi 2-38 %o. Tuy nhiên, trong thời
kỳ đẻ trứng đòi hỏi độ mặn từ 22-32 %o. Cua biển là loài phân bố rộng, tuy
nhiên, nhiệt độ thích hợp nhất từ 25-30

0
C.
(Nguồn: />Sinh trưởng của cua
Tuổi thọ trung bình của Cua từ 2 đến 4 năm, qua mỗi lần lột xác khối lượng
cua tăng trung bình 20-50%. Cua biển có kích thước tối đa là 19-28cm, khối
lượng từ 1-3 kg/con. Với kích cỡ tương đương nhau về chiều dài và chiều rộng
4
thì cua đực nặng hơn cua cái. (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải,
2004)
Sinh sản
Mùa sinh sản của cua biển ở miền Bắc Việt Nam là tháng 2-3 và tháng 7-8, ở
miền Nam từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau.
Ấu trùng cua thích hợp với độ mặn nước từ 25-30‰, cua con và cua trưởng
thành thích nghi và phát triển tốt trong phạm vi 2-38‰. Tuy nhiên, trong thời
kỳ đẻ trứng, cua cần môi trường nước có độ mặn 22-32‰. (Hoàng Đức Đạt,
2003)
Phân bố
Cua biển là loài phân bố rộng, tuy nhiên, nhiệt độ thích hợp nhất từ 25-30
0
C.
Cua chịu đựng pH từ 7,5-9,2 và thích hợp nhất là 8,2-8,8. Cua thích sống nơi
nước chảy nhẹ, dòng chảy thích hợp nhất trong khoảng 0,06-1,6m/s.
(Nguồn: />Trong chu kỳ sống của cua, cua biển sinh sống ở những sinh cảnh khác nhau.
Thời kỳ phôi thay được cua mẹ mang và phát triển ở vùng biển ven bờ, ấu
trùng nở ra và sống phù du ở đây. Cua bột mới nở ra theo thủy chiều dạt vào
vùng nước lợ: những bãi lầy vùng sú vẹt ven bờ biển, cửa sông, nơi có đáy
bùn, bùn cát hoặc đất thịt pha cát mịn giàu mùn bã hữu cơ thuộc vùng trung hạ
chiều, cua cư trú ở đây, lớn lên cho đến lúc thành thục sinh dục (thường 1
năm) lại di cư ra vùng biển gần bờ. (Hoàng Đức Đạt, 2003)
Tính ăn

Tính ăn của cua biến đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển. Giai đoạn ấu trùng, Cua
thích ăn thực vật và động vật phù du. Cua con chuyển dần sang ăn tạp như
rong tảo, giáp xác, nhuyễn thể, cá hay cả xác chết động vật. Cua con 2-7cm ăn
chủ yếu giáp xác, cua 7-13cm thích ăn nhuyễn thể và cua lớn hơn thường ăn
cua nhỏ, cá,…
Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn
của chúng khá lớn nhưng cũng có khả năng nhịn đói 10 – 15 ngày.
Cua có đôi mắt kép rất phát triển có khả năng phát hiện mồi hay kẻ thù từ bốn
phía. Khứu giác cũng rất phát triển giúp cua phát hiện mồi từ xa. Cua di
chuyển theo lối bò ngang. Khi gặp kẻ thù, chúng lẩn trốn vào hang hay tự vệ
bằng đôi càng to và khỏe.
(Nguồn: />5
Lột xác và tái sinh
Quá trình phát triển của cua trải qua nhiều lần lột xác biến thái để lớn lên.
Thời gian giữa các lần kột xác thay đổi thao từng giai đoạn. Ấu trùng cua lột
xác trong vòng 2-3 hoặc 3-5 ngày/lần. Cua lớn lột xác chậm hơn nửa tháng
hay một tháng một lần. Sự lột xác của cua có thể bị tác động bởi 3 loại kích
thích tố ức chế lột xác, kích thích tố thúc đẩy lột xác và kích thích tố điều
khiển hút nước lột xác.
Đặc biệt trong quá trình lột xác cua có thể tái sinh laị những phần đã bị mất
như chân, càng,…Cua thiếu phụ bộ hay phụ bộ bị tổn thương thường có
khuynh hướng lột xác sớm hơn. (Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải,
2004)
2.2 Kỹ Thuật Nuôi cua thương phẩm
Xây dựng ao nuôi :
Ao nuôi cua con thành cua thương phẩm thường có diện tích từ 500m
2
đến
5.000m
2

