Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Khẩu quyết manh phái mệnh lý hiệp hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.68 KB, 101 trang )

KHẨU QUYẾT MANH PHÁI MỆNH LÝ HIỆP HÔN
1- Tổng luận hôn nhân
Nam nữ trắc hôn đều giống nhau,
Đầu tiên tất phải luận đề cương.
Trụ tháng vốn là cung hôn nhân,
Chi ngày phối ngẫu rất chính thường.
Tiếp theo lại nắm Tài Quan xem,
Sinh khắc chế hóa phải xem kĩ.
Hình xung xun tuyệt hơn bất ổn,
Tình cảm khơng chân tháng Khơng Vong.
Tháng thấy Thương Sát thường tranh cải,
Nguyệt lệnh Tỉ Kiếp thường cải nhau.
Nguyệt lệnh gặp hợp hôn nhân tốt,
Tài Quan Ấn tinh cảm tình vượng.
Chi ngày gặp hợp có ngoại tình,
Chi là Quan Sát quản thúc mạnh.
Nhật tọa Chính Tài vợ giúp đỡ,
Vợ giữ nhà tất có diệu pháp.
Chính Tài nếu có toạ Tướng tinh,
Tất có vợ đẹp giỏi tài năng.
Nhật tọa Chính Ấn vợ lương thiện,
Về già tất nhiên bái Phật đường.
Nhật can vượng tướng Thiên Tài vượng,
Thê thiếp thành bầy một bang lớn.
Nam mệnh Thê tinh bị tranh hợp,
Là cưới hai lần mang ba nơi.
Nữ mệnh Phu tinh bị tranh hợp,
Là lấy hai chồng mang ba nơi.
Nam mệnh Tài tinh tranh hợp nhật,
Là có ba góc ni hơn ngoại.



Nữ mệnh Quan tinh tranh hợp nhật,
Ba lần luyến ái mang ngoại hơn.
Nhật kiến Chính tinh phối ngẫu tốt,
Kiêu Thương Kiếp Sát ngẫu bất lương.
Chi ngày tháng giờ có phục ngâm,
Tình cảm phong ba liên miên dài.
Bính Ngọ Đinh Mùi thấy nhiều thủy,
Tuất Hợi thủy nhiều khó cùng giường.
Tam Viên hợp nhật hôn nhân đẹp,
Xung xuyên chi ngày hôn không bền.
Can nhập thê mộ nam sợ vợ,
Thân nhược Tài đa sợ tân nương.
Thê tịng Phu hóa nam được hiền,
Nữ mệnh hóa phu nắm giúp chồng.
Nữ mệnh Quan vượng nhập nhật chủ,
Tình cảm vợ chồng sâu lại bền.
Sa vào tha hương có ngoại ngộ,
Tình cảm khơng nên nói với người.
Tài tinh hư thấu tình khơng chun,
Chỉ có âm thầm trong tư tưởng.
Muốn nói tướng mạo như thế nào,
Bên trong chi ngày luận cát lành.
Dần Thân Tị Hợi một cao trung,
Tý Ngọ Mão Dậu chiều cao lớn.
Thìn Tuất Sửu Mùi một lớn bé,
Nói đến tướng mạo rất bình thường.
Nam hành Tài hương tam hợp địa,
Ở trong mệnh liền kết hôn sớm.
Thương quan nếu phải bị khắc chế,

Tất cưới nghĩa nữ làm phòng vợ.
Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,


Thiên Địa đơ lai nhất tưởng trung.
2- Bí quyết hợp hôn (một)
Nam nữ hợp hôn việc đại sự,
Nạp âm năm mệnh xem ngũ hành.
Năm mệnh tương sinh là tốt nhất,
Thứ hai Tỉ hợp là trung đẳng.
Lại xem chính ngũ hành trụ năm,
Tương sinh tương hợp là thành hôn.
Tương khắc tương chiến hơn khơng bền,
Hình xung lục hại khơng thể hợp.
Năm mệnh tương sinh khơng thể tán,
Hình xung tranh cải qua cả đời.
Hai, xem chi giờ chính ngũ hành,
Tốt nhất tương hợp lại tương sinh.
Hình xung khắc hại thường tranh cải,
Khơng tranh không cải nắm bệnh sinh.
Ba, xem trụ ngày song ngũ hành,
Tài Quan chính hợp rất hữu tình.
Những can chi khác khơng phải luận,
Tốt nhất đối phương có chính tinh.
Ngũ hành vinh khơ cũng bổ sung,
Nếu có tương chiến giữ thông quan.
Tương phối tuyệt đối trên đời hiếm,
Không phạm đại kị nắm phối hơn.
Phụ: Bí quyết năm mệnh nạp âm tương khắc
Thiên Thượng Hỏa không sợ Giản Hạ Thủy

Đại Lâm Mộc không sợ Kim Bạc Kim
Đại Lâm Mộc không sợ Xoa Xuyến Kim
Đại Khê Thủy không sợ Sa Trung Thổ
Hải Trung Kim không sợ Phúc Đăng Hỏa


(Bên trên nếu hai bên gặp nhau, ít tình cảm, thân thể không tốt. )
Tang Chá Mộc rất sợ Kiếm Phong Kim
Sơn Đầu Hỏa rất sợ Thiên Hà Thủy
Bạch Chá Kim rất sợ Lô Trung Hỏa
Hải Trung Kim rất sợ Phích Lịch Hỏa
Sa Trung Thổ rất sợ Đại Lâm Mộc
Tuyền Trung Thủy rất sợ Đại Dịch Thổ
(Bên trên nếu cả hai gặp nhau, có dấu hiệu sinh tử ly biệt)
Chú thích:
+ Thiên thượng hỏa: Mậu Ngọ - Kỷ Mùi; Giản hạ thủy: Bính
Tý-Đinh Sửu.
+ Đại Lâm mộc: Mậu Thìn - Kỷ Tị; Kim bạc kim: Nhâm DầnQuý Mão; Thoa xuyến kim: Canh Tuất – Tân Hợi.
+ Đại khê thủy: Giáp Dần - Ất Mão; Sa trung thổ: Bính ThìnĐinh Tị.
+ Hải Trung kim: Giáp Tý-Ất Sửu; Phúc đăng hỏa: Giáp Thìn Ất Tị.
+ Tang Chá mộc: Nhâm Tý-Quý Sửu; Kiếm phong kim: Nhâm
Thân-Quý Dậu.
+ Sơn đầu hỏa: Giáp Tuất-Ất Hợi; Thiên Hà thủy: Bính NgọĐinh Mùi.
+ Bạch chá kim: Canh Thìn-Tân Tị; Lư trung hỏa: Bính DầnĐinh Mão.
+ Hải Trung kim: Giáp Tý-Ất Sửu; Phích lịch hỏa: Mậu Tý-Kỷ
Sửu.
+ Tuyền trung thủy: Giáp Thân-Ất Dậu; Đại dịch thổ: Mậu
Thân-Kỷ Dậu.
3- Quyết Năm mệnh hợp hôn
Nam kim nữ kim nhiều ân ái,

Nam kim nữ mộc nhiều vui vẻ.


Nam kim nữ thủy vợ chồng bền,
Nam kim nữ thổ hợp nhau nhất.
Nam kim nữ hỏa không hợp nhau,
Nam thủy nữ thổ rất lắm điều.
Nam thủy nữ hỏa không thành đôi,
Nam hỏa nữ thủy cũng không vui.
Nam thủy nữ thủy nguy thủ tài,
Nam thủy nữ kim nhiều phú quý.
Nam thủy nữ mộc chung sống tốt,
Nam mộc nữ hỏa chung một lịng.
Nam mộc nữ mộc có khắc thương,
Nam mộc nữ kim gây bất hòa.
Nam mộc nữ thổ sinh khẩu thiệt,
Nam hỏa nữ kim có hợp tan.
Nam mộc nữ thủy thành đơi tốt,
Nam hỏa nữ hỏa cũng không tệ.
Nam hỏa nữ thổ thanh mai trúc,
Nam hỏa nữ mộc phúc thọ nhiều.
Nam hỏa nữ thủy tương đối tốt,
Nam thổ nữ thổ hợp trăm năm.
Nam thổ nữ kim lương duyên tốt,
Nam thổ nữ hỏa nhiều kim ngân.
Nam thổ nữ thủy thường tranh cải,
Ảnh hưởng con cái thiếu vui cười.
Nam thổ nữ mộc khơng thích hợp,
Tài đến tài đi có tương khắc.
Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,

Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.
4- Quyết Giang hồ Manh Phái mệnh lý cầm tinh phạm Xuyên
Bạch Mã sợ Thanh Ngưu,


Dương Thử đuổi mỗi ngày;
Xà Hổ như đao đè,
Long Thỏ rơi nước mắt;
Kim Kê sợ Ngọc Khuyển,
Trư Hầu không tới đầu.
( Mã là Ngọ, Ngưu là Sửu, Dương là Mùi, Thử là Tý, Xà là Tị,
Hổ là Dần, Long là Thìn, Thỏ là Mão, Kê là Dậu, Khuyển là
Tuất, Trư là Hợi, Hầu là Thân)
Chỗ này là nói vị trí địa chi tương xuyên ( phá):
+ Ngọ xuyên Sửu, Mùi xuyên Tý.
+ Dần xuyên Tị, Thìn xuyên Mão;
+ Dậu xuyên Tuất, Hợi xuyên Thân.
Năm, Quyết Động hôn
Nam nữ trước hôn xem nguyệt lệnh,
Gặp hợp gặp xung động cảm tình.
Lưu niên lục hợp đền xuyến cung,
Cũng là năm đó hơn nhân động.
Thân vượng tuế vận kiến Tài tinh,
Nữ mệnh kiến Quan hôn tất thành.
Nam mệnh Tài nhược Tài lâm vượng,
Nữ mệnh Quan nhược lâm vượng thành.
Quan tinh Tài tinh bị xung động,
Tuế vận và cục có hợp thành.
Đại vận lưu niên tam lục hợp,
Hồng Loan Thiên Hỉ có hỉ khánh.

