Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Bài giảng Luật thương mại quốc tế: Phần 2 - Nguyễn Minh Nhật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 73 trang )

CHƯƠNG 5: THANH TỐN VÀ TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ
5.1. Khái niệm và đặc điểm của thanh toán quốc tế
5.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế
Trong hoạt động thương mại quốc tế, do người mua và người bán ở những nước
khác nhau, nên vấn đề quan trọng đặt ra là làm thế nào để thực hiện hoạt động thanh
toán. Người bán sau khi giao hàng, nhận vận đơn vận tải ln muốn được thanh tốn
ngay lập tức, tuy nhiên, người mua khi chưa nhận được hàng sẽ chưa muốn thanh
tốn. Người mua có thể chỉ muốn thanh toán sau khi nhận hàng và chắc chắn là hàng
đã đủ số lượng cũng như đạt yêu cầu về chất lượng. Cơ chế thanh toán trong trường
hợp này cần sự tham gia của bên thứ ba, thường là ngân hàng - giữ vai trò như bên
trung gian, để đảm bảo rằng người bán sẽ được thanh toán đúng thời hạn108.
Như vậy, có thể hiểu thanh tốn quốc tế là q trình thực hiện các khoản thu chi
tiền tệ quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng trên thế giới nhằm phục vụ cho các mối
quan hệ trao đổi quốc tế phát sinh giữa các nước với nhau.
5.1.2. Đặc điểm thanh tốn quốc tế
Thanh tốn quốc tế quốc tế có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thanh toán quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, phục vụ các giao dịch thương
mại, đầu tư, hợp tác quốc tế thông qua mạng lưới ngân hàng thế giới.
Thanh toán quốc tế khác với thanh tốn trong nước là ở đây nó liên quan đến
việc trao đổi tiền của quốc gia này lấy tiền của quốc gia khác. Vì vậy khi ký kết các
hợp đồng mua bán ngoại thương các bên phải thỏa thuận với nhau lấy đồng tiền của
nước nào là tiền tệ tính tốn và thanh tốn trong hợp đồng, đồng thời phải tính tốn
thận trọng để lựa chọn các biện pháp phịng chống rủi ro khi tỷ giá hối đối biến động.
Thanh toán giữa các nước đều được tiến hành thơng qua ngân hàng và khơng
dùng tiền mặt, nếu có thì chỉ trong những trường hợp riêng biệt. Do vậy thanh tốn
quốc tế về bản chất chính là các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Chúng được hình thành
và phát triển trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương và các trao đổi tiền tệ quốc tế.
Thanh toán quốc tế được thực hiện dựa trên nền tảng pháp luật và tập quán
thương mại quốc tế, đồng thời nó cũng bị chi phối bởi luật pháp của các quốc gia, bởi


Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2012, tr
912.
108

71


các chính sách kinh tế, chính sách ngoại thương và chính sách ngoại hối của các quốc
gia tham gia trong thanh tốn.
Tiền tệ trong thanh tốn quốc tế thường khơng phải là tiền mặt mà nó tồn tại
dưới hình thức các phương tiện thanh toán như thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, hối
phiếu, kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ.
5.2. Các phương tiện thanh toán quốc tế
5.2.1. Séc (check)
5.2.1.1. Khái niệm
Séc hay chi phiếu là một văn kiện mệnh lệnh vô điều kiện thể hiện dưới dạng
chứng từ của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình
để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người
cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản. Ngồi ra séc
cũng có thể được định nghĩa là một hối phiếu ký phát địi tiền một ngân hàng, thanh
tốn ngay khi có u cầu. Séc có giá trị thanh tốn như tiền tệ, do vậy, séc phải đáp
ứng những quy định về nội dung và hình thức do luật định (Cơng ước Geneve về Séc
1931).
Để có thể phát hành séc thì người phát hành séc phải có tiền trong tài khoản của
ngân hàng, số tiền trên tờ séc không vượt quá số tiền có trong tài khoản ngân hàng.
Séc thường được in sẵn theo mẫu để người phát hành séc điền vào. Đồng thời, séc chỉ
có giá trị thanh tốn trong một thời gian nhất định, thời hạn có hiệu lực của séc được
ghi rõ trong tờ séc, thời hạn đó phụ thuộc vào không gian lưu hành séc và phụ thuộc
vào luật pháp các nước.
5.2.1.2. Các bên liên quan đến séc

- Người ký séc để trả nợ gọi là người phát hành séc.
- Ngân hàng thanh toán gọi là bên trả tiền.
- Người nhận tiền gọi là người hưởng lợi từ séc.
Sau khi séc được phát hành, người có quyền hưởng lợi tờ séc gọi là người cầm
séc. Séc cũng có thể được chuyển nhượng cho nhiều người liên tiếp thông qua hình
thức ký hậu chuyển nhượng trong thời gian tờ séc cịn có hiệu lực.
5.2.1.3. Nội dung của séc
Tờ séc muốn có hiệu lực phải có những nội dung sau đây:

72


- Tiêu đề SÉC109. Là một phần quan trọng của séc, nếu khơng có tiêu đề, ngân
hàng sẽ từ chối thực hiện lệnh của người phát hành séc (tiêu đề ngơn ngữ nào thì nội
dung phải dùng ngơn ngữ đó)
- Ngày, tháng, năm và địa điểm phát hành séc. Yếu tố này giúp xác định thời
hạn thanh toán của tờ séc110.
- Ngân hàng trả tiền.
- Tài khoản của người trả tiền.
- Số tiền. Ghi rõ ràng, đơn giản số tiền của séc bằng số và bằng chữ (phải thống
nhất với nhau). Nếu có sự khơng thống nhất giữa hai cách ghi đó thì căn cứ vào số tiền
ghi bằng chữ.
- Tên và địa chỉ người trả tiền.
- Tên và chữ ký của người hưởng lợi và tài khoản (nếu có).
- Chữ ký của người phát hành séc.
5.2.1.4. Các loại séc
Căn cứ theo cách xác định người thụ hưởng, ta có các loại:
- Séc lệnh: trả tiền cho cá nhân hoặc thực thể có tên ghi trên séc hoặc trả cho
bên được chuyển nhượng.
- Séc vô danh: trả tiền cho người nắm giữ tờ séc.

Căn cứ theo các yêu cầu để đảm bảo an tồn trong thanh tốn séc, ta có các loại:
- Séc trơn: mặt sau để trắng hoàn toàn, séc này có thể được ngân hàng trả tiền
mặt.
- Séc gạch chéo: mặt sau được gạch hai đường chéo song song, séc này chỉ có
thể được trả tiền bằng hình thức ghi có vào tài khoản của người thụ hưởng tại ngân
hàng.
- Séc gạch chéo đặc biệt: mặt trước hoặc mặt sau của tờ séc được gạch hai
đường chéo song song, giữa hai đường chéo là tên ngân hàng hoặc cả chi nhánh ngân
hàng. Séc này chỉ có thể được nộp vào ngân hàng hay chi nhánh ngân hàng ghi trên
đó. Ngồi ra séc gạch chéo đặc biệt cũng có thể ghi tên ngân hàng nhờ thu để thuận
tiện cho việc giải quyết khi séc bị ngân hàng thanh toán từ chối thanh toán.
109

Tiếng Việt là Séc, Tiếng Anh là Cheque hoặc Check
Theo Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 của Việt Nam thì thời hạn xuất trình séc là 30 ngày, Khoản 1 Điều
69. Theo Công ước Geneva về Séc 1931 thì thời hạn có hiệu lực là 8 ngày làm việc trong phạm vi quốc gia, 20 ngày
làm việc trong phạm vi các nước cùng một châu lục, 70 ngày làm việc nếu séc lưu hành giữa các nước có phạm vi
ngồi châu lục.
110