. Đây là hình thức nuôi thâm canh: thả giống, cho ăn tích cực, chăm
sóc quản lý chặt chẽ.
Địa điểm: Ao nuôi cần được xây dựng ở vùng dễ thay nước nhờ vào thuỷ triều
để giảm chi phí. Ở những vùng có nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm công
nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt, ít sóng gió mạnh và dòng chảy lớn. Bờ ao
được đắp bằng đất (cũng có thể xây gạch nếu có khả năng đầu tư), bờ cần
được nén kỹ để chóng mội, rò rỉ và sạt lỡ. Chân bờ ao rộng từ 3-4m, chiều cao
từ 1,5 đến 2m, cao hơn mực nước triều cao nhất ít nhất là 0,5m. Mỗi ao nuôi
nên có hai cống ở hai đầu đối diện nhau, nếu ao hình chữ nhật thì hai cống sẽ
đặt ở hai bờ thuộc chiều rộng. Cống thoát đặt sát đáy và thông với kênh trong
ao. Phía trong ao, cách bờ 2-3m đào một kênh rộng 3-4m bao quanh ao. Ở
giữa ao đắp một cồn nổi cao hơn mặt nước ao 0,2-0,3m. Trong kênh nên bỏ
thêm chà cho cua ẩn nấp. Làm đăng chắn quanh bờ không cho cua vượt bờ ra
ngoài, có thể dùng lưới mùng loại thưa bao quanh, đăng tre, ….Đăng chắn
phải nghiêng về phía trong ao một góc 60
0
, đăng phải cao từ 0,8-1m.
Tuỳ theo độ phèn của đáy ao mà có cách xử lý cho phù hợp, nếu pH của đất
dưới 6 thì rải vôi bột (CaCO
3
) cho đáy ao: tháo cạn nước rải vôi đều trên đáy
ao, cả lòng kênh và mép bờ ao. Lượng vôi rải từ 7-10 kg/100m
2
ao. Phơi đáy
ao 2-3 ngày, sau đó cho nước ra vào 3-4 lần xả sạch nước phèn.
6
Độ mặn của nước : cua con trong giai đoạn sinh trưởng sống ở vùng nước lợ
mặn 15- 25%
0
. Tuy vậy cua chịu sự thay đổi độ mặn rất lớn, cua sống và phát

triển tốt ở độ mặn 5%
0
đến 30%
o
. (Bùi Việt Hùng, 2007)
Thả giống:
Nguồn cua giống cung cấp cho nghề nuôi cua chủ yếu dựa vào nguồn giống
tự nhiên. Nguồn cua giống thu được ở hàng đáy, ghe cào ở các cửa sông, tìm
bắt ở các bãi sình vùng ngập mặn.
Cua giống có các cỡ:
- Loại nhỏ 60-120 con/kg
- Loại vừa 25-50 con/kg
- Loại lớn 10-15 con/kg
Tốt nhất là nên thu mua cua giống từ vùng lân cận và sau khi đã đánh bắt
được chuyển nhanh về nơi thả nuôi. Tính toán số lượng cần thả đặt mua trong
mấy ngày liên tục để thả cua vào ao nuôi trong thời gian tương đối ngắn.
Trong từng ao nên thả cua cùng cỡ. Cũng có thể chọn cỡ cua theo mong muốn
ngay ở nơi cung cấp cua giống, hoặc tuyển chọn trước lúc thả nuôi. (Bùi Việt
Hùng, 2007)
Mật độ thả:
Cua nhỏ 3-5 con/m
2
, loại vừa 2-3 con/m
2
, cỡ lớn 0,5-1 con/m
2
. Thả giống ở
nhiều điểm khác nhau trong ao. Cắt bỏ dây buộc, buông từ từ cua trên mép bờ
để cua tự bờ xuống nước. Đây là cách để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của cua
: những con khoẻ mạnh nhanh chóng chạy xuống nước, những con yếu thường