Nam gặp Thái Âm nữ Thái Dương,
Hỉ Dụng lại đến động hôn sự.
Phối ngẫu bị xung nếu gặp hợp,
Phối ngẫu bị hợp nếu gặp xung.
Lưu niên Đào Hoa hợp nhập mệnh,


Tất nhiên sống chung định kết hôn.
6- Quyết kết hôn sớm hay muộn
Quyết Kết hôn sớm.
Năm tháng Tài Quan không có phá,
Can chi tứ trụ tam lục hợp.
Nhật can vượng tướng Tài Quan nhiều,
Tiêu chí tảo hơn khơng cần nói.
Quyết Kết hơn muộn
Ngày giờ Tài Quan có hình khắc,
Tài Quan khơng hiện vận phí hồi.
Tài Quan có Thương quan thụ hại,
Nam nữ đại vận Tỉ Kiếp nhiều.
(Tảo hôn: là kết hơn sớm; Vãn hộn: Là kết hơn muộn)
7- Quyết có mang trước khi kết hôn
Trên năm tháng ngày Tài không hiển,
Nam mệnh trụ giờ Chính Tài hoạt.
Trụ giờ thê tử đồng thời có,
Khẳng định trước mang sau kết hơn.
Tài Quan khơng ở cung phu thê,
Chi khác có hợp nhiều bằng hữu.
Thê cung cùng tàng Chính Tài Kiếp,
Hình xung phá hại là mất trinh.
Nữ mệnh Thất Sát hiện năm tháng,

Tiết thao khó giữ qua cơng thân.
Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.
8- Quyết phối ngẫu gần hay xa
Thê tinh ở năm không xung khắc,
Nữ ở phương xa khơng cần nói.
Năm tháng tương xung Tài Quan xa,


Dịch Mã Tài Quan cự ly lớn.
Thê tinh ở tháng không xung khắc,
Nữ ở gần bên là Kiều Nga.
Trụ ngày Tài Quan không xung khắc,
Đồng sự đồng hương hoặc đồng học.
Trụ giờ Tài Quan là vãn hơn,
Tuổi so với mình nhỏ hơn nhiều.
Trên trụ năm ngày có tương hợp,
Phần đa vợ chồng gặp nhau ở trong thơn.
Chín, Quyết phương hướng phối ngẫu
Chi tháng khởi ngày phải nhớ rõ,
Đếm đến ngày sinh thì phải dừng;
Lạc chi địa chi tìm đối xung,
Hai điểm mốt đường định phương hướng.
Mười, Quyết cầm tinh phối ngẫu
Cầm tinh Phối ngẫu tìm nơi nào,
Gần chi xung ngày xem tử tế.
Bị xung bản thân là cầm tinh,
Hợp trụ bị xung cũng có thể.
Chi kề chi ngày nếu có hợp,
Phá hợp tức là xem cầm tinh.

Nếu cùng chi năm hợp xung Tỉ,
Cầm tinh bản thân cũng cần xem.
Sưu tầm
--

Tử Bình Tạp Lục.
Bài 1: Khâu Bình Sách - Bát Tự Cửu Cung Phi Tinh Quyết
Link: />(Người dịch: Trần Thiên Khánh)


Điểm tốt:
(1) Đề cao "cung tinh đồng tham"
(2) Đề cao cung vị
(3) Có đề cập đến bản cung, tha cung, lạc vị, nội cung, ngoại cung
Điểm chưa tốt:
(1) Đóng gọi lại kĩ thuật cung - tinh, vốn là một kĩ thuật cơ bản của Tử Bình, gọi bằng
mỹ danh "cung tinh đồng tham"
(2) Đề cập không đủ các trường hợp của "cung tinh đồng tham"
(3) Từ (2): nghi án giấu nghề để bán sách hoặc không biết thật sự
(4) Đánh đồng "nội cung, ngoại cung" với "cung tinh đồng tham". Nội cung, ngoại
cung là tượng thuộc hệ thống "tiểu thời không định vị", không thuộc "cung tinh đồng
tham". Tuy nhiên, có thể kết hợp "tiểu thời khơng định vị" với "cung tinh đồng tham"
để đốn số.
Thiên Khánh chú: Vui lịng tự gạn đục khơi trong.
(Dịch thô)
Bát tự cửu cung phi tinh quyết, cũng là khẩu quyết bát tự luận đoán sắc nét về cát
hung lục thân, càng là bí quyết mệnh lý dân gian có thể giải quyết một trong những
vấn đề trọng đại là làm sao luận đoán lục thân nếu không xuất hiện trong mệnh cục.
Lời dẫn: Từ năm 2003, sau khi Tân Phái lần đầu công khai giới thiệu “Bách Thần
Luận”, giới mệnh lý “loạn tượng” bắt đầu hiện, về sau cịn có các trường phái Manh

Phái, phủ định truyền thống, manh luận bát tự, dẫn đến mệnh lý giới đầy rẫy nguỵ
pháp, “loạn tượng” từ đó mà sinh ra. Hồ ngôn loạn ngữ luận bách thần, loạn biến lục
thân, trong giới mệnh lý thường thường xảy ra. Về nguỵ pháp “loạn biến lục thân”,
khơng chỉ có làm lẫn lộn tôn chỉ mệnh lý “lấy nhật làm chủ”, qua đó mà an định lục
thân, vốn được Tử Bình Tổ Sư cách tân từ thời Tống, càng làm cho hậu học hoa mắt
loạn thần, không biết lối ra. Càng có rất nhiều phái mệnh lý tại trong loạn tượng thừa
nước đục thả câu, mệnh lý giang hồ càng thêm hiểm ác, chỉ trích nhau nổi lên bốn
phía, tạp gia hồnh hành. Vì bình hỗn loạn, lập lại trật tự, Khâu Bình Sách tiên sinh,
người sáng tạo ra Bình Phái Mệnh Lý, đem Cửu Cung Phi Tinh Quyết của Bình Phái
vơ tư cơng khai, để trợ chúng dun.
Bình Phái “Bát tự Cửu Cung Phi Tinh Quyết” là khấu quyết bát tự trọng yếu để luận
đoán cát sắc nét cát hung lục thân, càng là bí quyết mệnh lý dân gian có thể giải quyết
một trong những vấn đề trọng đại là làm sao luận đốn lục thân nếu khơng xuất hiện
trong mệnh cục. Việc cơng khai Bình Phái “Cửu Cung Phi Tinh Quyết”, không phải
chỉ là lần đầu giới thiệu khái niệm “nội cung, ngoại cung”, “bản cung, tha cung”, “phi
cung, lạc cung, “bát cung, cửu cung” và các khái niệm trọng yếu khác trong mệnh lý
học bát tự Bình Mơn, mà cịn đem nội dung “Tinh Cung Đồng Tham” trong sách
“Bình Sách Mệnh Lý Bí Tung” xuất bản đầu năm 2003 cùng một chỗ giảng giải. Sau


này các nhà các phái, khi bàn đến Cửu cung phi tinh, đều khó vượt qua nội dung đề
cập tại đây.
Khâu Bình Sách “Bát tự cửu cung phi tinh quyết”
Một, nội cung ngoại cung
Bình mơn phi cung có chính luận, lấy nhật làm chủ biện lục thân
Tứ trụ bát tự phân nội ngoại, nội ngoại khơng thấy, tìm tại cửu cung.
Hai, bản cung tha cung
Lục thân phi tinh lạc chỗ nào, bản cung tha cung cẩn thận tính
Phi tinh định vị lạc cung chuẩn, liền biết thập thần không bay loạn.
Ba, phi cung lạc cung