73


Căn cứ theo mức độ đảm bảo sẽ nhận được tiền cho người thụ hưởng, ta cịn có:
- Séc ngân hàng (hay séc tiền mặt): là séc do ngân hàng phát hành nên người
thụ hưởng sẽ được đảm bảo thanh toán trừ trường hợp phát hiện ra tờ séc đã bị gian
lận. Sở dĩ nó được gọi là séc tiền mặt vì có giá trị gần như tiền mặt do sẽ được thanh
toán ngay.
- Séc bảo chi: là một tờ séc được ngân hàng của người phát hành đảm bảo rằng
tài khoản của người đó có đủ tiền để được trích ra khi thanh tốn. Trong trường hợp

này, ngân hàng thường ghi hoặc đóng dấu bảo chi lên tờ séc.
5.2.2. Hối phiếu (Bill of Exchanfe)
5.2.2.1. Khái niệm
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho
một người yêu cầu người này khi nhận tờ phiếu phải trả ngay, hoặc phải ký chấp nhận
trả tiền ghi trên hối phiếu tại một ngày xác định trong tương lai cho một người nào đó
hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm tờ phiếu.
5.2.2.1. Các bên tham gia hối phiếu
- Người ký phát hối phiếu (drawer): Là người xuất khẩu, người cung ứng các
dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa.
Trách nhiệm của người ký phát: Ký phát hối phiếu đúng luật, ký tên vào góc
phải mặt trước của hối phiếu. Khi hối phiếu bị từ chối trả tiền thì người ký phát phải
hồn trả lại tiền cho những người hưởng lợi từ hối phiếu đó, trừ trường hợp đó là loại
hối phiếu miễn truy địi lại người ký phát hối phiếu.
Quyền lợi của người ký phát: Hưởng lợi số tiền ghi trên hối phiếu, có thể
chuyển nhượng quyền hưởng lợi đó cho người khác.
- Người trả tiền hối phiếu: Là người nhập khẩu hàng hay người sử dụng các
dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa.
Trách nhiệm của người trả tiền: Trả tiền hối phiếu theo đúng quy định ghi trên
hối phiếu. Nếu là hối phiếu có kỳ hạn, người trả tiền phải ký chấp nhận trả tiền hối
phiếu khi nhìn thấy hối phiếu. Việc chấp nhận là vô điều kiện theo quy định của
ULB111.
Quyền lợi của người trả tiền: Người trả tiền có quyền từ chối trả tiền từ hối
phiếu khi chưa ký chấp nhận, tuy nhiên việc từ chối này phải phù hợp với ULB.
Cơng ước quốc tế đầu tiên giải thích hối phiếu ký năm 1930 tại Geneve là “Luật thống nhất về hối phiếu và kỳ”
(Uniform Law for Bill of Exchange – ULB)
111

74



- Người hưởng lợi hối phiếu: Là người có quyền nhận số tiền của hối phiếu.
Người hưởng lợi của hối phiếu có thể là người ký phát hối phiếu hoặc có thể là người
khác do người ký phát hối phiếu chỉ định hoặc do người hưởng lợi chuyển nhượng
quyền hưởng lợi của mình cho người đó bằng thủ tục ký hậu112.
- Người chuyển nhượng hối phiếu: Là người mang quyền hưởng lợi hối phiếu
của mình chuyển cho người khác bằng thủ tục ký hậu. Như vậy, người chuyển nhượng
đầu tiên là người ký phát hối phiếu.
- Người cầm phiếu: Là người có quyền nhận tiền hối phiếu khi hối phiếu được
trả tiền, người cầm phiếu là người ký phát hối phiếu nếu người này không chuyển
nhượng cho ai. Đối với hối phiếu được chuyển nhượng, người cầm hối phiếu là người
cuối cùng được chuyển nhượng.
5.2.2.2. Các nội dung của hối phiếu
Hối phiếu được lập thành văn bản, có thể được in sẵn hoặc đánh máy và được
sử dụng bằng một ngôn ngữ thống nhất, tiếng Anh thường được dùng để lập hối phiếu.
Hối phiếu được lập bằng nhiều thứ tiếng, viết bằng bút chì, hoặc bằng mực mờ đều
khơng có giá trị. Theo Luật thống nhất về hối phiếu (ULB), hối phiếu có giá trị pháp lý
khi có các nội dung sau113:
- Tiêu đề hối phiếu: phải ghi chữ Hối phiếu (Bill of Exchange).
- Ðịa điểm ký phát hối phiếu. Trong trường hợp hối phiếu không ghi địa điểm
ký phát thì địa chỉ ghi bên cạnh tên người ký phát là địa điểm thành lập hối phiếu.
- Ðịa điểm trả tiền. Nếu trên hối phiếu không ghi địa điểm trả tiền thì địa chỉ ghi
bên cạnh người trả tiền là địa điểm trả tiền của hối phiếu.
- Trên hối phiếu phải ghi rõ: Trả theo lệnh của … (Pay to the order of…)
- Số tiền và loại tiền. Số tiền phải ghi rõ ràng, đơn giản, đúng tập quán quốc tế,
được ghi cả bằng số và bằng chữ. Chú ý, nếu số tiền ghi bằng số và bằng chữ khác
nhau thì căn cứ vào số tiền ghi bằng chữ.
- Kỳ hạn trả tiền của hối phiếu114:
+ Trả tiền ngay: hối phiếu ghi: Trả ngay khi nhìn thấy bản thứ nhất (hai) của hối
phiếu này ( At … sight of first (second) Bill of Exchange).

+ Trả tiền sau: Trả sau một số ngày kể từ ngày nhận hối phiếu: Trả 30 ngày sau
khi nhìn thấy (At .30.. days after sight); Trả sau một số ngày kể từ ngày giao hàng: Trả
Người có quyền hưởng lợi chuyển quyền này cho người khác bằng thủ tục ký phía sau của hối phiếu.
Điều 1, Luật thống nhất Geneva về hối phiếu và kỳ phiếu 1930.
114
Điều 33, Luật thống nhất Geneva về hối phiếu và kỳ phiếu 1930
112
113

75


.30. ngày sau khi ký vận đơn (At..30.. days after Bill of Lading date); Trả sau một số
ngày kể từ ngày kí phát hối phiếu: Trả sau 30 ngày kể từ ngày kí phát hối phiếu
(At.30. days after Bill of Exchange date).
- Người hưởng lợi hối phiếu. Ghi đầy đủ họ tên và địa chỉ của người hưởng lợi.
Ðối với hối phiếu thương mại, người hưởng lợi là người xuất khẩu và cũng có thể là
một người khác do người hưởng lợi chỉ định.
- Người trả tiền hối phiếu: Ghi đầy đủ họ tên và địa chỉ của người trả tiền của
hối phiếu vào góc dưới bên trái của hối phiếu.
- Người ký phát hối phiếu. Người ký phát hối phiếu phải ký tên ở góc dưới bên
phải của tờ hối phiếu bằng chữ ký thông dụng trong giao dịch. Các chữ ký dưới dạng
in, photocopy và đóng dấu… mà khơng phải viết tay đều khơng có giá trị pháp lý.Việc
ký phát hối phiếu không loại trừ sự uỷ quyền. Người được uỷ quyền ký phát hối phiếu
phải thể hiện sự uỷ quyền ngay bên cạnh chữ ký của mình. Ngơn ngữ của hối phiếu là
ngơn ngữ nào thì ngơn ngữ thể hiện sự uỷ quyền phải là ngôn ngữ ấy, điều quy định
này tạo điều kiện dễ dàng cho người có liên quan đến hối phiếu thấy có sự uỷ quyền
về việc thành lập hối phiếu đó.
5.2.2.2. Các loại hối phiếu115
Căn cứ vào thời hạn trả tiền hối phiếu thì hối phiếu có ba loại sau:

- Hối phiếu trả tiền ngay: Người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người
cầm hối phiếu xuất trình thì trả tiền ngay cho họ.
- Hối phiếu trả tiền ngay sau một số ngày nhất định: Thời gian thường là 5 đến
7 ngày, người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người cầm hối phiếu xuất trình
thì chấp nhận trả tiền, sau đó từ 5 đến 7 ngày thì trả tiền cho hối phiếu đó.
- Hối phiếu có kỳ hạn: Sau một thời gian nhất định ghi trên hối phiếu, người trả
tiền phải trả tiền, hoặc tính từ ngày ký phát hối phiếu hoặc tính từ ngày hoặc từ một
ngày quy định cụ thể.
Căn cứ vào việc hối phiếu có kèm chứng từ hay khơng, ta có hai loại hối phiếu
là:
- Hối phiếu trơn: Loại hối phiếu này khi gửi đến người trả tiền nhưng không
kèm theo chứng từ hàng hóa. Loại hối phiếu này thường dùng để thu tiền cước phí vận
tải, bảo hiểm, hoa hồng…hoặc dùng địi tiền những thương nhân đáng tin cậy, đối tác
có quan hệ thương mại thường xuyên.
Theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 4, Luật các công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 thì có hai loại hối phiếu là
hối phiếu địi nợ và hối phiếu nhận nợ.
115