nằm tại chổ hoặc bò chậm. Những con như vậy thu lại cho vào giai để theo
dõi, nếu phục hồi thì thả xuống ao. Mỗi ao nên thả giống trong một hai ngày
cho đủ số lượng. (Bùi việt Hùng, 2007)
Quản lý, chăm sóc:
Cho ăn: cua nuôi trong ao chủ yếu dựa vào thức ăn cung cấp hàng ngày, lượng
thức ăn tự nhiên trong ao không có nhiều. Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi
sống: cá vụn, còng, ba khía, đầu cá … Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 4 –
6% trọng lượng cua, cua thường hoạt động bắt mồi vào buổi tối. Mỗi ngày cho
cua ăn một lần vào thời gian từ 17 – 19h. Thức ăn được rải đều quanh ao để
7
cua khỏi tranh nhau. Có thể dùng sàng ăn để kiểm tra sức ăn của cua. Định kỳ
thu mẫu để tính sản lượng cua có trong ao mà điều chỉnh lượng thức ăn cho
vừa đủ. Sau 2-3 giờ cho ăn kiểm tra sàng ăn, nếu cua ăn hết thức ăn trong sàng
thì có thể tăng lượng thức ăn, nếu thức ăn vẫn còn thì giảm lượng thức ăn.
Hàng ngày phải cho cua ăn, không được để cua đói. Những cua lớn bị đói sẽ
giết những cua nhỏ ăn thịt. Vì vậy nuôi cua phải có thức ăn dự trữ. Những
ngày không có thức ăn tươi sống thì cho cua ăn thức khô : cá vụn, tép Trước
lúc rải xuống ao cho cua ăn nên ngâm cá khô vào nước vài chục phút cho cá
mềm ra.
Việc đảm bảo môi trường nước trong sạch rất quan trọng đối với cua, nhất là
nuôi mật độ dày cho ăn thức ăn tươi sống. Ở những nơi có thuỷ triều lên
xuống hằng ngày cần thay nước thường xuyên. Mỗi ngày thay từ 20-30%
lượng nước trong ao. Một tuần thay toàn bộ nước trong ao một lần. Khi thay
nước nên lấy nước ở tầng dưới và tầng giữa tránh lấy nước ở tầng mặt hay bị ô
nhiễm. Nước mới trong sạch kích thích cua hoạt động, ăn nhiều, lột xác tốt.
Thường xuyên kiểm tra tình trạng bờ, cống, rào chắn tránh thất thoát cua.
Trong thời gian nuôi khoảng 2 tuần một lần bắt cua cân đo để xem sinh trưởng
của cua, xem xét tình trạng của cua: cua nhanh nhẹn, không bị ký sinh ngoài
vỏ, xem trong xoang mang có bị ký sinh hay không. Nếu có hiện tượng bị
nhiễm bệnh thì phải tìm nguyên nhân và biện pháp xử lý.

Thời gian cuối của vụ nuôi trọng lượng cua trong ao tăng lên, cho ăn thức ăn
nhiều nên môi trường rất dễ bị nhiễm bẩn. Cho nên việc thay nước thường
xuyên kiểm tra môi trường rất có ý nghĩa. Trong một số trường hợp, đáy ao
tích tụ nhiều thức ăn thừa, thối rữa, có thể phải tháo cạn, gạn cua và làm vệ
sinh đáy ao : cào bỏ lớp bùn trên mặt và thức ăn thừa thối rữa đi. (Bùi Việt
Hùng, 2007)
Thu hoạch:
Đánh thử cua lên kiểm tra chất lượng. Cua thường phẩm phải đạt 250g/con trở
lên. Cua chắc thịt hoặc đã đầy gạch (cua cái). Khi thấy cua đã đạt tiêu chuẩn,
được giá thì thu hoạch cua để bán.
Những cua chưa đạt kích thước, trọng lượng, cua ốp hoặc chưa đầy gạch nếu
còn khoẻ mạnh thì có thể đem nuôi ở các ao nhỏ, nuôi vỗ tích cực sau một thời
gian đạt tiêu chuẩn thu hoạch bán sẽ được giá hơn.
8
Nuôi cua thương phẩm từ cua con, thời gian từ 3 – 8 tháng thường tỉ lệ hao hụt
tương đối lớn (40 – 60%) nhưng trọng lượng cua tăng từ 3 – 4 lần (tăng từ 60-
80g/con lên 250-350g/con). Tổng trọng lượng của cua thương phẩm tăng từ
1.5 – 2 lần tổng trọng lượng cua giống. (Bùi Việt Hùng, 2007)
Một số điểm cần chú ý để nuôi cua thành công:
- Cua giống phải đồng cỡ, thả cùng một lúc.
- Phải có đủ nguồn nước trong sạch để thay thường xuyên.
- Phải có đủ nguồn thức ăn tươi sống.
- Phải có đăng chắn ở trên bờ ao.
- Trong ao phải có các ụ chà làm nơi trú ẩn cho cua.
2.3 Kỹ thuật nuôi cua kết hợp
Đây là hình thức nuôi quản canh kết hợp nuôi cá, tôm với cua, có vùng còn kết
hợp trồng rau câu. Ao đầm có diện tích nuôi lớn từ một đến vài chục hecta, ở
vùng nước lợ cửa sông ven biển, vùng rừng ngặp mặn
Địa điểm nuôi
Tùy theo điều kiện tự nhiên, đặc điểm từng vùng mà chọn vị chí ao nuôi thích