Lục thân chủ tinh có khắc ứng, thuỳ tượng đều tại trong lạc cung
Nguyên cục lục thân tinh khơng thấy, liền tìm phi cung định cát hung.
Bốn, bát tự cửu cung
Lục thân cát hung làm sao tính, tinh cung đồng tham phải hiểu rõ
Bát cung hỷ kỵ có thật giả, cửu cung phân minh, thiên địa tỏ
Giải thích các danh từ dùng trong Bát Tự Cửu Cung Phi Tinh của Khâu Bình
Sách:
1. Phi tinh: chỉ lục thân chủ tinh không tại bát cung tứ trụ, mà là phi nhập trong “cửu
cung”.
2. Chủ tinh: là lục thân chủ tinh, chỉ thập thần đại biểu lục thân trong mệnh lý học. Ví
dụ như nam mệnh, Thiên Tài là chủ tinh của cha, Chính Ấn là chủ tinh của mẹ, Chính
tài là chủ tinh của vợ.
3. Bản cung: chỉ cung vị sở tại của bản thân lục thân. Như niên trụ là phụ mẫu cung,
thì niên can, niên chi phân biệt là bản cung của cha và mẹ. Tương tự, nguyệt trụ là
huynh đệ tỷ muội cung, nhật trụ là phu thê cung, thời trụ là tử nữ cung.
4. Tha cung: chỉ cung vị khác, ngoài bản cung của một lục thân
5. Nội cung: chỉ lục thân tại nội cung của nguyên cục tứ trụ. Trong nguyên cục, niên
trụ và nguyệt trụ đại biểu nội cung.
6. Ngoại cung: chỉ lục thân tại ngoại cung của nguyên cục tứ trụ. Trong nguyên cục,
nhật trụ và thời trụ đại biểu ngoại cung.
7. Phi cung: chỉ lục thân chủ tinh không tại bản cung, mà phi tại một cung nào đó bên
ngồi bản cung trong bát tự, hoặc phi tại cửu cung.
8. Lạc cung: chỉ cung vị mà lục thân chủ tinh toạ lạc. Lạc cung của lục thân chủ tinh
có thể là tại bản cung, có thể là tại tha cung, cũng có thể là tại cửu cung.
9. Bát cung: chỉ tám can chi của tứ trụ bát tự, đại biểu tám cung.
10. Cửu cung: chỉ cung vị thứ chín, ngồi tám cung trong nguyên cục tứ trụ.
Bình Sách chú: Khi Bình mơn tiên sinh Bàn Long Chân Nhân truyền quyết có đem
“Cửu Cung” xung là “Cửu Tiêu Cung”, nói rằng bát tự “Cửu cung” giống như Dụng
Hào trong hai qủe Càn Khôn trong Dịch Kinh, vốn tồn tại siêu việt sáu hào còn lại.



“Cửu cung” trong Bình Mơn bát tự sở dĩ cịn được gọi là “Cửu Tiêu Cung”, áp đảo
vượt qua bát cung, vị trí tại chín tầng mây, trong ngân hà.
“Tinh cung đồng tham” ý chỉ khi phê đoán cát hung một lục thân nào đó, cùng với
những sự việc liên quan đến lục thân đó, nhất định phải tổng hợp thông tin cát hung
của cả chủ tinh và cung vị của lục thân đó thì mới có thể luận đốn chính xác. Nếu
như chỉ xem vượng suy hỷ kỵ của “lục thân tinh” mà không quan tâm đến cung vị,
hoặc chỉ xem cung vị của lục thân mà k hông nhìn tác dụng cát hung của “lục thân
tinh”, như vậy kết quả phê đốn nào đều sẽ khơng tồn diện.
Ngồi ra, Bình Phái bát tự “Cửu cung phi tinh quyết” cịn có cách vận dụng cụ thể kĩ
thuật “Tinh cung đồng tham”. Khâu Bình Sách tiên sinh đã sớm cơng khai kĩ thuật
này vào năm 2003 khi xuất bản “Bình Sách Mệnh Lý Bí Tung”. Trong sách, chương
Hơn Nhân, vận dụng Phối ngẫu tinh và Phối ngẫu cung, tinh cung đồng tham phương
pháp để đốn tinh chuẩn ứng kì hơn nhân. Giảng giải như sau:
Trong bát tự, hôn kỳ mệnh lý bao quát hai phương diện phía dưới:
Một, nguyên cục có phối ngẫu tinh (nữ xem Quan tinh, nam xem Tài tinh) vốn có
bệnh lại gặp được thuốc mà ứng thời điểm. Cụ thể giải thích, bất luận mệnh nam nữ,
ngun cục có phối ngẫu tinh là kỵ, hơn kỳ ứng tại năm có tác dụng chế hố kỵ thần.
Ngun cục có phối ngẫu tinh là hỷ dụng, hơn kỳ ứng tại năm sinh vượng hoặc năm
trợ giúp hỷ dụng.
Hai, nguyên cục có phối ngẫu cung (nhật chi trong nguyên cục) là kỵ, tuế vận nếu chế
phục là đắc nghi. Nguyên cục có phối ngẫu cung là hỷ dụng thần, tuế vận nghi sinh
trợ.

Ví dụ một: Lai Thành khu, Bắc phụ, tiểu Tào
Càn tạo: Đinh Tỵ - Quý Sửu – Quý Dậu – Mậu Ngọ
Đại vận: Nhâm Tý, Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu, Mậu Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ
Phân tích mệnh cục: Bát tự này nguyên cục thân vượng kỵ Ấn Tỷ. Đại vận Canh Tuất,
năm Canh Thìn, Thìn xung Tuất mà kích hoả, càng lại hợp trói hơn nhân cung Dậu
kim toạ dưới Nhật chủ, kết hơn.


Ví dụ hai: Lai Thành khu, đường Bắc Thản, một ông chủ
Càn tạo: Giáp Dần – Kỷ Tỵ - Đinh Mùi – Bính Ngọ
Đại vận: Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý,
Đinh Sửu
Phân tích mệnh cục: Bát tự này tòng cường, Tài tinh là kỵ không hiện, hôn nhân
cung táo thổ trợ thân, hôn nhân tất nhiên tốt mà lại sớm. Đại vận Tân Mùi, lưu niên


Bính Tý, vận can Tân kim hợp trói Bính hoả, vận chi Mùi thổ khắc tuế chi Tý thuỷ,
Tý thuỷ khơng khắc Tỵ Ngọ hoả, ứng cát mà kết hơn.

Ví dụ ba: Lai Thành khu, một người nữ
Khôn tạo: Quý Sửu – Kỷ Mùi – Bính Dần – Quý Tỵ
Đại vận: Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Giáp Tý, Ất Sửu
Phân tích mệnh cục: Nhật nguyên Bính hoả sinh tại tháng Mùi, vượng. Toạ dưới có
Dần mộc tương sinh, lại khí quán thời trụ, thế vượng cực. Niên can Quý thuỷ bị Kỷ
thổ khắc thương mà không thể chế hoả. Sửu thổ là căn của Quý cũng bị nguyệt lệnh
xung tổn thương, cho nên thời can Quý thuỷ cũng khơng có lực. Hoả vượng cực
khơng hỷ khắc chế, phản cục tòng cường, dụng kỷ thổ Thương Quan chế thuỷ là sáng
suốt. Vận Nhâm Tuất, lưu niên Mậu Dần, Tuất thổ khắc Nhâm hợp Quý, kết hôn. Lưu
niên Canh Thìn, Canh sinh Nhâm, Sát cơng thân mà ngoại tình. Năm Q Mùi ly hơn.
--

Tử Bình Tạp Lục. Bài 3: Một lần đi xem thầy Manh Phái
Link: />(Ghi chú: Link này khơng cịn hoạt động)

(Dịch thơ)
Trong một lĩnh vực đặc thù, sẽ có một ít đặc thù tồn tại. Nói đến bát tự, rất nhiều
người đều sẽ liên tưởng đến khi cịn nhỏ có một ơng lão thầy bói mù đi vào thơn, chỉ

là khi đó tuổi cịn nhỏ, chi nghe được rất nhiều người lớn miệng nói vâng vâng, dạ dạ,
đại sư nói đúng, nói thật là chuẩn, nghe mà cảm thấy hiếu kỳ ơng lão xấu xí này có lợi
hại như vậy hay sao.
Lớn lên tiếp xúc nhiều tri thức hơn, liền cảm thấy hứng thú với bát tự. Trong lĩnh vực
bát tự thì thanh danh Manh Phái là nửa xấu nửa tốt, cho nên càng gợi cho tơi tị mị.
Thẳng đến một ngày tơi gặp được một vị cao nhân.
Cùng người thân tổng cộng hơn 20 cái mệnh lệ lấy ra khảo nghiệm, sơ bộ tổng kết
được vài đặc điểm đoán mệnh của Manh Phái cao nhân:
1 - Tuyệt đối khơng thu phí cao. Khoảng 5 tệ. Thật bất ngờ, bởi vì muốn gia nhập
Manh Phái phải lập lời thề. An bần lạc đạo cũng là một loại khảo nghiệm phẩm đức.
2 - Người đến coi mệnh một bên báo ra bát tự, một bên cao nhân Manh Phái đã bắt
đầu giảng giải vận mệnh. Bài xong bát tự tối đa 3 giây là bắt đầu giải, tuyệt khơng có
ngưng lại để suy nghĩ. Một khi giải mệnh liền là thao thao bất tuyệt, không để cho
người đến xem mệnh xen vào.
3 - Câu nói đầu tiên là đốn đương số cịn sống hay đã mất. Câu thứ hai đốn người
này có hay khơng cơng ăn việc làm ổn định, cùng với trình độ cao hay thấp. Cao nhân