76


- Hối phiếu kèm chứng từ: Loại hối phiếu này được gửi đến cho người nhập
khẩu cùng với chứng từ hàng hóa.
Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu ta có hai loại sau:
- Hối phiếu đích danh: Là loại hối phiếu ghi rõ tên người hưởng lợi. Hối phiếu
đích danh khơng chuyển nhượng được theo thủ tục ký hậu.
- Hối phiếu theo lệnh: Là hối phiếu ghi trả theo lệnh của người hưởng lợi hối
phiếu. Hối phiếu theo lệnh được chuyển nhượng theo hình thức ký hậu. Đây là hình
thức hối phiếu được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế.
Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, ta có hai loại sau:

- Hối phiếu thương mại: Là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát địi tiền người
nhập khẩu trong nghiệp vụ về thanh tốn hàng hóa xuất khẩu hoặc cung ứng hàng hóa
lẫn nhau.
- Hối phiếu ngân hàng: Là loại hối phiếu do ngân hàng phát hành ra lệnh cho
ngân hàng chi nhánh của mình thanh tốn một số tiền nhất định cho người hưởng lợi
ghi trên hối phiếu.
5.2.3. Kỳ phiếu (Promissory note)
5.2.3.1. Khái niệm
Khác với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ lập để cam kết đến thời hạn nhất định
sẽ trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người này trả cho
người khác ghi trong kỳ phiếu đó.
Kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người cùng phát hành để cam kết thanh toán
cho một hoặc nhiều người hưởng lợi.
Kỳ phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hay của cơng ty tài chính, việc bảo
lãnh này nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh tốn của kỳ phiếu.
Kỳ phiếu chỉ có một bản chính được phát ra do con nợ phát hành cho người thụ
hưởng.
5.2.3.2. Các bên tham gia kỳ phiếu
- Người phát hành: Là người lập và phát hành kỳ phiếu, người phát hành có
nghĩa vụ thanh tốn số tiền ghi trên kỳ phiếu cho người thụ hưởng cho đến hạn thanh
toán. Nếu giao dịch cơ sở là hợp đồng mua bán thì người phát hành là người mua. Nếu
giao dịch cơ sở là hợp đồng cung ứng dịch vụ thì người phát hành là người nhận cung
ứng dịch vụ.

77


- Người hưởng lợi: Là người được quy định trên kỳ phiếu theo chỉ định của
người lập phiếu hoặc là người thứ ba theo lệnh của người này.
5.2.3.3. Nội dung kỳ phiếu

Một kỳ phiếu đảm bảo có giá trị phải bao gồm các nội dung sau:
- Phải ghi rõ tên “Kỳ phiếu” ở mặt trước của kỳ phiếu
- Cam kết chi trả không điều kiện một số tiền nhất định
- Thời hạn thanh toán
- Địa điểm thanh toán
- Tên và địa chỉ người thụ hưởng
- Địa điểm và ngày ký phát
- Tên, địa chỉ và chữ ký của người ký phát.
5.3. Các phương thức thanh toán quốc tế
Các phương thức thanh toán quốc tế là các phương pháp thu tiền của người bán,
cũng như là các phương pháp trả tiền của người mua. Trong bn bán, người ta có thể
dùng nhiều cách, nhưng lựa chọn cách nào thì cũng xuất phát từ yêu cầu của người
bán là thu tiền nhanh, đúng và đầy đủ, còn người mua là nhận được hàng đúng số
lượng, chủng loại, chất lượng và đúng hạn.
5.3.1. Phương thức chuyển tiền (Remittanve)
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản trong thanh toán
quốc tế. Phương thức này được thực hiện bằng cách là người mua (người nhập khẩu)
thông qua ngân hàng để gửi trả tiền cho người bán (người xuất khẩu). Phương thức
này ít được dùng trong thanh tốn quốc tế bởi vì nó phụ thuộc nhiều vào thiện chí của
người mua và khơng đảm bảo được quyền lợi của người bán. Chỉ trong các trường hợp
như trả tiền ứng trước hay trả tiền hoa hồng, hay các hợp đồng được thực hiện giữa
các đối tác lâu năm và uy tín thì người ta mới áp dụng phương thức này. Phương tiện
thanh toán được dùng trong phương thức chuyển tiền bao gồm:
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T).
Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh, nhưng chi phí cao. Ngày nay khi tham gia
mạng SWITF116 thì hầu hết chuyển tiền được thực hiện trên mạng SWITF.
- Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T).
116

SWIFT (Society for Worldwide Interbank and Financial Telecommunication) là Hiệp hội viễn thơng liên ngân

hàng và tài chính quốc tế, được thành lập cách đây hơn 35 năm với 239 ngân hàng trên 15 nước tham gia. Hiện nay,
SWIFT đã liên kết hơn 9.000 tổ chức tài chính trên 209 quốc gia và vùng lãnh thổ

78


Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện, song tốc độ lại
chậm hơn. Chuyển tiền bằng điện thì người chuyển tiền khơng bị động vốn lâu ngày,
nhưng tỷ giá ngoại tệ áp dụng trong điện hối cao hơn tỷ giá ngoại tệ trong thư hối.
5.3.2. Phương thức nhờ thu (Colleotion of payment)
Phương thức thanh toán nhờ thu được điều chỉnh bởi bản “Quy tắc thông nhất
về nhờ thu chứng từ thương mại – URC 522” do Phòng thương mại quốc tế Paris ban
hành, bản sửa đổi năm 1995. Muốn áp dụng phương thức này các bên phải thỏa thuận
thống nhất và đưa vào trong hợp đồng. Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương
thức thanh tốn quốc tế trong đó người xuất khẩu (người bán) sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu (người mua), uỷ thác
cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài, trên cơ sở
hối phiếu do người xuất khẩu ký phát.
5.3.2.1. Nội dung quy trình phương thức thanh toán nhờ thu
(1). Căn cứ vào hợp đồng mua bán ngoại thương, người xuất khẩu tiến hành gửi
hàng cho người nhập.
(2). Ngay sau khi đã gửi hàng ra nước ngoài, người xuất khẩu lập bộ chứng từ,
phát hành hối phiếu và gửi cho ngân hàng phục vụ mình để nhờ ngân hàng thu hộ tiền.
(3). Nhận đựơc bộ chứng từ hàng hoá, hối phiếu do người xuất khẩu gửi tới,
ngân hàng xuất khẩu tiến hành kiểm tra chứng từ và lập thư uỷ nhiệm, rồi gửi các
chứng từ ấy cho ngân hàng nước người nhập khẩu.
(4). Nhận được các chứng từ từ ngân hàng xuất khẩu, ngân hàng nhập khẩu phải
kiểm tra những nội dung trên các chứng từ đó, rồi thơng báo cho người nhập khẩu biết.
(5). Sau khi đựơc thông báo về bộ chứng từ do người xuất khẩu gửi tới. Nếu
nhất trí, thì người nhập khẩu phải chấp nhận trả tiền hối phiếu hoặc trả tiền ngay bộ

chứng từ đó.
(6). Sau khi đã được người nhập khẩu trả tiền, ngân hàng nhập khẩu làm thủ tục
chuyển trả số tiền ấy cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng xuất khẩu.
(7). Khi đã nhận được tiền do ngân hàng nhập khẩu chuyển tiền đến, ngân hàng
xuất khẩu trả số tiền đó cho người xuất khẩu.
Trong thanh tốn uỷ thác thu, nếu người xuất khẩu khơng thực hiện trọn vẹn và
đầy đủ các cam kết với người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán ngoại thương thì
người nhập khẩu có quyền từ chối thanh tốn (một phần hay tồn bộ) số tiền trên giấy
địi tiền của người xuất khẩu. Trong phương thức này, người xuất khẩu thông qua ngân
hàng chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hố, mà khơng khống chế được việc
79