hợp. thường ao được xây dựng trong khu vực từ trung triều (đối với những
vùng có độ lệch triều lớn) đến hạ triều (những vùng có độ lệch triều nhỏ).
Những ao đầm lớn thường dựa vào điều kiện địa hình tự nhiên. Nên chọn nơi
ít sống gió, dòng chảy không lớn có độ dóc nhỏ tránh việc đấp bờ quá cao.
Nguồn nước cung cấp cho ao phải sạch, nguồn thức ăn phong phú, có nhiều
cua giống, không bị ô nhiễm công nghiệp, nông nghiệp và nước thải sinh hoạt,
độ mặn nước biển từ 15-25%o. Tuy vậy, trong thời kỳ sinh trưởng cua thích
ứng độ mặn khá lớn xuống đến 5%o cao đến 30%o cua vẫn sinh trưởng phát
triển tốt. (Hoàng Đức Đạt, 2003)
Xây dựng ao nuôi
Những ao đầm nuôi kết hợp thường có diện tích lớn, phải đầu tư công sức để
xây dựng. thường dùng xáng cạp để đấp chân bờ (đê bao). Chân bờ rộng từ 4-
6m tùy thuộc vào độ cao của bờ, mặt trên của bờ rộng 1-2m và mặt bờ cao hơn
mực nước biển cao nhất tối thiểu là 0,5m. Phía trong ao đầm cách chân bờ từ
3-4 m đào một kênh bao quanh ao đầm có độ sâu từ 0,5- 0,7m so với mặt đáy
9
tự nhiên của đầm, rộng từ 3-5m. tùy thuộc vào độ lớn mà có thể xây dựng từ 2
đến nhiều cống, trong đó có một cống kiệt đặt nơi cao trình thấp để tháo xả
cạn nước ao đầm khi cần (thu hoạch, cải tạo vệ sinh ao đầm). Khẩu độ của
cống tùy thuộc vào diện tích lớn nhỏ ao đầm, thường rộng từ 0,8-1,5m. Ở cống
thường đặt 2-3 phai để điều chỉnh dòng chảy. tùy vào khả năng kinh tế có thể
xây dựng cống bằng các vật liệu khác nhau: đổ bê tông, tấm đan, ván gỗ…
Những ao đầm nhỏ từ 1-3ha thường cắm đăng chắn bao quanh toàn bộ trên bờ,
không cho cua bò ra ngoài. Những ao đầm có diện tích lớn, thường có điều
kiện môi trường gần giống với điều kiện tự nhiên nên cua ít bò lên bờ. tuy vậy,
ở những đoạn gần cống cua thường đi theo dòng nước đến cống, ở đây bị chặn
lại không vượt qua cống, cua sẽ bò lên bờ thoát ra ngoài. Vì vậy ở những đoạn
gần cống phải rào chắn không cho cua thoát ra ngoài.
Ngoài đắp đập xây dựng ao đầm, ở vùng vùng có thể dùng đăng chắn vây để
nuôi cua, tôm cá. Có thể lợi dụng địa hình ở eo vịnh chắn đăng từ một phía