Manh phái khi giải mệnh em trai tôi, làm cho nó muốn hồ đồ rồi: Đứa nhỏ này 16 tuổi
việc học muốn đứt đoạn, vì sao lại có đến học vị tiến sĩ? Tơi đáp: Nó 16 tuổi đi nước
ngồi, việc học bị đứt đoạn, sau lại tiếp tục đi học. Cao nhân Manh phái: ra là vậy.
4 - Câu thứ ba hỏi cầm tinh của cha mẹ. Câu thứ tư nói lúc cha hay mẹ tạ thế, em tơi
có ở bên cạnh tống chung hay không.
5 - Câu thứ sáu nói về số lượng anh em và thứ bậc trong nhà. 27 bát tự chỉ đoán sai
một cái. Vợ tơi chỉ có hai chị em gái, là chị; cao nhân Manh phái lại nói là chỉ có hai
chị em gái, là vai em.
6 - Câu thứ bảy đoán đương số kết hôn hay chưa, năm nào kết hôn, năm nào ly hơn.
Nếu chưa kết hơn thì năm nào có Hồng Loan. Nói rất chắc chắn rõ ràng, khơng mập
mờ. Em trai thứ chín của tơi từ Bắc Kinh xuống hỏi bát tự, cao nhân nhàn nhạt một
câu: Ông vợ chính thức 3 bà, ngầm thì ít nhất 6 người. Đốn đến xém chút em tơi

muốn quỳ xuống. Nó hiện tại ba vợ, cịn tình nhân theo tơi biết có 4 người.
7 - Câu thứ tám đoán mệnh chủ đã có con cái hay chưa, đã có mấy con, sẽ cịn có mấy
đứa. Có bát tự nữ mệnh, cao nhân đốn cơ đã sinh 4 đứa con gái, hiện tại lại có thai,
hẳn là mang thai vào tháng 7, sang năm nhất định sinh con trai, mẹ con bình an; đừng
đi siêu âm làm gì cho tốn tiền, lại khơng tốt đối với sức khoẻ; như sang năm sinh con
không đúng như vậy, có thể quay lại đập bảng hiệu. (Cao nhân Manh phái đã ở chỗ
nào treo bảng đoán mệnh hơn 40 năm.)
8 - Tiếp theo đoán vận. Cao nhân Manh Phái chỉ đoán 5 năm quá khứ và 5 năm tương
lai, khơng đốn nhiều. Những năm khác trừ khi có hạn lớn hoặc hỷ sự lớn thì mới đặc
biệt nói ra. Gặp phải bát tự có cha mẹ lớn tuổi, như trong 10 năm tới cha mẹ tạ thế, sẽ
nói thẳng năm nào có tang sự, là tang nam hay là tang nữ, tuyệt không mập mờ.
9 - Cao nhân Manh Phái có qui tắc: đương số 13 tuổi trở xuống khơng coi mệnh, 65
tuổi trở lên có hỏi mới nói cho biết thọ hạn.
10 - Sau đó đốn năm nay cát hung thế nào. Tháng 11 có một người bà con xa của tơi
có đến xem mệnh, cao nhân bảo năm nay lái xe cẩn thận. Hơn 10 ngày sau lái xe nâng
trong cơng trình bị lật xe, bà vợ giả trang đến hỏi mệnh, cao nhân câu đầu tiên đã nói:
“Đứa bè này, nếu như hiện tại bình n vơ sự, vậy thì năm nay tai hoạ gì cũng sẽ
khơng có, nhưng tiền tài hao thì đã hao rồi.
11 - Kế tiếp đoán đương số năm nay có thể phát tài ở phương nào, khơng thể phát tài
ở phương nào.


12 - Từ đầu đến đây là đoán một mạch, lúc này mới xem như đoán xong, mới để cho
đương số xen vao, có việc thì hỏi, có sai lệch thì nói ra, cao nhân lại giúp cân nhắc.
13 - Lúc này cao nhân mù sẽ nói 1 câu: “Đương số có thể hỏi một sự kiện, có việc thì
hỏi, khơng có việc thì có thể đi”.
14 - Từ lúc báo ngày sinh đến lúc hỏi xong khoảng 8-10 phút. Cao nhân mù thu phí 5
tệ.
15 - Cao nhân mù tính tình thoải mái, mỗi hút một cữ thuốc, liền xem 5 bát tự. Có khi
cao hứng cịn hát lên ca quyết, gieo vần êm tai, vừa hát vừa dùng chân nhịp.

--

Tử Bình Tạp Lục. Bài 4: Thái Ất Thân Mệnh Thập Nhị
Cung (phần 1)
Link:
/>Thiên Khánh nhận xét nhanh: Khi trước tơi có đề cập đến việc có nhiều loại 12 cung
chức khác nhau. Mười hai cung chức Tử Vi, và Tử Bình (Quả Lão Tinh Tơng) khá
phổ biến. Hơm nay tôi lại giới thiệu tiếp 12 cung chức Thái Ất. Tuy nhiên, đây là tài
liệu trên Internet nên mong moi người thận đọc. Gạn đục khơi trong là trách nhiệm
của người đọc.
Thái Ất Thân Mệnh Thập Nhị Cung (phần 1)
Các trứ tác mệnh lý cổ đại khi thôi diễn vận mệnh cả đời của một người thường đều
lấy mệnh vận nhân sinh của người đó phân thành mười hai phương diện: cung mệnh,
cung anh em, cung thê thiếp, cung con cái, cung tiền tài, cung điền trạch, cung quan
lộc, cung nô bộc, cung tật ách, cung phúc đức, cung tướng mạo, cung phụ mẫu. Mười
hai phương diện này (mười hai cung) sẽ tổ hợp thành mệnh vận cả đời của một người.
Mệnh cung làm đầu, cũng là quan trọng nhất, bởi vì từ mệnh cung có thể xem được
khái quát vận mệnh cả đời người, còn lại các cung khác, mỗi cung phản ánh một
phương diện tình huống khác nhau. Như cung anh em có thể tính ra có bao nhiêu anh
chị em, anh chị em giàu nghèo, quý tiện; cung tiền tài có thể tính ra tài vận đời người,
hoặc giàu hoặc nghèo, hoặc trước nghèo sau giàu, hoặc trước giàu sau nghèo, vân vân.
Mười hai cung còn gọi chung là Thân Mệnh Thập Nhị Cung.
Tại sao cần phải phân thành mười hai cung? Bởi vì cổ nhân cho rằng trời có mười hai
tầng (mười hai thiên tướng, cịn gọi là nguyệt tướng), đất có mười hai thần (mười hai
địa chi), người có mười hai cung, vậy là thiên địa nhân tam vị nhất thể, cảm ứng lẫn


nhau, tam tài thống nhất. Dùng ngôn ngữ hiện tại mà nói thì là trời đất, giới tự nhiên
cùng con người có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, những biến hoá trong giới tự nhiên
nhất định sẽ ảnh hưởng đến con người; từ những biến hoá, biến dị trong giới tự nhiên,