trả tiền của người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể bằng cách chưa nhận bộ chứng
từ hàng hoá, để kéo dài việc trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc có thể khơng trả tiền
khi tình hình thị trường bất lợi cho họ. Đối với hình thức thanh tốn uỷ nhiệm thu,
ngân hàng chỉ là người trung gian thu hộ tiền cho người xuất khẩu, cịn khơng có trách
nhiệm với việc trả tiền của người nhập khẩu. Hình thức này tuy về thủ tục có phần đơn
giản song việc trả tiền còn chậm.
5.3.2.1. Các loại của phương thức nhờ thu
Phương thức nhờ thu có hai loại là nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ
- Nhờ thu phiếu trơn: Nhờ thu phiếu trơn là hình thức nhờ thu khơng kèm
chứng từ, theo đó việc địi tiền chỉ dựa trên chứng từ đòi tiền là hối phiếu do người
xuất khẩu ký phát, mà không kèm theo các chứng từ hàng hố, thì được gọi là nhờ thu
phiếu trơn. Loại này thường được dùng trong thanh toán tiền chi trả về dịch vụ, cước
phí bảo hiểm, tiền phạt, tiền bồi thường.
Phương thức thanh tốn này khơng thích hợp trong thanh tốn quốc tế bởi nếu
người mua khơng tốt thì có thể nhận hàng nhưng lại gây khó khăn trong việc trả tiền
cho người bán, hay người mua trả tiền (đối với hối phiếu trả tiền ngay) nhưng họ
không biết người bán giao hàng như thế nào vì khơng có chứng từ gửi kèm theo hối

phiếu. Chính vì vậy, trong thanh tốn quốc tế phương thức này ít sử dụng.
- Nhờ thu kèm chứng từ: Đây là trường hợp người bán chuyển cho ngân hàng
hối phiếu cùng với một bộ chứng từ gửi hàng để nhờ thu tiền ở người mua với điều
kiện là người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiến hối phiếu thì ngân hàng mới giao
tồn bộ chứng từ để đi nhập hàng. Phương thức này giúp người xuất khẩu giữ quyền
kiểm sốt hàng hóa cho đến khi được thanh tốn hoặc bảo đảm thanh tốn. Nói chung,
người xuất khẩu giao hàng hóa và sau đó lập các chứng từ thương mại như hóa đơn và
chứng từ sở hữu, sau đó gửi chứng từ kèm với hối phiếu cho ngân hàng đại diện cho
người xuất khẩu. Ngân hàng sẽ chỉ giao chứng từ sở hữu cho người nhập khẩu nếu
người nhập khấu thanh toán hối phiếu hoặc chấp nhận thanh toán vào một thời điểm
trong tương lai, có hai trường hợp:

 Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (Documents against payment – D/P): Phương
thức này được áp dụng trong trường hợp người mua hàng trả tiền ngay. Người bán,
sau khi giao hàng, lập đầy đủ các chứng từ cần thiết mang đến ngân hàng nhờ thu hộ.
Ngân hàng này chọn đại lý ở nước người mua để thu hộ số tiền đó. Ngân hàng đại lý
báo cho người mua và chỉ trao chứng từ cho người mua đi nhận hàng nếu người mua
đến trả tiền ngay hối phiếu đó. Sau khi thu được tiền, ngân hàng đại lý chuyển số tiền
nhờ thu cho ngân hàng ủy thác để giao cho người bán, đồng thời thu thủ tục phí thu hộ
và các chi phí khác liên quan. Chi phí này, thơng thường do người bán chịu.
80


 Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents against acceptance – D/A):
Phương thức này được sử dụng trong trường hợp bán hàng với điều kiện cấp tín dụng
cho người mua. Trình tự tiến hành và nội dung giống như ở nhờ thu trả tiền đổi chứng
từ (D/P), chỉ khác là người nhập khẩu chấp nhận trả tiền hối phiếu (có kỳ hạn) để nhận
chứng từ sở hữu hàng hóa để đi nhận hàng. Bằng việc chấp nhận hối phiếu, người
nhập khẩu cơng nhận trách nhiệm thanh tốn hợp pháp và vô điều kiện theo các điều
kiện của hối phiếu. Hối phiếu có chữ ký chấp nhận của người mua được ngân hàng

chuyển cho người bán, đến khi hối phiếu đến hạn thì người mua phải trả tiền cho
người bán.
5.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary credits)
Phương thức thanh tốn tín dụng117 chứng từ là một thỏa thuận, trong đó một
ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở
thư tín dụng) cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số
tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số
tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ là một trong những phương thức
thanh toán quốc tế hiện nay đang được sử dụng khá phổ biến. Phương thức thanh tốn
tín dụng chứng từ được thực hiện theo “Qui tắc thực hành thống nhất cho phương thức
thanh tốn tín dụng chứng từ” (Uniform Customs and Practice for Documentary Credit
– UCP – DC) do Phòng thương mại quốc tế (ICC) ban hành. Văn bản UCP đầu tiên
được xuất bản năm 1933, văn bản này được kiểm tra, tổng kết theo định kỳ và được
sửa đổi bổ sung nhiều lần vào các năm : 1951,1962,1974,1983, 1993, bản sửa đổi mới
nhất đã được Ủy ban Ngân hàng của ICC phê chuẩn tại cuộc họp ở Paris vào ngày
25/10/2006. Bản sửa đổi mới này, gọi là UCP600, đã chính thức bắt đầu hiệu lực từ
ngày 01/7/2007.
UCP cũng là một bản quy định linh hoạt hơn nhiều so với bất kỳ luật quốc gia
hay một văn bản luật quốc tế nào khác118 trong việc thanh tốn bằng tín dụng chứng
từ. UCP không phải là luật bắt buộc mà chỉ áp dụng khi các ngân hàng tự nguyện đưa
UCP vào các hợp đồng từ đó hình thành nên các quan hệ tính dụng. Về cơ bản, UCP là
sự thể chế hóa các tập qn thơng lệ thương mại quốc tế, dựa trên kinh nghiệm của các
ngân hàng thương mại, người xuất khẩu và người nhập khẩu. Hiện nay ở Việt Nam,
Theo Điều 2 UCP 2006 thì Tín dụng là một thỏa thuận, dù cho được mô tả hay đặt tên như thế nào nhưng không
thể hủy bỏ và do đó là một cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành về việc thanh tốn cho một xuất trình phù
hợp.
118
Trần Thị Hịa Bình, Trần Văn Nam, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2005, tr

292.
117

81


các ngân hàng thương mại và các đơn vị kinh doanh ngoại thương đã thống nhất sử
dụng bản quy tắc UCP để điều chỉnh các quan hệ áp dụng thư tín dụng quốc tế giữa
Việt Nam và nước ngồi.
5.3.3.1. Các bên tham gia vào phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng119 : người mua, người nhập khẩu, người phải
trích tài khoản của mình để thanh tốn.
- Ngân hàng phát hành120: Ngân hàng phát hành cịn được gọi là ngân hàng mở
thư tín dụng là ngân hàng phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu.
- Ngân hàng thông báo121: Có thể là một ngân hàng đại diện hoặc là chi nhánh
của ngân hàng mở thư tín dụng đặt tại nước người xuất khẩu.
- Người hưởng lợi122: Người xuất khẩu, người bán hàng hóa hay người ký phát
hối phiếu được hưởng lợi thư tín dụng do người nhập khẩu mở.
Trong một số trường hợp, người xuất khẩu muốn giảm rủi ro và yêu cầu sử
dụng các loại thư tín dụng có xác nhận thì có các ngân hàng xác nhận thư tín dụng và
ngân hàng thanh tốn thư tín dụng.
5.3.3.2. Trình tự thực hiện phương thức thanh tốn tính dụng chứng từ
- Người mua và người bán ký một hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Người mua, căn cứ vào hợp đồng, làm đơn xin mở một thư tín dụng (Letter of
Credit – L/C) tại một ngân hàng nhất định mà hai bên trong hợp đồng mua bán đã thỏa
thuận trong hợp đồng, yêu cầu ngân hàng này trả tiền cho người bán nếu người bán
nộp đủ bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện quy định trong thư tín
dụng.
- Ngân hàng mở thư tín dụng, căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, mở thư tín
dụng và thơng qua ngân hàng nước ngồi thơng báo cho người bán biết về thư tín dụng

đó rồi gửi bản chính của thư tín dụng cho người bán.
- Người bán kiểm tra kỹ nội dung của thư tín dụng, nếu chấp thuận thì giao
hàng hóa cho người mua theo thư tín dụng, nếu khơng chấp thuận hoặc cần phải sửa
đổi hoặc bổ sung những nội dung trong thư tín dụng thì người bán điện cho người mua
hoặc cho ngân hàng mở thư tín dụng để ngân hàng đề nghị người mua sửa thư tín
dụng. Mọi nội dung sửa đổi phải có sự xác nhận của ngân hàng mở thư tín dụng thì
Điều 2 UCP 600
Điều 2 UCP 600
121
Điều 2 UCP 600
122
Điều 2 UCP 600
119
120

82


mới có hiệu lực. Văn bản sửa đổi trở thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời
của thư tín dụng cũ và hủy bỏ nội dung cũ.
- Sau khi hoàn thành việc giao hàng, người bán lập bộ chứng từ thanh toán đưa
đến ngân hàng trong thời hạn xuất trình chứng từ.
- Ngân hàng thơng báo chuyển bộ chứng từ thanh tốn cho ngân hàng mở thư
tín dụng để ngân hàng này trả tiền cho người bán. Nếu ngân hàng thông báo đồng thời
là ngân hàng trả tiền thì sẽ tiến hành trả tiền cho người bán và trả tồn bộ chứng từ cho
ngân hàng mở thư tín dụng. Ngân hàng này sẽ hoàn lại số tiền đã trả cho ngân hàng
thơng báo.
- Ngân hàng mở thư tín dụng chuyển giao tồn bộ chứng từ hàng hóa cho người
mua để người mua đi nhận hàng, đồng thời thu hồi lại ở người mua số tiền đã trả cho
người bán.