đến ba phía đẻ nuôi cua. Thường dùng những đăng bằng tre cao cắm sâu
xuống đáy ghép với nhau có cọc đỡ. Đăng phải cao hơn mực nước từ 0,5-1m.
(Hoàng Đức Đạt, 2003)
Thả giống
Nguồn cua giống thường thu qua cửa cống cùng với lấy giống tôm cá. Độ lớn
cua giống qua cống rất khác nhau tùy theo mùa vụ. trong và sau mùa sinh
sanrcos nhiều cua con cỡ nhỏ, chiều rộng mai từ 1-2cm đến 3-4cm. Những
tháng khác cua giống lớn hơn, có khi có cả cua trưởng thành đi vào đầm. Có
thể theo giõi cua giống vào qua cửa cống đẻ đánh giá mật độ cua trong ao
đầm. Việc thu cua giống qua cửa cống có thể kaos dài nhiều tháng. Nếu thấy
mật độ cua trong ao đầm thưa thì có thể thu thêm cua giống ở bên ngoài để thả
bỗ sung, cua giống thường được mua ở các hàng đáy, các ghe cào trong vùng.
Nên chọn những cua khỏe mạnh vận chuyển nhanh và thả vao ao đầm. Cua
được nuôi theo hình thức quảng canh nên mật độ thưa từ 0,1-0,2 con/m
2
.
(Hoàng Đức Đạt, 2003)
Chăm sóc và quản lý
Cua nuôi ghép trong ao đầm lớn thường có giống nhỏ, thời gian nuôi kéo dài
từ 3-8 tháng. Trong những tháng đầu cua sủ dụng chủ yếu là thức ăn tự nhiên
trong ao đầm, những tháng cuối khi cua lớn, sức ăn tăng thường cho thêm thức
ăn bỗ sung. Thường tận dụng thức ăn trong vùng cho cua ăn như: cá vụng (cá
10
đóng đáy, cào, đăng…), còng, ba khía. Thức ăn được chặt thành khúc nhỏ đem
rãi vào ao đầm.
Khi cho thức ăn xuống ao đầm ngoài cua còn có tôm cá cũng ăn, vì vậy cần
tính toán kỹ để đảm bảo đủ thức ăn cho tất cả các đối tượng nuôi.
Trong quá trình nuôi, cần theo dõi sự sinh trưởng của cua, hàng tháng dùng
chày hoặc lưới để bắt cua lên cân đo trọng lượng và chiều rộng mai cua, kiểm
tra tình trạng cua nuôi.

Hàng ngày thay nước cho ao đầm, đảm bảo một lượng nước mới được bỗ sung
vừa thêm thức ăn tự nhiên vừa làm tốt chất lượng nước.
Thường xuyên kiểm tra bờ ao đầm, xử lý kịp thời các chỗ mọi, rò rĩ, sụt lở,
đăng chắn bị hỏng. (Hoàng Đức Đạt, 2003)
Thu hoạch
Nuôi cua kết hợp do nguồn giống có cỡ lớn khác nhau nên cua sinh trưởng
không đồng điều
Thường đến tháng thứ ba, thứ tư tù lúc nuôi thì có cua đạt tiêu chuẩn thương
phẩm: cua có trọng lượng 250g trở lên. Có thể đánh bắt những cua đạt tiêu
chuẩn, trong khi thu tôm, cá qua cống cua cũng ra theo thu những con đạt tiêu
chuẩn hàng hóa, những con còn nhỏ chưa chắc thịt hoặc cua ốp thả lại ao đầm.
Có thể dùng lưới, câu, rập để bắt cua.
Ngoài việc thu tỉa cua như trên, vào cuối vụ nuôi thu toàn bộ cua, tôm cá bằng
cánh xả khô ao đầm tiến hành bắt cua bằng tay. Cũng có thể dùng lưới kéo để
bắt cua, trong trường hợp này ao đầm phải có mặt đáy bằng phẳng, chất đáy
phải là đất cát pha hoặc đất thịt để cua kgoong vùi xuống đáy lúc kéo lưới.
Nhưng thu lưới cũng không thể bắt toàn bộ cua trong ao đầm.
Toàn bộ cua thu được trong vụ nuôi nên cân đo chính xác để biết năng suất
nuôi và mật độ của cua để có biện pháp bỗ sung cho vụ nuôi tiếp theo. (Hoàng
Đức Đạt, 2003)
2.4 Tình hình nuôi cua biển
2.4.1 Trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có nhiều hình thức nuôi cua. Nuôi cua theo chu kỳ hở:
sản xuất ra cua giống bằng con đường nhân tạo rồi thả chúng ra biển tới khi
11
đạt kích thước thương phẩm thì khai thác có quản lý. Đây là hình thức nuôi
tiến bộ có hiệu quả kinh tế cao. Nhật Bản, Mĩ, Chilê,…đã nuôi theo hình thức
này. Hình thức nuôi cua theo chu kỳ kín đang được nghiên cứu thực nghiệm
và công bố. Một số nước Châu Á: Đoài Loan, Thái Lan, Ấn Độ, Philippine,
Việt Nam,…nuôi theo hình thức nuôi đơn (trong ao, lồng), nuôi ghép với cá [