tương ứng sẽ sinh ra hoạ phúc tai ương trong xã hội loài người. Vận mệnh của một
người có mối liên hệ chặt chẽ với trời đất và giới tự nhiên. Đây chính là quan điểm
nhân sinh “Thiên nhân quan” nổi tiếng trong thời cổ đại, hoặc còn gọi là “Thiên nhân
cảm ứng quan”. Loại quan điểm này hầu như ảnh hướng đến tất cả các lĩnh vực trong
hình thái ý thức cổ đại. Quan điểm này chính là cơ sở lý luận cho Thân mệnh mười
hai cung.
Trời đất tự nhiên thay đổi, nhất là thay đổi về khí hậu, đối với tình trạng thân thể của
con người, cũng như tình trạng bệnh tật, sinh sản, sinh hoạt đều sẽ có ảnh hưởng.
Điểm này ai cũng đều có thể hiểu được. Nhưng nếu cho rằng những biến hoá trong
trời đất, giới tự nhiên có liên hệ với vận mệnh, cát hung hoạ phúc đời người, thì lại vơ
cùng khó hiểu. Chúng ta có thể dùng lí luận kết hợp với thực tiễn nghiên cứu vấn đề
này, nhằm giải thích vấn đề thiên cổ này.
Bây giờ quay lại vấn đề Thân mệnh mười hai cung. Phương pháp đoán mệnh cổ đại
bằng tứ trụ bình thường đều dùng Thân mệnh mười hai cung để tiến hành thơi diễn,
thuật đốn mệnh Thái Ất cũng cơ bản giống vậy. Nhưng theo thuật Thái Ất mệnh
pháp, ngoài trừ thân mệnh mười hai cung, cịn có thân cung, nhật cung, và thời cung,
thực thế thành Thân mệnh mười lăm cung. Tuy nhiên về mặt tên gọi, vẫn thống nhất
gọi là Thân mệnh mười hai cung.
Thái Ất mệnh pháp so với Tứ trụ mệnh pháp tại sao lại có thêm ba cung là thân cung,
nhật cung, và thời cung? Nguyên nhân là từ những công cụ và phương pháp suy tính
đặc biệt của bộ mơn Thái Ất. Cũng chính là nói bởi vì phải thích ứng với phương
pháp suy tính của Thái Ất mà mới cần thêm vào thân cung, nhật cung, và thời cung;
thực tế dùng thân mệnh mười lăm cung. Vấn đề này thực chất khơng có gì là lạ.
Phía dưới giới thiệu chi tiết và cụ thể phương pháp suy tính và nội dung phân biệt
Thân mệnh mười hai cung (thực tế là mười lăm cung).
Một: Mệnh cung
Mệnh cung quyết định vận mệnh cả đời người, là quan trọng nhất. Mệnh cung là thủ
lĩnh của mười hai cung. Mười hai cung sắp xếp theo thứ tự là: mệnh cung, huynh đệ
cung, thê thiếp cung, tử tôn cung, tài bạch cung, điền trạch cung, quan lộc cung, nô
bộc cung, tật ách cung, phúc đức cung, tướng mạo cung, phụ mẫu cung. Mười hai

cung phối mười hai địa chi, trước xác định vị trí mệnh cung, còn các cung khác sắp
xếp theo thứ tự thuận hay nghịch.


1. Cách an mệnh cung
Cách khởi mệnh cung là lấy địa chi của tháng sinh chồng niên chi, sau đó theo thứ tự
mười hai chi, lấy địa chi giờ sinh định mệnh cung. Nam sinh năm dương và nữ sinh
năm âm thì xếp thuận, nam sinh năm âm và nữ sinh năm dương thì xếp nghịch.
Niên chi, nguyệt chi, nhật chi, thời chi là gì?
Thời cổ đại nước ta sử dụng mười thiên can (Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân
Nhâm Quý) cùng mười hai địa chi (Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu
Tuất Hợi) phối hợp với nhau để ghi nhớ năm, tháng, ngày, giờ. Mười thiên can và
mười hai địa chi có bội số chung nhỏ nhất là 60, cho nên mười thiên can phối mười
hai địa chi thành 60 cái đơn vị, gọi là Lục thập giáp tý. Lục thập giáp tý theo thứ tự
thuận như sau:
1. Giáp Tý, 2. Ất Sửu, 3. Bính Dần, 4. Đinh Mão, 5. Mậu THìn, 6. Kỷ Tỵ, 7. Canh
Ngọ, 8. Tân Mùi, 9. Nhâm Thân, 10. Quý Dậu, 11. Giáp Tuất, 12. Ất Hợi, 3. Bính Tý,
14. Đinh Sửu, 15. Mậu Dần, 16. Kỷ Mão, 17. Canh Thìn, 18. Tân Tỵ, 19. Nhâm Ngọ,
20. Quý Mùi, 21. Giáp Thân, 22. Ất Dậu, 23. Bính Tuất, 24. Đinh Hợi, 25. Mậu Tý,
26. Kỷ Sửu, 27. Canh Dần, 28. Tân Mão, 29. Nhâm Thìn, 30. Quý Tỵ, 31. Giáp Ngọ,
32. Ất Mùi, 33. Bính Thân, 34. Đinh Dậu, 35. Mậu Tuất, 36. Kỷ Hợi, 37. Canh Tý,
38. Tân Sửu, 39. Nhâm Dầm, 40. Quý Mão, 41. Giáp Thìn, 42. Ất Tỵ, 43. Bính Ngọ,
44. Đinh Mùi, 45. Mậu Thân, 46. Kỷ Dậu, 47. Canh Tuất, 48. Tân Hợi, 49. Nhâm Tý,
50. Quý Sửu, 51. Giáp Dần, 52. Ất Mão, 53. Bính Thìn, 54. Đinh Tỵ, 55. Mậu Ngọ,
56. Kỷ Mùi, 57. Canh Thân, 58. Tân Dậu, 59. Nhâm Tuất, 60. Quý Hợi.
Dùng Lục thập giáp tý để ghi năm, tháng, ngày, giờ thì bắt đầu khởi từ Giáp Tý, đến
Q Hợi thì ngừng, sau đó tuần hồn lặp lại. Lấy việc ghi năm làm ví dụ, như năm
Giáp Tý, Giáp là niên can, Tý là niên chi. Năm Ất sửu thì Ất là niên can, Sửu là niên
chi. Ghi tháng, ghi ngày, ghi giờ cũng tương tự. Trong thực tế thì thường muốn biết
niên can chi, nguyệt can chi, nhật can chi, thời can chi có thể dùng lịch vạn niên để

tìm.
Cần nói thêm, nguyệt chi cịn gọi là nguyệt kiến. Một năm có mười hai tháng, các
nguyệt chi cho từng tháng đều là cố định như sau: tháng Giêng Dần, tháng hai Mão,
tháng ba Thìn, tháng tư Tỵ, tháng năm Ngọ, tháng sáu Mùi, tháng bảy Thân, tháng
tám Dậu, tháng chín Tuất, tháng mười Hợi, tháng mười một Tý, tháng Chạp Sửu.
Mười thiên can và mười hai địa chi cũng có thuộc tính âm dương, cũng có thuộc tính
ngũ hành kim, mộc, thuỷ, hỏa, thổ. Giáp Bính Mậu Canh Nhâm thuộc dương, là


dương can. Ất Đinh Kỷ Tân Quý thuộc âm, là âm can. Tý Dần Thìn Ngọ Thân Tuất
thuộc dương, là dương chi. Sửu Mão Tỵ Mùi Dậu Hợi thuộc âm, là âm chi. Giáp Ất
Dần Mão thuộc mộc, Bính Đinh Tỵ Ngọ thuộc hoả, Canh Tân Thân Dậu thuộc kim,
Nhâm Quý Hợi Tý thuộc thuỷ, Mậu Kỷ Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc thổ.
Phương vị cũng có thuộc tính ngũ hành: phương Bắc thuộc thuỷ, phương Đông thuộc
mộc, phương Nam thuộc hoả, phương Tây thuộc kim, trung ương thuộc thổ.
Mười hai địa chi cũng phân chia theo phương vị: Tý là Bắc, Ngọ là Nam, Mão là
Đông, Dậu là Tây, Sửu Dần là Đơng Bắc, Thìn Tỵ là Đơng Nam, Mùi Thân là Tây
Nam, Tuất Hợi là Tây Bắc.
(lược bỏ đồ hình an mười hai địa chi trên bàn tay trái)
Trong mười hai địa chi, Dần Thân Tỵ Hợi là tứ mạnh, Tý Ngọ Mão Dậu là tứ trọng,
Thìn Tuất Sửu Mùi vì tứ q. Tứ q cịn gọi là tứ mộ. Ba tháng mùa xuân, tháng
Giêng tại tháng Dần, còn gọi là mạnh xuân. Tháng hai là tháng Mão, còn gọi là trọng
xn. Tháng ba là tháng Thìn, cịn gọi là q xn. Hạ, thu, đơng tính tương tự.
Sau khi biết các kiến thức cơ bản, hiện tại chúng ta lại nói đến phương pháp khởi
mệnh cung. Nam mệnh sinh năm dương gọi là dương nam, nam mệnh sinh năm âm
gọi là âm nam, nữ mệnh sinh năm dương gọi là dương nữ, nữ mệnh sinh năm âm gọi
là âm nữ. Đối với phương pháp khởi mệnh cung, không luận mệnh nam hay mệnh nữ,
đều là từ địa chi tháng sinh chồng lên địa chi năm sinh, dương nam và âm nữ theo thứ
tự xếp thuận mười hai chi, âm nam và dương nữ theo thứ tự xếp nghịch mười hai chi.
Lại lấy địa chi giờ sinh định mệnh cung. Sau khi định được mệnh cung, hương nam