5.3.3.3. Nội dung của thư tín dụng
Một thư tín dụng thường có các nội dung chủ yếu sau:
- Số hiệu của thư tín dụng
- Loại thư tín dụng
- Tên và địa chỉ người yêu cầu mở thư tín dụng
- Tên và địa chỉ của ngân hàng mở thư tín dụng
- Tên và địa chỉ của người hưởng lợi thư tín dụng
- Số tiền (bằng số và chữ của thư tín dụng)
- Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng
- Thời hạn trả tiền
- Thời hạn xuất trình chứng từ
- Ngân hàng trả tiền
- Thời hạn giao hàng, nơi gửi hàng, nơi hàng đến
- Tên hàng, quy cách, phẩm chất hàng hóa, giá cả, đơn vị, bao bì, ký mã hiệu, số
lượng và trọng lượng, điều kiện, cơ sở giao hàng.
- Cách giao hàng và cách vận tải
- Những chứng từ mà người bán phải xuất trình cho ngân hàng trả tiền
- Các điều kiện khác
- Ngân hàng mở thư tín dụng cam kết và ký tên.
83


5.3.3.4. Các loại thư tín dụng
- Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable L/C): Là một thư tín dụng mà sau
khi được mở thì tổ chức nhập khẩu có thể sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ bất cứ lúc nào
mà không cần báo trước cho người hưởng lợi L/C. Loại thư tín dụng này ít được sử
dụng bởi vì L/C có thể hủy bỏ chỉ là một lời hứa khơng có cam kết đảm bảo một cách
chắc chắn.
- Thư tín dụng khơng thể hủy ngang (Irrevocable letter of credit): Là loại thư tín
dụng mà sau khi được mở thì ngân hàng mở L/C phải chịu trách nhiệm thanh toán tiền

cho tổ chức xuất khẩu và tổ chức nhập khẩu sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay
hủy bỏ những nội dung của L/C nếu khơng có sự đồng ý của tổ chức xuất khẩu. Loại
L/C không hủy ngang đảm bảo quyền lợi cho bên xuất khẩu và hiện nay đang được sử
dụng phổ biến. Một điểm cần chú ý rằng nếu L/C không ghi là hủy hay khơng được
hủy bỏ, thì nó đương nhiên được thừa nhận là khơng thể hủy bỏ123.
- Thư tín dụng trả ngay (L/C at sight): Là loại thư tín dụng trong đó người xuất
khẩu sẽ được thanh tốn ngay khi xuất trình các chứng từ phù hợp với điều khoản quy
định trong thư tín dụng tại ngân hàng chỉ định thanh toán. Trong trường hợp này người
xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu trả ngay để yêu cầu thanh toán.
- Thư tín dụng trả chậm (Deffered payment L/C): Là loại thư tín dụng khơng
hủy ngang trong đó quy định ngân hàng mở L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh
toán toàn bộ số tiền L/C vào thời hạn cụ thể trong tương lai ghi trên L/C sau khi nhận
được chứng từ và không cần hối phiếu. Khi chỉ định một ngân hàng thanh toán trả
chậm, ngân hàng phát hành cho phép ngân hàng đó thực hiện thanh tốn bộ chứng từ
được xuất trình phù hợp với quy định trong thư tín dụng vào một thời điểm xác định
trong tương lai đã nêu trong thư tín dụng. Đồng thời, ngân hàng phát hành cũng cam
kết bồi hoàn cho ngân hàng thanh tốn đúng thời hạn.
- Thư tín dụng khơng thể hủy ngang có xác nhận (Confirmed irrevocable letter
of credit): Là loại thư tín dụng khơng thể hủy ngang và được một ngân hàng thứ ba
đứng ra bảo đảm việc trả tiền theo thư tín dụng đó cùng với ngân hàng mở L/C. Điều
đó có nghĩa là ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm thanh toán tiền cho người xuất
khẩu, nếu như ngân hàng mở thư tín dụng khơng trả tiền được. Sở dĩ có loại thư tín
dụng này là do phịng trường hợp tổ chức xuất khẩu khơng hồn tồn tin tưởng vào
nhà nhập khẩu cũng như ngân hàng mở L/C và giá trị L/C tương đối lớn.
- Thư tín dụng khơng thể hủy ngang và khơng được truy địi lại tiền
(Irrevocable without recourse letter of credit): Là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ
123

Điều 3 UCP 600


84


trong đó quy định ngân hàng mở L/C sau khi đã thanh tốn cho tổ chức xuất khẩu thì
khơng được quyền truy đòi lại tiền với bất cứ lý do nào. Khi sử dụng loại L/C này tổ
chức xuất khẩu khi ký phát hối phiếu phải ghi câu “không được truy đòi lại tiền người
ký phát” (Without recourse to drawers).
-Thư tín dụng tuần hồn (Revolving letter of credit): Là loại L/C không thể hủy
bỏ, sau khi sử dụng hết kim ngạch hoặc hết hiệu lực của L/C thì nó có lại tự động có
giá trị như cũ và cứ như vậy L/C tuần hoàn đến khi nào hoàn tất trị giá hợp đồng. Loại
L/C này thường được áp dụng khi hai bên xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ thường
xun và đối tượng thanh tốn khơng thay đổi. Nếu sử dụng L/C này tổ chức nhập
khẩu sẽ không bị động vốn và giảm được phí tổn do việc mở L/C.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back letter of credit): Là loại thư tín dụng
khơng thể hủy bỏ do người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một
thư tín dụng phát hành một thư tín dụng khác cho người khác hưởng căn cứ vào một
thư tín dụng đã được phát hành trước đó làm đảm bảo. Loại thư tín dụng này thường
được sử dụng trong những trường hợp như L/C gốc (Master L/C) không cho phép
chuyển nhượng, khi các chứng từ cần có theo L/C gốc không trùng hợp với các chứng
từ của L/C thứ hai, hay khi người trung gian muốn bí mật một số thơng tin. Nội dung
thư tín dụng gốc và thư tín dụng thứ hai hồn tồn độc lập với nhau. Nghiệp vụ thư tín
dụng giáp lưng rất phức tạp, địi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều
kiện của thư tín dụng gốc và thư tín dụng giáp lưng. Loại thư tín dụng này thường
được sử dụng trong mua bán hàng hóa trung gian.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): Là lọai L/C khơng thể hủy bỏ, chỉ có
giá trị khi một L/C khác đối ứng với nó được mở. Loại L/C đối ứng được sử dụng trên
cơ sở hàng đổi hàng hoặc gia cơng hàng hóa.
- Thư tín dụng với điều khoản đỏ (Red clause L/C): Là loại thư tín dụng có điều
khoản đặc biệt, trong đó người yêu cầu phát hành thư tín dụng thơng qua ngân hàng
phát hành đồng ý cho phép tổ chức xuất khẩu được quyền tháo khoán trước một số

tiền nhất định trước khi họ xuất trình đầy đủ chứng từ hợp lệ theo đúng thời gian quy
định. Loại thư tín dụng này thường được sử dụng trong quan hệ mua bán giữa hai công
ty mẹ - con, tài trợ cho người xuất khẩu để chuẩn bị hàng hóa.
- Thư tín dụng dự phịng (Stand – by L/C): Để đảm bảo quyền lợi cho người
nhập khẩu tránh trường hợp người xuất khẩu không giao hàng đúng hợp đồng, đơn vị
nhập khẩu yêu cầu đơn vị xuất khẩu mở một thư tín dụng dự phịng trong đó cam kết
Ngân hàng mở thư tín dụng dự phịng sẽ thanh toán tiền đền bù thiệt hại cho đơn vị
nhập khẩu nếu người xuất khẩu không đảm bảo nghĩa vụ giao hàng theo thư tín dụng
quy định.
85