cá măng biển (Chanos chanos) ] với rong câu (Gracilaria). (Hoàng Đức Đạt,
2003)
Cua được nuôi nhiều ở các nước Đông Nam Á (Davis, 1996). Sản lượng cua
nuôi thương phẩm đã chiếm một tỉ lệ đáng kể trong sản lượng cua khai thác
tùy điều kiện của từng dùng, có những hình thức nuôi khác nhau: Ở Đoài
Loan, Cua được thả với mật độ 0,5-3 con/m
2
trong diện tích 0,2-0,5 ha cho ăn
cá tạp và ốc (khoảng 10-15 gam/m
2
/ngày), với thời gian 3-4 tháng nuôi, cua
tăng từ 8-9 cm và tỉ lệ sống đạt 30-70%, năng suất 1.800 kg/ha/vụ (Chen,
1990, trích dẫn từ Hồ Hoàng Hà, 2005).
Ở Trung Quốc cua được nuôi với mật độ 0.4-0.8 con/m
2
, kích cỡ cua giống
thả từ 5-25gam, cua thu hoạch là 125 gam trong 6-9 tháng. Cho ăn bỗ sung 5%
trọng lượng thân từ 3-4 lần/ngày và thu hoạch từ tháng 10-11. Năng suất đạt
300-500 kg/ha. Nuôi cua theo hình thức quảng canh, mật độ 3-4,5 con/m
2
,
kích cỡ cua giống 3-5 gam hoặc mật độ 1,5-2 con/m
2
với kích cỡ cua giống 3-
5 gam năng suất đạt 450-1.500 kg/ha (Luo,1998 trích dẫn bởi Hồ Hoàng Hà,
2005).
2.4.2 Ở Việt Nam
Nước ta có nguồn lợi cua biển phong phú, phân bổ khắp các vùng biển, cửa
sông, vùng vịnh với sản lượng khai thác tự nhiên khoảng 400 tấn/năm (Nam
Quốc, 2005). Những năm gần đây, do nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất

khẩu tăng, nên cùng với nghề khai thác tự nhiên, nghề nuôi cua biển đã phát
triển ở khắp các tỉnh ven biển Việt Nam, đặc biệt là vùng cửa sông Châu thổ
phía Bắc (Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định) và các tỉnh Duyên Hải Nam Bộ,
với năng suất nuôi riêng cua đã đạt trên 1000 kg/ha/vụ. (Nam Quốc, 2005)
Nghề nuôi cua biển ở nước ta đã và đang phát triển ở nhiều địa phương, đem
lại lợi ích không nhỏ cho người dân với nhiều hình thức khác nhau như nuôi
cua con thành cua thịt trong các ao đầm quảng canh, trong mô hình tôm rừng
hay trong đăng quầng ở các bãi triều; nuôi cua gạch trong ao và lồng; lột và
nuôi cua ốp thành cua chắc trong ao (Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương
và ctv, 2006). Theo thống kê của vụ nuôi trồng thủy sản, Bộ Thủy sản, 2005,
diện tích nuôi cua năm 2000 là 8.256ha, đến năm 2005 là 112.324ha với sản
12
lượng 22.324 tấn năng suất cua nuôi trung bình là 0.2 tấn/ha. (Lê Văn Yến và
ctv, 2006)
2.4.3 Tình hình nuôi thủy sản và Cua ở Cà Mau
Hiện nay Cà Mau có nhiều đối tượng thủy sản được nuôi với nhiều hình thức
khác nhau. Diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh khoảng 279.715ha (có
248.808ha nuôi nước mặn, lợ, 30.907ha nuôi nước ngọt). Sản lượng thủy sản
hàng năm của tỉnh Cà Mau đạt trên 200.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu năm
2007 đạt xấp xỉ 580 triệu đô la. Tỉnh có 248.808 ha nuôi tôm (chiếm khoảng
42% diện tích nuôi thủy sản toàn vùng ĐBSCL và 27% diện tích nuôi thủy sản
cả nước), năng suất tôm nuôi bình quân đạt 382 kg/ha (Trần Phú Cường,
2008). Bên cạnh con tôm sú được xem là đối tượng nuôi chính với các hình
thức nuôi như: thâm canh diện tích nuôi 1115ha, quảng canh cải tiến kết hợp
với nhiều đối tượng như cua, sò huyết, cá với diện tích là 2.35.736 (Trung
Tâm Khuyến Ngư tỉnh Cà mau, 2008), thì cua biển đang dần chiếm vị chí
quan trọng đối với người nuôi thủy sản ở Cà Mau nhưng chủ yếu là nuôi kết
hợp trong mô hình tôm - cua và cua - rừng - tôm để tăng thu nhập và mô hình
nuôi cua bán thâm canh (huyện Trần Văn Thời, Cái Nước).
Năm 2009 Cà Mau hiện có 244.700ha nuôi tôm quảng canh truyền thống,