âm nữ theo thứ tự sắp xếp thuận các cung huynh đệ, thê thiếp, tử tôn, tài bạch, điền
trạch, quan lộc, nô bộc, tật ách, phúc đức, tướng mạo, phụ mẫu. Âm nam và dương nữ
theo thứ tự xắp xếp nghịch cách cung huynh đệ, thê thiếp, tử tôn, tài bạch, điền trạch,
quan lộc, nô bộc, tật ách, phúc đức, tướng mạo, phụ mẫu.
Ví dụ 1: Dương nam sinh vào năm Giáp Tý, tháng Bính Dần, ngày Ất Sửu, giờ Giáp
Thân, xem mệnh cung an ở đâu. Lấy nguyệt chi Dần chồng lên niên chi Tý (TK: tức
là bấm vào vị ví Tý trên lịng bàn tay trái đọc Dần, thay vì đọc Tý). Theo thứ tự sắp
xếp thuận mười hai chi, ta có đồ hình:
Mùi Thân Dậu Tuất
Ngọ Hợi
Tỵ Tý
Thìn Mão Dần Sửu


Để thuận tiện, Thiên Khánh giải thích đồ hình bằng lời văn: Dần (vị trí cũ là Tý), Mão
(vị trí cũ là Sửu), Thìn (vị trí cũ là Dần), Tỵ (vị trí cũ là Mão), Ngọ (vị trí cũ là Thìn),
Mùi (vị trí cũ là Tỵ), Thân (vị trí cũ là Ngọ), Dậu (vị trí cũ là Mùi), Tuất (vị trí cũ là
Thân), Hợi (vị trí cũ là Dậu), Tý (vị trí cũ là Tuất), Sửu (vị trí cũ là Hợi)
Người này sinh vào giờ Thân, trên đồ hình, cung Thân đang ở vị trí của Ngọ trên bàn
tay trái. Người này mệnh cung bày như sau (TK: lúc này vị trí các cung tính theo vị trí
mười hai địa chi trên lòng bàn tay trái theo kiểu cũ, tức cung Tý ở vị trí chính Bắc):
một, mệnh cung Ngọ; hai, huynh đệ cung Mùi; ba, thê thiếp cung Thân; bốn, tử tôn
cung ; năm, tài bạch cung Tuất; sáu, điền trạch cung Hợi; bảy, quan lộc cung Tý; tám,
nô bộc cung Sửu; chín, tật ách cung Dần; mười, phúc đức cung Mão; mười một, tướng
mạo cung Thìn; mười hai, phụ mẫu cung Tỵ.
Ví dụ 2: Âm nam sinh vào năm Ất Sửu, tháng Mậu Dần, ngày Bính Ngọ, giờ Bính
Thân, xem mệnh cung an ở vị trí nào. Lấy nguyệt chi Dần chồng lên niên chi Sửu,
theo thứ tự sắp xếp nghịch mười hai địa chi được đồ hình:
Tuất Dậu Thân Mùi
Hợi Ngọ

Tý Tỵ
Sửu Dần Mão Thìn
Người này sinh vào giờ Thân, Thân hiện đang ở vị trí của Mùi, cho nên mệnh cung tại
Mùi. Người này có mười hai cung sắp xếp như sau: một, mệnh cung Mùi; hai, huynh
đệ cung Ngọ; ba, thê thiếp cung Tỵ; bốn, tử tơn cung Thìn; năm, tài bạch cung Mão;
sáu, điền trạch cung Dần; bảy, quan lộc cung Sửu; tám, nô bộc cung Tý; chín, tật ách
cung Hợi; mười, phúc đức cung Tuất; mười một, tướng mạo cung Dậu; mười hai, phụ
mẫu cung Thân.
2. Phương pháp an thân cung
Thân cung và mệnh cung có ý nghĩa đại khái giống nhau, đều là tổng quát về vận
mệnh cả đời người, có tác dụng bổ sung và tham khảo cho mệnh cung. Phương pháp
định thân cung, trước lấy địa chi tháng sinh chồng lên địa chi năm sinh, dương nam
âm nữ sắp xếp thuận, âm nam dương nữ sắp xếp nghịch. Sau đó lấy vị trí mà địa chi
ngày sinh chồng lên làm thân cung.
Ví dụ 1: Năm Giáp Tý, tháng Bính Dần, ngày Ất Sửu, giờ Giáp Thân (dương nam),
cần xác định vị trí thân cung.


Đầu tiên lấy địa chi tháng sinh chồng lên địa chi năm sinh. Sau đó sắp xếp thuận mười
hai chi. Tức là lấy địa chi Dần của tháng Bính Dần chồng lên địa chi Tý của năm Giáp
Tý, sau đó sắp xếp thuận mười hai chi. Lại xem địa chi Sửu của ngày sinh Ất Sửu
chồng lên cung nào thì lấy cung đó làm thân cung. Phía dưới có đồ hình:
Mùi Thân Dậu Tuất
Ngọ Hợi
Tỵ Tý
Thìn Mão Dần Sửu
Người này sinh ngày Ất Sửu, Sửu hiện chồng lên cung Hợi, thì Hợi là thân cung.
Ví dụ 2: Năm Ất Sửu, tháng Mậu Dần, ngày Bính Ngọ, giờ Bính Thân (âm nam), tìm
vị trí an thân cung.
Lấy ngun chi Dần chồng lên niên chi Sửu, sắp xếp theo thứ tự nghịch mười ai cung,

có đồ hình bên dưới:
Tuất Dậu Thân Mùi
Hợi Ngọ
Tý Tỵ
Sửu Dần Mão Thìn
Người này sinh vào ngày Bính Ngọ. Trên đồ hình, Ngọ chồng lên cung Dậu, cho nên
vị trí của Dậu trên địa bàn là thân cung.
3. Phương pháp an nhật cung
Phương pháp khởi nhật cung rất đơn giản, khơng tính dương nam âm nữ, âm nam
dương nữ, sinh vào ngày có địa chi gì thì cung đó trên địa bàn chính là nhật cung.
Như người sinh ngày Giáp Tý, thì cung Tý trên địa bàn chính là nhật cung. Người
sinh ngày Ất Sửu, thì cung Sửu tên địa bàn chính là nhật cung. Người sinh ngày Bính
Dần, thì cung Dần trên địa bàn là nhật cung.
4. Phương pháp an thời cung
Phương pháp khởi thời cung cũng giống như khởi nhật cung. Khơng tính dương nam
âm nữ, hay âm nam dương nữ, sinh vào giờ có địa chi gì thì cung đó trên địa bàn
chính là thời cung. Như người sinh giờ Giáp Tý thì cung Tý trên địa bàn chính là thời
cung. Người sinh giờ Ất Sửu thì cung Sửu trên địa bàn là thời cung. Người sinh giờ
Bính Dần thì cung Dần trên địa bàn là thời cung.


5. Xem cát hung mệnh cung
Mệnh cung như gặp cát tinh thì chủ cát, như gặp hung tinh thì chủ hung. Nếu mệnh
cung gặp cả cát tinh lẫn hung tinh, nếu cát tinh thắng hung tinh thì luận cát, nếu hung
tinh thắng cát tinh thì luận hung. Nếu gặp tồn cát tinh hoặc gặp tồn hung tinh thì độ
số cát hung có khác.
Mệnh cung lạc Khơng là điềm xấu. Vậy mệnh cung lạc Khơng là gì?
Mệnh cung lạc khơng là chỉ mệnh cung gặp vị trí Khơng Vong. Ở đây cần biết nội
dung Lục giáp không vong. “Lục giáp” là chỉ “Tuần Lục giáp”. Trong 60 ngày Lục
thập Giáp Tý, phân làm tuần Giáp Tý, tuần Giáp Tuất, tuần Giáp Thân, tuần Giáp

Ngọ, tuần Giáp Thìn, tuần Giáp Dần, gọi là Tuần Lục giáp. Mỗi tuần có 10 ngày, mà
thiên can có 10 vị, địa chi có 12 vị, thiên can và địa chi phối hợp, sẽ dư 2 vị trí địa chi.
Như vậy hai địa chi khơng có thiên can để phối hợp này gọi là Không Vong.
Tuần Giáp Tý, Tuất Hợi Không Vong.
Tuần Giáp Tuất, Thân Dậu Không Vong.
Tuần Giáp Thân, Ngọ Mùi Khơng Vong.
Tuần Giáp Ngọ, Thìn Tỵ Khơng Vong.
Tuần Giáp Thìn, Dần Mão Khơng Vong.
Tuần Giáp Dần, Tý Sửu Khơng Vong.
Mệnh cung nếu ở vị trí cung vị Khơng Vong thì gọi là mệnh cung lạc Không. Mệnh
cung lạc Không là căn cứ vào can chi. Như sinh vào tuần Giáp Tý, mệnh cung an ở
Tuất Hợi thì là lạc Khơng.
Tuần Giáp Tý có 10 ngày Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ,
Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu.
Tuần Giáp Tuất có 10 ngày Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ
Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi.
Tuần Giáp Thân có 10 ngày Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ
Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Q Tỵ.
Tuần Giáp Thìn có 10 ngày Giáp Thìn, Ất tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ
Dậu, Canh Thìn, Tân Hợi, Nhâm tý, Quý Sửu.
Tuần Giáp Dần có 10 ngày Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ
Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi.