- L/C có thể chuyển nhượng được (Irrevocable Tranferable L/C): Là loại L/C
khơng thể hủy ngang, trong đó quy định quyền được chuyển nhượng một phần hay
toàn bộ trị giá L/C cho một hay nhiều người khác theo lệnh của người hưởng lợi đầu
tiên. Tuy nhiên việc chuyển nhượng chỉ được phép tiến hành một lần, do vậy không
thể chuyển nhượng theo yêu cầu của người hưởng lợi thứ hai cho bất kỳ người hưởng
lợi thứ ba nào khác. Điều đó có nghĩa là chỉ cho phép tái chuyển nhượng cho người
thứ nhất trừ khi trong L/C có quy định không hạn chế chuyển nhượng124.
5.3.3.4. Ưu nhược điểm của phương thức tín dụng chứng từ
Ưu điểm.
- Đối với người mua: Phương thức thanh tốn L/C giúp người mua có thể mở
rộng nguồn cung cấp hàng hố cho mình mà khơng phải tốn thời gian, cơng sức trong
việc tìm đối tác uy tín và tin cậy. Bởi lẽ, hầu hết các giấy tờ chứng từ đều được ngân
hàng đối tác kiểm tra và chịu trách nhiệm hồn tồn về sai sót này. Người mua được
đảm bảo về mặt tài chính rằng bên bán giao hàng thì mới phải trả tiền hàng. Ngoài ra,
các khoản ký quỹ mở L/C cũng được hưởng lãi theo quy định.
- Đối với người bán: Người bán hồn tồn được đảm bảo thanh tốn với bộ
chứng từ hợp lệ. Việc thanh tốn khơng phụ thuộc vào nhà nhập khẩu. Người bán sau
khi giao hàng tiến hành lập bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản của L/C sẽ được

thanh toán bất kể trường hợp người mua khơng có khả năng thanh tốn. Do vậy, nhà
xuất khẩu sẽ thu hồi vốn nhanh chóng, khơng bị ứ đọng vốn trong thời gian thanh
toán.
- Đối với ngân hàng phát hành: Thực hiện nghĩa vụ thanh toán này, ngân hàng
thu được các khoản phí thủ tục, ngồi ra, ngân hàng cịn thu hút được một khoản tiền
khá lớn (khi có ký quỹ). Khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng còn thực hiện được
một số nghiệp vụ khác như cho vay xuất khẩu, bảo lãnh, xác nhận, mua bán ngoại tệ...
Hơn nữa, thơng qua nghiệp vụ này uy tín và vai trị của ngân hàng trên thị trương tài
chính quốc tế được củng cố và mở rộng.
Nhược điểm
Có thể nói, thanh tốn theo phương thức tín dụng chứng từ là hình thức thanh
tốn an tồn và phổ biến nhất trong thương mại quốc tế hiện nay. Hình thức này có
nhiều ưu việt hơn hẳn các hình thức thanh tốn quốc tế khác. Tuy nhiên, nó cũng
khơng tránh khỏi những nhược điểm. Nhược điểm lớn nhất của hình thức thanh tốn
này là quy trình thanh tốn rất tỷ mỷ, máy móc, các bên tiến hành đều rất thận trọng
trong khâu lập và kiểm tra chứng từ. Chỉ cần có một sai sót nhỏ trong việc lập và kiểm
124

Điều 38 UCP 600

86


tra chứng từ cũng là nguyên nhân để từ chối thanh tốn. Đối với ngân hàng phát hành,
sai sót trong việc kiểm tra chứng từ cũng dẫn đến hậu quả rất lớn.

87


CHƯƠNG 6: PHÁP LUẬT VỀ VẬN TẢI HÀNG HÓA QUỐC TẾ

6.1. Khái niệm chung về hợp đồng chuyên chở hàng hóa quốc tế
6.1.1. Khái niệm
Hợp đồng chuyên chở hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận được ký kết giữa người
chuyên chở và người thuê chở trong đó người chuyên chở cam kết vận chuyển hàng
hóa từ địa điểm này sang địa điểm ở nước khác nhằm mục đích thu tiền cước do người
thuê chở trả theo mức hai bên thỏa thuận.
6.1.2. Đặc điểm
Hợp đồng chuyên chở hàng hóa quốc tế có một số đặc điểm sau:
- Đối tượng hợp đồng là hàng hóa dịch chuyển từ nước này sang nước khác.
- Các bên trong hợp đồng là người chuyên chở và người thuê chở.
Người chuyên chở có thể là chủ tàu, người khai thác quản lý tàu hoặc người
chuyên chở chuyên nghiệp.
Người thuê chở: Có thể là người bán hoặc người mua tùy theo điều kiện của
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Người gửi hàng: Thơng thường là người bán hàng, là người tiến hành hành vi
giao hàng theo hợp đồng chuyên chở tại nơi đóng hàng vào container hay tại cảng…
Người nhận hàng: Là người có quyền nhận lơ hàng ghi trong vận đơn.
- Nội dung của hợp đồng: Hợp đồng phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các bên trong hợp đồng chuyên chở, cụ thể quy định nghĩa vụ trách nhiệm của
người chuyên chở, nghĩa vụ nhận hàng và trả cước của thuê chở…
6.2. Một số quy định về hợp đồng vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường
biển
6.2.1. Khái niệm
Theo Điều 145 Bộ luật Hàng hải Việt Nam thì “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển là hợp đồng được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận
chuyển, theo đó người vận chuyển thu tiền cước vận chuyển do người thuê vận chuyển
trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hoá từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng”125.
Theo Khoản 6 Điều 1 Công ước của Liên hiệp quốc về chun chở hàng hóa bằng đường biển, 1978 thì “Hợp
đồng vận tải đường biển” là bất kỳ hợp đồng nào mà theo đó người chuyên chở đảm nhận việc chuyên chở hàng hóa
bằng đường biển từ một cảng này đến một cảng khác để thu tiền cước. Tuy nhiên, một hợp đồng bao gồm chuyên

125

88


Trong hoạt động kinh doanh hàng hải quốc tế, căn cứ vào lịch trình hoạt động
của tàu biển, người ta chia thành hai loại phương thức thuê tàu như sau:
- Phương thức thuê tàu chợ (Booking Shiping Space): Tàu chợ còn gọi là tàu
chạy định kỳ, là loại tàu thường chạy trên một tuyến hàng hải nhất định, ghé qua
những cảng nhất định theo một lịch trình đã định trước.
- Phương thức thuê tàu chuyến (Voyage Charter): Tàu chuyến là tàu dùng trong
kinh doanh vận tải biển, hoạt động không theo một lịch trình đã định trước. Việc
chuyên chở hàng hóa quốc tế đối với phương thức này sẽ được tiến hành theo yêu cầu
của người thuê vận tải.
Tương ứng với hai phương thức vận tải người ta chia hợp đồng vận tải hàng hóa
quốc tế bằng đường biển thành: Hợp đồng vận tải hàng hóa quốc tế bằng tàu chợ và
hợp đồng vận tải hàng hóa quốc tế bằng tàu chuyến.
6.2.2. Nguồn luật điều chỉnh
Các điều ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
- Cơng ước quốc tế thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển (Quy tắc
Hague 1924). Quy tắc Hague năm 1924 áp dụng cho hợp đồng vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển được thể hiện bằng một vận đơn hoặc một chứng từ sở hữu tương tự.
- Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc về vận đơn
đường biển, Visby 1968 (Quy tắc Hague - Visby 1968).
- Công ước của Liên hợp quốc về vận chuyển hàng hố bằng đường biển, 1978
(Cơng ước Hamburg 1978). Công ước Hamburg năm 1978 sẽ được áp dụng với mọi
hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển giữa hai quốc gia trong một số
trường hợp.
- Công ước của Liên hợp quốc về vận chuyển hàng hoá bằng vận tải đa phương
thức quốc tế Công ước này được thông qua tại hội nghị của Liên hợp quốc ngày