nhưng nông dân thả nuôi cua biển xen canh trên 80% diện tích này mang lại
hiệu quả kinh tế khá cao (TTXVN, 2009), Cua biển là đối tượng dễ nuôi, thời
gian thu hồi vốn nhanh (sau 3 tháng nuôi có thể thu tỉa với trọng lượng khoảng
200-250 gam), có giá trị kinh tế cao, là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của
nhiều nước trên thế giới. Cà Mau hiện có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh cua
giống kết hợp với nguồn giống đánh bắt ngoài tự nhiên, sông gạch, ven biển,
đã giúp cho nông dân chủ động được nguồn giống thả nuôi (Agroviet-
27/10/2008. Cà Mau: Nuôi cua biển xen canh đạt hiệu quả kinh tế cao).
2.4.4 Khuynh hướng phát triển nghề nuôi cua ở Cà Mau
Đa số các hộ nuôi cua đều cho rằng, nghề nuôi cua tuy không đem lại lợi
nhuận cao, nhưng ít rủi ro và thất bại như nuôi tôm sú. Hiện nay nguồn cua
giống khá phong phú nên không gặp khó khăn về con giống, nguồn giống sẵn
có tại địa phương (cua ép, cua đóng đáy, cua bãi) và giá thành tương đối thấp:
cua cỡ tiêu dưa có giá từ 500-800 đồng/con, hạt me giá từ 1200-1500
đồng/con tạo điều kiện thuận lợi ban đầu cho người nuôi. Tuy nhiên, trong
những năm sắp tới diện tích, quy mô nuôi cua đặc biệt là mô hình nuôi chuyên
cua có thể được mỡ rộng và phát triển, có thể thay cho mô hình nuôi tôm sú
quảng canh cải tiến năng suất cao, mô hình nuôi tôm sú thâm canh, đang gặp
13
nhiều rũi ro về thời tiết, thị trường. Hiện nay giá cua thương phẩm tương đối
cao: cua gạch từ 150,000-300,000 đồng/kg, cua Y giá 80,000-120,000
đồng/kg, là động lực thúc đẩy nghề nuôi cua ở Cà Mau phát triển, vấn đề về
kỹ thuật nuôi và sự ổn định về giá thành cua thương phẩm là cần được quan
tâm để giúp cho người nuôi đạt hiệu quả cao nhất.
Trong thời gian sắp tới, việc tổ chức tập huấn kỹ thuật, có chính sách hỗ chợ
về vốn cũng là quan tâm hàng đầu của người nuôi, góp phần ổn định đời sống
người nuôi.
14
Chương III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Thời gian và địa điểm
Thời gian thực hiện: Từ tháng 01/2009 đến tháng 05/2009.
Địa điểm: Các mô hình nuôi cua biển ở huyện Đầm Dơi, Ngọc Hiển và Trần
Văn Thời thuộc tỉnh Cà Mau.
Hình 3.1: Bản đồ tỉnh Cà Mau
3.2 Vật liệu nghiên cứu
Sử dụng biểu bản chuẩn bị sẳn để phỏng vấn tìm hiểu về hiện trạng nuôi cua
biển ở địa bàn khảo sát.
Khu vực
nghiên cứu
15
3.3 Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu
Số liệu thứ cấp: gồm các báo cáo, thông tin từ các phòng nông nghiệp và sở
nông nghiệp và phát triển nông thôn Cà mau, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Cà
Mau.
Nội dung số liệu thứ cấp: điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình về
nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi cua nói riêng của tỉnh trong các năm
gần đây.
Số liệu sơ cấp: được thu bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các hộ nuôi
cua biển dựa trên bảng câu hỏi được chuẩn bị và kiểm tra trước. Phỏng vấn10
hộ nuôi mô hình bán thâm canh cua ở huyện Trần Văn Thời, phỏng vấn 30 hộ
nuôi mô hình cua – tôm - rừng gồm: 15 hộ ở huyện Đầm Dơi và 15 hộ ở
huyện Ngọc Hiển thuộc tỉnh Cà Mau.
Các thông tin cần thu thập
- Thông tin về chủ hộ: họ và tên, địa chỉ, trình độ học vấn, kinh nghiệm nuôi,
mức tiếp thu khoa học kỹ thuật.
- Thông tin về kỹ thuật: đặc điểm mô hình nuôi, phương pháp cải tạo, mùa vụ
nuôi, nguồn giống, mật độ thả giống, số lần thả thả giống, nguồn thức ăn, cách
chăm sóc và quản lý.
- Thông tin về kinh tế: năng suất trên vụ nuôi, tổng chi phí, tổng thu nhập,