Thái Ất mệnh thư tổng cộng có 16 sao, khi 16 sao này lâm mệnh cung đều có ý nghĩa
riêng. Quân Cơ, Thần Cơ, Ngũ Phúc, Tiểu Du, Văn Xương, Kế Thần khi lâm mệnh
cung, chủ hiển quý. Dân Cơ lâm mệnh chủ đến chỗ cơ quản quản lí dân, tức làm quan,
cũng là phát tài, thu hoạch sung túc. Chủ Đại Tướng, Chủ Tham Tướng toạ mệnh
cung, chủ về võ nghiệp, binh quyền quý hiển, nhậm chức gần thành thị. Khách Đại
Tướng, Khách Tham Tướng đến mệnh cung, chủ võ nghiệp, binh quyền quý hiển,

nhậm chức tại biên ải. Mệnh cung lạc Không, chủ hư giả không thực, nhàn cư vi bất
thiện, phù phiếm vô định, không thế không thời.
6. Cát hung của thân cung, nhật cung và thời cung
Quan Cơ, Thần Cơ, Thuỷ Kích lâm thân cung, nhật cung, thời cung, chủ bệnh tim, bị
thương, ngộ độc, mủ nhọt. Tiểu Du, Phi Phù lâm thân cung, nhật cung, thời cung chủ
bệnh huyết dịch, đau nhức, bệnh tim. Thuỷ Kích Thái Ất, Phi Phù đến thân cung, nhật
cung, chủ bệnh mắt, hô hấp, bệnh phổi. Thái Ất, Phi Phù đến thân cung, nhật cung,
thời cung, chủ bệnh ho lao, bệnh đường ruột. Thân cung lạc Không, chủ ly hương biệt
xứ, cáo mượn oai hùm, vô pháp vô thiên, lỗ mãng ngỗ ngáo, phiêu du vô định, ăn nhờ
ở đậu nhà chùa đạo quán, đưa thư viết tin (?), ca kĩ tạp hí.
Niên nguyệt lạc Khơng, chủ tuổi thơ khơng nơi nương tựa, cha mẹ hình thương,
khơng thể tự lập, không nhờ vả được quê quán. Nhật trụ lạc Không, chủ hại vợ tổn
con, tầm thường tất bật, tiến lùi đều thua, nhiều sầu nhiều lo. Thời trụ lạc Không, chủ
gố bụa cơ độc, nhiều sầu nhiều lo, bệnh lao, suy nhược, tâm thần, vàng da, không
thọ, cả đời đau khổ.
7. Cát hung huynh đệ cung
Huynh đệ cung lạc Không, chủ hình thương, ghen ghét, keo kiệt, bạn bè bù khú, cà lơ
phất phơ, khắc bạc bất nghĩa.
8. Cát hung thê thiếp cung
Thê thiếp cung như ngộ cát tinh, vợ chồng khơng hình khắc; như ngộ hung tinh có
hình tổn, hoặc hôn nhân chậm muộn. Thê thiếp cung lạc Không, chủ hình khắc quan
quả, nửa đường gãy gánh, keo kiệt bủn xỉn, xảo trá thị phi, lừa dối ám muội.
9. Cát hung tử tôn cung
Tử tôn cung gặp cát tinh, chủ sinh quý tử; gặp hung tinh, chủ sinh nữ trước nam sau,
hoặc chủ tổn thương, con vợ lẻ mới có thể bình an. Tử tơn cung gặp Tiểu Du, Ngũ


Phúc, Quân Cơ, Thần Cơ, chủ có 3 con trai. Tử tôn cung gặp Kế Thần, Khách Đại
Tướng, Dân Cơ, chủ 2 có 2 con trai. Tử tơn cung gặp Khách Tham Tướng, chủ có 1
con trai. Tử Tơn cung gặp Chủ Tham Tướng, chủ có 6 con trai. Tử tơn cung gặp Văn

Xương, Thiên Ất, chủ có 4 con trai. Tử tơn cung gặp Thuỷ Kích, Phi Phù, chủ có 3
con gái. Tử Tơn cung gặp Tứ Thần, Địa Ất, chủ có 2 con gái. Tử tơn cung lạc Không,
chủ con cháu thương yểu, con vợ lẻ, con thừa tự, tàn tật, điên cuồng, bất tài bất nhân.
10. Cát hung tài bạch cung
Tài bạch cung gặp cát tinh, tiền tài đủ đầy; gặp hung tinh tán tài ít tụ. Tài bạch cung
lạc Không, chủ gia sản tiêu điều, tài phú thất tán, đạo tặc cướp bóc, li hương (?) bắt
cóc, hoạ nạn bất ngờ, lục súc tổn hại.
11. Cát hung điền trạch cung
Điền trạch cung gặp cát tinh, thừa hưởng nhiều tổ nghiệp; gặp hung tinh, khơng có tổ
nghiệp, bạch thủ thành gia, tha hương. Điền trạch cung lạc Không, ăn nhờ ở đậu, nhà
tranh vách đất, rào thủng tường đổ, lửa đốt thuỷ dìm, tranh đoạt, hoang tàn.
12. Cát hung quan lộc cung
Quan lộc cung gặp cát tinh, vinh hoa hiển đạt; gặp hung tinh tiến thối đều dở. Quan
lộc cung lạc Không, chủ hồ giả hổ uy, có tiếng mà khơng có miếng, xảo ngơn xảo
ngữ, giáng cách chức đến nơi xa xôi.
13. Nô bộc cung
Nô bộc cung gặp cát tinh, chủ được nô bộc hỗ trợ; gặp hung tinh không được nô bộc
hỗ trợ. Nô bộc cung lạc Không, chủ bệnh, chết, thương tổn, thất bại, cưỡng hiếp, làm
nhục, tai hoạ liên miên, điên đảo lẫn lộn.
14. Tất ách cung
Tật ách cung gặp cát tinh, chủ một đời ít bệnh; gặp hung tinh chủ bệnh tật quấn thân.
Tật ách cung lạc Không, chủ hư nhược cực khổ, miệng mắt lệch lạc, tay chân tê cóng,
nhiều sẹo, nhiều nốt ruồi, dễ bị phong hàn, si câm điếc hủi, sáu ngón, sứt mơi.
16. Phúc đức cung


Phúc đức cung gặp cát tinh, một đời hưởng phúc; gặp hung tinh, khổ cực bạc phúc.
Phúc đức cung lạc Không, chủ tăng ni đạo sĩ, ngũ thuật, lang thang, canh cửa, ẩn cư
nhàn tản, tiêu dao lánh đời, dựa dẫm quý nhân.
17. Cát hung tướng mạo cung

Tướng mạo cung gặp cát tinh, chủ tướng mạo uy nghiêm, ung dung, tao nhã, tú mỹ;
gặp hung tinh chủ xấu xí, lụm cụm, lam lũ. Tướng mạo cung lạc Không, chủ ăn khơng
nói có, mặt mũi phá xấu, gầy guộc, thấp bé, nhiều lo, thiệt thịi, cả đời gian khó.
18. Phụ mẫu cung
Phụ mẫu cung gặp cát tinh, cha mẹ đầy đủ, không mất sớm; gặp hung tinh chủ cha mẹ
mất sớm hoặc mẹ mất khi sinh. Phụ mẫu cung gặp Tứ Thần, Thiên Ất, Địa Ất, Phi
Phù, nhất định chủ cha mẹ mất sớm, hoặc chủ li biệt, làm con thừa tự, hoặc có mẹ kế.
Phụ mẫu cung gặp Tiểu Du, Văn Xương, Kế Thần, Tam Cơ, Ngũ Phúc, chủ hổ phụ
sinh hổ tử, cha con đều hiển đạt. Phụ mẫu cung gặp Tứ Thần, hung tinh và Thuỷ Kích,
chủ tổ nghiệp hao tổn, cả đời cô khổ. Phụ mẫu cung lạc Không, chủ cha mẹ mất sớm,
bất lợi cho lục thân, làm con thừa tự hoặc con nuôi khác họ, tha hương, gian trá tà
nguỵ, gian xảo bất minh.
--