24/5/1980 tại Geneva (Thụy Sĩ) gồm 84 nước tham gia. Cho đến nay, Cơng ước này
vẫn chưa có hiệu lực do chưa đủ số nước cần thiết để phê chuẩn, gia nhập. Tuy nhiên,
đây lại là một nguồn luật được các nước áp dụng trong hoạt động vận chuyển hàng hố
bằng vận tải đa phương thức trong đó có bao gồm phương thức vận chuyển bằng
đường biển.
Các văn bản pháp luật Việt Nam quy định về vận chuyển hàng hóa.

chở bằng đường biển và cả bằng phương tiện khác, hợp đồng đó chỉ được coi là hợp đồng vận tải đường biển theo
nghĩa trong Cơng ước này, nếu nó liên quan đến vận tải đường biển

89


- Các cam kết của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Kể từ
khi chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
từ tháng 01/2007, Việt Nam đã đưa ra những cam kết của mình trong đó có nội dung
liên quan đến: Về vận tải hàng hoá quốc tế bằng đường biển (trừ vận tải nội địa); Dịch
vụ vận tải đường thuỷ nội địa.
- Bộ luật Dân sự năm 2015: Là bộ luật chung quy định về các giao dịch dân sự
trong đó có hợp đồng vận chuyển.
- Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 đã bao quát được đầy đủ mọi khía cạnh
của hoạt động hàng hải nói chung và hợp đồng vận chuyển hàng hóa nói riêng. Bộ luật
Hàng hải năm 2015 cũng là nguồn luật được ưu tiên áp dụng trong những trường hợp
có sự khác nhau đối với các quy định giữa các nguồn luật trong cùng nội dung liên
quan đến hoạt động hàng hải ở Việt Nam. Bộ luật vừa góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích của các doanh nghiệp vừa giúp các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tự chủ
và điều chỉnh hoạt động kinh doanh phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Tập quán trong hoạt động hàng hải: Những thói quen trong cách xử xự của cả
một cộng đồng trong lĩnh vực hàng hải đã hình thành nên tập quán hàng hải. Tập quán
hàng hải là những thói quen được sử dụng lâu đời trong ngành hàng hải, có tính ổn

định, hợp pháp và được giải thích thống nhất.
6.2.3. Hợp đồng vận tải tàu chợ
6.2.3.1. Khái niệm
Hợp đồng vận tải tàu chợ là sự thỏa thuận của bên vận tải và bên thuê vận tải,
trong đó bên vận tải dành cho bên thuê vận tải một phần chiếc tàu chợ để chuyên chở
một lô hàng theo yêu cầu của bên thuê. Đồng thời bên thuê vận tải phải trả cho bên
vận tải một khoản tiền nhất định gọi là tiền cước.
Trước khi tiến hành xác lập hợp đồng vận tải tàu chợ, người thuê vận tải có thể
trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người môi giới thuê tàu, yêu cầu người vận tải chở
hàng cho mình. Nếu người vận tải đồng ý thì hai bên đã hình thành một hợp đồng vận
chuyển sơ bộ. Tuy nhiên, nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đối với nhau sẽ được
điều chỉnh bằng vận đơn đường biển (Bill of Landing). Chính vì vậy, vận tải tàu chợ
cịn có tên là vận tải hàng hóa theo vận đơn đường biển.
6.2.3.2. Vận đơn đường biển (Ocean Bill of Lading - B/L)
Theo Khoản 7 Điều 1 Công ước của Liên Hợp quốc về chuyên chở hàng hóa
bằng đường biển 1978 thì, “Vận đơn đường biển” là một chứng từ làm bằng chứng
cho một hợp đồng vận tải đường biển và cho việc người chuyên chở đã nhận hàng để
chở hoặc xếp hàng xuống tàu và bằng vận đơn này, người chuyên chở cam kết sẽ giao
90


hàng khi xuất trình nó. Một điều khoản trong chứng từ này quy định rằng lô hàng phải
được giao theo lệnh của người được ghi đích danh hoặc giao theo lệnh, hoặc giao cho
người cầm vận đơn chính là sự cam kết đó. Như vậy, vận đơn đường biển là chứng từ
chuyên chở hàng hoá bằng đường biển do người chuyên chở hoặc đại diện của người
chuyên chở phát hành cho người gửi hàng sau khi hàng hoá đã được xếp lên tàu hoặc
sau khi nhận hàng để xếp.
Vận đơn đường biển có một số vai trị sau:
- Vận đơn là biên lai hàng hóa: Vận đơn đường biển do thuyền trưởng hoặc
người được ủy quyền của hãng vận tải ký. Đây là chức năng cơ bản của vận đơn.

Trước đây thời xa xưa, các thương nhân thường đi cùng với tàu chở hàng và trực tiếp
nhận hàng giao cho người mua nên không cần vận đơn. Với sự phát triển của kinh tế
thị trường, nền sản xuất hàng hóa lớn, các thương nhân, nhà xuất khẩu thường gửi
hàng thông qua một đại lý vận chuyển hoặc gửi trực tiếp cho hãng tàu. Khi hàng đã
được xếp lên tàu thì người gửi hàng cần một chứng cứ rằng mình đã giao hàng cho nhà
vận chuyển và gửi kèm với các chứng từ khác cho người nhận hàng ở cảng đích.
- Vận đơn là bằng chứng của hợp đồng chuyên chở: Vận đơn được xem như
hợp đồng chuyên chở giữa người vận chuyển và người gửi hàng. Khi người gửi hàng
liên hệ với các công ty vận chuyển và đã thỏa thuận xong hết về giá cước và các điều
kiện vận chuyển thì hai bên sẽ ký kết hợp đồng vận tải hàng hóa trước khi hàng được
giao lên phương tiện vận chuyển. Cho đến khi hàng đã được giao lên phương tiện vận
tải thì lúc đó vận đơn như một bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở đã được
thực thi.
- Vận đơn cịn có chức năng là chứng từ sở hữu hàng hóa: Hiện nay, đây là vai
trị quan trọng nhất của vận đơn trong thương mại quốc tế. Ai là người sở hữu vận đơn
gốc là người có quyền nhận hàng và sở hữu hàng hóa. Đương nhiên lúc nhận hàng còn
cần các tờ khác như giấy giới thiệu, ủy quyền và phải được nhà vận tải phát lệnh giao
hàng. Vận đơn được quyền chuyển nhượng cho người khác thông qua việc ký hậu vận
đơn thường dùng khi hai bên thanh toán bằng L/C.
6.2.3.3. Các loại vận đơn đường biển thường gặp
Có nhiều loại vận đơn đường biển được sử dụng trong quá trình thực hiện hợp
đồng thuê tàu chợ, thơng thường có một số loại vận đơn sau:
- Vận đơn nhận hàng để xếp: Đây là loại vận đơn do người chuyên chở hoặc đại
diện của người này cấp cho người gởi hàng sau khi đã nhận hàng để chuyên chở. Vận
đơn nhận hàng để xếp là chứng cứ pháp lý xác định hàng đã được giao cho người
chuyên chở. Vận đơn này chưa ghi cụ thể tên tàu chở hàng. Do đó sau khi hàng đã xếp
91


xuống tàu ở cảng bốc thì người thuê vận tải phải đổi vận đơn nhận hàng để lấy vận