nghề nghiệp chính phụ, thuận lợi khó khăn.
3.4 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Số liệu thu được sẽ được kiểm tra trước khi nhập vào máy. Sau khi nhập vào
máy tính, số liệu được kiểm tra lần cuối trước khi tiến hành xử lý phân tích
thống kê. Sử dụng phần miềm Excel for windows để nhập số liệu, xử lý thống
kê và tính các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị tối đa, tối thiểu….và
dùng Words để viết báo cáo.
16
Chương IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tình hình phát triển của mô hình bán thâm canh cua và cua – rừng –
tôm ở tỉnh Cà Mau
Qua kết quả điều tra tỉnh Cà Mau có các mô hình nuôi cua: nuôi cua ốp thành
cua chắc, nuôi bán thâm canh cua, nuôi kết hợp với mô hình tôm – cua, cua –
rừng – tôm.
Mô hình cua - rừng - tôm được nuôi ở những địa phương có diện tích rừng
ngập mặn lớn bao gồm các huyện: Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Năm Căn, mô hình
này được nuôi từ năm 2005 do sự xuất hiện của nguồn cua giống khai thác từ
tự nhiên (cua đóng đáy khai thác ở cửa sông bằng hàng đáy và cua bãi bắt từ
bãi biển), đến năm 2006 Cà Mau xuất hiện nhiều trại sản xuất giống cua nhân
tạo góp phần đa dạng và chủ động nguồn giống cho người nuôi, bên cạnh việc
chủ động về nguồn giống, thì giá cua thương phẩm ngày càng tăng (cua gạch
giá bán từ 80.000 – 120.000 đồng/kg năm 2005, từ 180.000 – 300.000 đồng/kg
năm 2009) trong các năm gần đây là nguồn động lực thúc đẩy mô hình cua –
rừng – tôm được nuôi phổ biến và thay thế cho mô hình tôm – rừng trước đây.
(Trung tâm Khuyến ngư tỉnh Cà Mau, 2008)
Mô hình bán thâm canh cua được nuôi ở huyện Trần Văn Thời và Cái Nước,
nơi có diện tích rừng ngập mặn ít hoặc không đáng kể, diện tích canh tác cũng
giới hạn ở mỗi nông hộ. Do mô hình nuôi tôm quản canh cải tiến gặp nhiều rũi
ro về thời tiết, dịch bệnh, thị trường tiêu thụ không ổn định nên nhiều hộ nuôi

thủy sản ở huyện Trần Văn Thời Và Cái Nước đã chuyển sang nuôi cua bán
thâm canh trên các ao nuôi tôm trước đây. (Phòng Nông nghiệp huyện Trần
Văn Thời, 2008)
4.2 Mô hình cua -rừng – tôm và mô hình bán thâm canh cua
4.2.1 Mùa vụ nuôi
Mô hình cua – rừng – tôm thời điểm thả giống không nhất định, phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như khả năng kinh tế của mỗi gia đình, nguồn giống, giá thị
trường đầu ra sản phẩm và chi phí sản xuất.
Theo kết quả điều tra, cua giống được thả vào tháng 05, 06 và có thả bổ sung
vào tháng 12 đến tháng 02. Đây là mô hình nuôi kết hợp với rừng và thường
nuôi ghép với tôm sú. Theo lịch thời vụ người nuôi cải tao ao vào tháng 08, 09

×