Lý Pháp - Tượng Pháp - Kĩ Pháp và Lý Khí Tượng Số
Trích dịch:
"Mệnh lý Manh phái luận mệnh có ba pháp tắc lớn: một là lý pháp, hai là tượng pháp,
ba là kĩ pháp.
Lý pháp chính là nhận thức và lý giải mệnh lý. Bát tự của mỗi người giống như một
bài văn chương, bạn làm sao để đọc hiểu được, đó chính là vấn đề mà lý pháp cần
phải giải quyết.
Lý pháp của mệnh lý tức là nói đến đạo lý của bát tự, điều này là nghĩa làm sao? Xem
bát tự thì phải bắt đầu từ đâu? Làm sao để từ bát tự xem ra mệnh phú quý bần tiện?
Sau khi học xong phần lý pháp, thì có thể nắm bắt được bát tự, xem ra được cấp bậc
phú quý, cũng có thể xem đặc điểm nghề nghiệp. Đương nhiên đối với mỗi đại vận
cũng có thể phán đốn được cát hung. Tổng kết lại, lý pháp thực chất chỉ là 1 câu: tức
là giúp bạn có thể đọc hiểu bát tự.
Đối với mệnh lý Manh Phái, tượng pháp là trọng yếu nhất, nhằm giảng giải đầy đủ và
chi tiết một bát tự. Tượng có tượng can chi, tượng cung vị, tượng thập thần, cùng
tượng thần sát. Thông qua tượng, chúng ta có thể luận đốn được vơ cùng cụ thể một

số sự việc. Ví dụ như lý pháp có thể xem ra một năm nào đó khơng tốt, nhưng không


tốt ở chỗ nào? Là bị bệnh, phá tài, hoặc là quan tai lao ngục; đây là vấn đề mà tượng
pháp cần phải giải quyết. Học tốt tượng pháp, thì suy đốn bát tự có thể đạt đến cảnh
giới xuất thần nhập hố.
Kĩ pháp là bộ phận khó nhất của mệnh lý Manh Phái. Kĩ pháp là gì? Giống như, bạn
muốn xem cha mẹ của một người có cịn tại thế hay khơng, có khắc đương số hay
khơng, thì khơng phải là phạm trù của lý pháp, mà cần phải sử dụng tượng, sau cùng
còn cần sử dụng kĩ pháp đến quyết định. Đối với tình huống hơn nhân của một người,
cũng có thể luận đốn thơng qua kĩ pháp. Căn cứ vào nhu cầu của độc giả, quyển sách
này đối với lý pháp, tượng pháp, và kĩ pháp đều có đề cập đến, nhưng trọng điểm vẫn
là lý pháp."
(Manh Phái Sơ Cấp Mệnh Lý Học)
Lý pháp, Tượng Pháp, Kĩ pháp chính là biểu hiện của Lý Khí Tượng Số trong Manh
Phái Đồn thị. Trong đó, Lý - Khí - Số tạo thành Lý pháp. Tượng tạo thành Tượng
pháp và Kĩ pháp.
Lý pháp chính là phương pháp lý giải, đánh giá sơ bộ một bát tự của từng trường phái.
Thông tin đầu vào là bát tự trắng. Kết quả đầu ra là cách cục và hỷ kỵ. Ví dụ như
Cách Cục Phái sẽ cho đầu ra là bát tự thuộc cách nào, bát cách hay ngoại cách, thanh
hay trọc và thanh chỗ nào, trọc chỗ nào. Vượng Suy Phái sẽ cho kết quả đầu ra là nhật
chủ vượng hay nhược, ngũ hành cách cục gì, hỷ kỵ là gì và ở đâu. Manh Phái Đồn thị
sẽ có kết quả là bát tự là kết cấu tạo cơng gì (chế dụng, hoá dụng, mộ dụng chẳng
hạn), hiệu suất lớn hay nhỏ, cơng - phế - nhàn là gì và ở đâu.
Lý pháp chính là cách lý giải qui luật tự nhiên của từng trường phái một. Thơng qua
sự lý giải đó mà đánh giá một bát tự cụ thể phù hợp với qui luật tự nhiên đó ở những
mặt nào để tiến hành phân chia các bát tự thành từng nhóm cụ thể, như cách phân chia
thành bát cách - ngoại cách, cách cục ngũ hành vượng nhược, và kết cấu - phương
thức tạo công. Đồng thời cũng đánh giá một bát tự có độ phù hợp với qui luật tự nhiên
là cao hay thấp, cao thì cát, thấp thì hung.

Tóm lại, Lý pháp trả lời câu hỏi: bát tự tốt hay xấu?
Tượng pháp là phương pháp sử dụng các tượng để xem cụ thể cát hung. Như một bát
tự được đánh giá sơ bộ là tốt, thì nó tốt ở những mặt nào, xấu ở những mặt nào cụ thể.
Tức là cát hung ứng ở đâu, cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái, tài phú, cơng danh,
tâm tính, bạn bè, nhà cửa chẳng hạn. Muốn trả lời được như vậy phải sử dụng Tượng.
Hệ thống Tượng cơ bản của Tử Bình hiện nay có cung vị, thập thần (cung vị và thập
thần hay được gộp lại thành cung tinh), và thần sát.
Như muốn xem cha mẹ thì phải xem niên nguyệt trụ, xem tại đó là hỷ hay kỵ, thần sát
là gì. Sau đó lại nhìn Tài tinh và Ấn thụ ở đâu, nằm trong mối quan hệ tương tác với
những gì. Như vậy sẽ đốn được tình hình cha mẹ.
Tóm lại, Tượng pháp trả lời câu hỏi: bát tự tốt thì tốt ở đâu, xấu thì xấu ở đâu.


Kĩ pháp, theo tôi, là phương pháp tác động lên một nhóm tượng để lọc tượng. Tại sao
cần phải lọc tượng? Bởi vì một bát tự chỉ có tám chữ, mỗi một chữ tuy chỉ đại diện
cho một thần (thập thần) nhưng lại đại biểu cho nhiều cung vị, nhiều thần sát. Ví dụ,
về cung vị, phức tạp nhất là thời trụ. Nó vừa là cung tử nữ (con cái), vừa là thiên di
(tiểu thiên di), vừa là cung nô (bề tơi, con cái, học trị), vừa là nơi để xem đồng
nghiệp, đồng hương (cùng với nguyệt trụ). Nó cũng vừa là cung tướng mạo (chủ yếu
tướng mặt), vừa là nơi để xem phong cách ứng xử (tâm tính bên ngồi). Trong phép
tiểu thời khơng, nó lại là cái cổng nhà, mặt tiền nhà. Như vậy nếu kỵ thần ứng vào
thời trụ, nó sẽ ứng vào những điều gì trong số những điều trên?
Để trả lời câu hỏi đó, cần có thêm Kĩ pháp để lọc tượng, hoặc có thể nói là để luận chi
tiết hơn một bát tự. Các kĩ pháp được truyền lưu khá rộng rãi hiện nay có thể lấy ví dụ
như thập nhị cung chức (Lý Hậu Khởi, Bành Khang Dân), thái cực cửu cung, xuyến
cung áp vận. Đó là những Kĩ pháp tơi thấy có tính hệ thống, tức nó là một hệ thống
những thao tác lên một nhóm các thần sát cụ thể, để đoán cát hung cho nhiều vấn đề
khác nhau. Cần nhấn mạnh do nó là một hệ thống, nên có thể luận nhiều vấn đề khác
nhau.
Ngồi ra cịn có những Kĩ pháp riêng lẻ, hoặc có thể cố tình bị cắt rời ra từ một hệ

thống hoàn chỉnh, để truyền lưu ra bên ngoài. Những Kĩ pháp riêng lẻ này chỉ có thể
đốn một khía cạnh, ví dụ như đốn số anh chị em, đoán thai đầu là nam hay nữ, đốn
hiện nay đã tạ thế hay chưa.
Tóm lại, Kĩ pháp trả lời câu hỏi: Vị dụ như, nếu cha mẹ xấu, thì xấu ở khía cạnh cụ
thể nào?
Như vậy có thể thấy, Lý Pháp - Tượng Pháp - Kĩ Pháp thực chất là các bước xem
mệnh, tăng tiến dần từ khái quát đến cụ thể. Cầm trên tay một bát tự trắng, đầu tiên
dùng Lý pháp để đánh giá, tiếp theo dùng Tượng pháp và cuối cùng là Kĩ pháp để tiến
đến xem chi tiết từng vấn đề một.
Tuy nhiên, Manh Phái Đồn thị khơng giữ vững được tính thống nhất ở các bước xem
mệnh này.
Tơi trích ví dụ phía dưới:
Ví dụ 1:
Càn: Giáp Ngọ - Quý Dậu – Mậu Tý – Đinh Tỵ
Phân tích: Mậu hợp Tài (Tý, Quý là một chữ). Tại thời trụ Mậu thấy Tỵ Lộc, trên Tỵ
thấu Đinh, Đinh Tỵ có thể xem là bản thân đương số. Chữ nào toạ lộc thì là chủ vị, là
một tượng. Đinh và Ngọ là nguyên thân và Lộc, tương đương từ thời trụ chảy đến
niên trụ, niên trụ đội Giáp, Giáp Ngọ là một đái tượng. Ấn đội mũ Sát. Hoán tượng là
nhật chủ đội mũ Sát. Là mệnh làm quan. Đương nhiên nhật chủ hợp Tài cũng là có tài
phú, nhật chủ hợp Tài sẽ bàn đến sau. Hành vận Mậu Dần, Mậu cũng chính là nhật
chủ, Dần là Lộc của Giáp, đồng nghĩa với tự mình toạ Thất Sát, cho nên vận này
nhậm chức phó thị trưởng. Nhưng Sát này có hố. Dần Ngọ hợp Ấn cục, chủ quyền


×