đơn đã xếp hàng lên tàu.
- Vận đơn đã xếp hàng: Đây là loại vận đơn người chuyên chở cấp cho người
thuê chở sau khi đã xếp hàng xuống tàu. Đây là loại vận đơn rất quan trọng cho nên,
nếu trước đó bên thuê vận tải đã nhận được vận đơn nhận hàng để xếp thì sau khi hàng
hóa đã được xếp lên tàu tại cảng bốc hàng, người thuê vận tải phải đổi lấy vận đơn đã
xếp hàng từ người chuyên chở hoặc đại diện của họ.
- Vận đơn sạch: Đây là loại vận đơn xác nhận về hàng hóa trong tình trạng tốt
sau khi đã được xếp lên tàu. Trong thương mại quốc tế người mua và ngân hàng thanh
toán thường yêu cầu người gửi phải xuất trình vận đơn sạch.
- Vận đơn không sạch: Đây là loại vận đơn ghi nhận về tình trạng khơng tốt của
hàng hóa sau khi đã xếp lên tàu. Vận đơn không sạch là cơ sở pháp lý để người vận tải
có thể thốt khỏi trách nhiệm của mình khi hàng hóa bị hư hỏng trong quá trình vận
tải. Trong giao dịch thương mại quốc tế, người mua và ngân hàng thanh tốn thường
khơng chấp nhận vận đơn này.
6.2.3.4. Nội dung cơ bản của vận đơn đường biển.
Nội dung của vận đơn đường biển thường do người chuyên chở đường biển
soạn thảo nên nội dung và hình thức của các vận đơn thường khơng giống nhau. Tuy
nhiên, một vận đơn đường biển thường có một số nội dung chủ yếu sau:
- Tiêu đề của vận đơn: Bill of Lading, hoặc không cần ghi tiêu đề
- Tên người chuyên chở (Shipping Company, Carrier): tên công ty hay hãng vận
tải
- Tên địa chỉ của người giao hàng (Shipper, Consignor, Sender): thường là bên
bán.
- Người nhận hàng (Consignee): Nếu là vận đơn đích danh, ơ này sẽ ghi tên và
địa chỉ của người nhận hàng, nếu là vận đơn vơ danh thì sẽ ghi "to (the) order", "to
(the) order of..."
- Bên được thông báo (Notify Party): ghi tên và địa chỉ của người nhận hàng
hoặc ngân hàng mở L/C, để thơng báo về thơng tin hàng hóa, hành trình con tàu.
- Nơi nhận hàng (Place of Receive)
- Cảng bốc hàng lên tàu (Port of Loading)

- Cảng dỡ hàng (Port of Discharge)
- Nơi giao hàng (Place of Delivery)
92


- Têu con tàu và số hiệu con tàu (Vessel and Voyage No.)
- Số lượng B/L bản chính được phát hành (Number of Original)
- Mã ký hiệu hàng hóa và số lượng (Marks and Numbers)
- Số lượng và loại kiện hàng (Number and kind of Packages)
- Mơ tả hàng hóa (Description of Goods)
- Trọng lượng tổng (Gross Weight): Trọng lượng bao gồm cả bì
- Trọng lượng tịnh (Net Weight)
- Ngày và nơi ký phát vận đơn
6.2.4. Hợp đồng vận tải tàu chuyến
6.2.4.1 Khái niệm
Hợp đồng thuê tàu chuyến là hợp đồng chun chở hàng hố bằng đường biển,
trong đó người chuyên chở cam kết sẽ chuyên chở hàng hoá từ một hay một số cảng
này đến một hay một số cảng khác giao cho người nhận còn người thuê tàu cam kết sẽ
thanh tốn cước phí theo đúng như thoả thuận của hợp đồng.
Người chuyên chở126 (Carrier) trong hợp đồng thuê tàu chuyến có thể là Chủ
tàu (Ship-owner) nhưng cũng có thể khơng phải là chủ tàu mà chỉ là người thuê tàu
của người khác để kinh doanh lấy cước. Cịn người th tàu để chun chở hàng hố
có thể là người xuất khẩu và cũng có thể là người nhập khẩu theo điều kiện và cơ sở
giao hàng được áp dụng trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trên thực tế người thuê tàu và người cho thuê tàu rất ít khi trực tiếp ký hợp
đồng với nhau. Trong thuê tàu nói chung và thuê tàu chuyến nói riêng, người ta hay
thông qua đại lý hoặc người môi giới để tiến hành việc thuê tàu. Người môi giới hay
đại lý thường là những người có chun mơn, am hiểu về thị trường thuê tàu, luật hàng
hải, tập tục của các cảng... chính vì vậy khi thay mặt cho người th hay người cho
thuê tàu để ký kết hợp đồng chuyên chở sẽ bảo đảm quyền lợi cho người uỷ thác tốt

hơn.
6.2.4.2. Nội dung cơ bản của hợp đồng thuê tàu chuyến
Hợp đồng thuê tàu chuyến là văn bản pháp lý ràng buộc nghĩa vụ của người
thuê vận tải và người vận tải. Do vậy, để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đối
với nhau, người thuê vận tải và người vận tải phải tiến hành ký kết hợp đồng vận tải.
Thông thường các bên ký kết hợp đồng vận tải ít khi gặp nhau trực tiếp mà họ thường
thông qua các đại lý hoặc người môi giới của mình. Hợp đồng thuê tàu chuyến là hợp
126

Khoản 2 Điều 1 Công ước Liên Hợp Quốc về chuyên chở hàng hóa bằng đường biển 1978.

93


đồng rất phức tạp có nhiều điều khoản khác nhau để xác định rõ trách nhiệm và quyền
lợi của các bên. Hợp đồng thuê tàu chuyến có nhiều loại, song nhìn chung nội dung
của hợp đồng bao gồm các điều khoản chủ yếu sau đây:
- Chủ thể của hợp đồng: Chủ thể của hợp đồng thuê tàu chuyến bao gồm: chủ
tàu (hoặc người chuyên chở) và người thuê tàu (người xuất khẩu hoặc người nhập
khẩu). Trong hợp đồng thuê tàu cần ghi rõ tên, địa chỉ của các bên. Những đại lý hoặc
người môi giới là người được uỷ thác để ký hợp đồng thuê tàu thì phải ghi rõ là đại lý
hoặc người ủy thác mục đích để xác định tư cách của người ký hợp đồng.
- Ðiều khoản về tàu: Tàu là công cụ để vận chuyển hàng hoá nên ở điều khoản
này người ta quy định cụ thể các đặc trưng cơ bản của con tàu mà hai bên đã thoả
thuận như: tên tàu, quốc tịch tàu, chất lượng, động cơ, trọng tải, dung tích, mớn nước,
vị trí của tàu...Trường hợp chủ tàu muốn giành được quyền thay thế tàu thì bên cạnh
tên con tàu sẽ ghi thêm: “hoặc một tàu được thay thế khác - or/and Subssitute sister
ship”. Khi phải thay thế tàu, chủ tàu phải báo trước cho người thuê biết và đảm bảo tàu
thay thế phải có những đặc điểm kỹ thuật tương tự như tàu đã quy định trong hợp
đồng.

- Ðiều khoản về thời gian tàu đến cảng xếp hàng: Là thời gian tàu phải đến cảng
xếp hàng nhận hàng để chuyên chở theo quy định. Như vậy ở điều khoản này chủ tàu
phải có trách nhiệm điều tàu đến cảng xếp hàng đúng thời gian quy định trong tư thế
sẵn sàng nhận hàng để xếp. Có nhiều cách quy định thời gian tàu đến cảng xếp hàng
như: quy định cụ thể, quy định khoảng hoặc quy định sau. Trường hợp tàu đến trước
thời gian quy định, người thuê tàu không nhất thiết phải giao hàng, nhưng nếu giao
hàng thời gian sẽ tính vào thời gian làm hàng, ngược lại tàu đến mà chưa có hàng để
giao thì số ngày tàu phải chờ đợi sẽ tính vào thời gian làm hàng. Khi ký hợp đồng, tàu
được thuê đang ở gần cảng xếp hàng, hai bên có thể thoả thuận theo các điều khoản
sau:
+ Prompt: Nghĩa là tàu sẽ đến cảng xếp hàng vài ba ngày sau khi ký hợp đồng.
+ Promptismo: Nghĩa là tàu sẽ xếp hàng ngay trong ngày ký hợp đồng.
+ Spot promt: Nghĩa là tàu sẽ xếp hàng ngay một vài giờ sau khi ký hợp đồng.
Chủ tàu phải thông báo cho người thuê tàu biết dự kiến thời gian tàu đến cảng
xếp hàng.
- Ngày huỷ hợp đồng: Ngày huỷ hợp đồng thường là ngày cuối cùng của thời
gian tàu phải đến cảng xếp hàng. Cũng có trường hợp người ta quy định ngày huỷ hợp
đồng muộn hơn một chút. Về mặt pháp lý việc tàu đến muộn là vi phạm hợp đồng,
mọi chi phí đưa tàu đến cảng xếp hàng là chủ tàu phải tự gánh chịu. Song thực tế
94


không phải tàu đến muộn là người thuê tàu huỷ hợp đồng, việc huỷ hợp đồng hay
khơng người ta cịn căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
- Ðiều khoản về hàng hoá: Khi thuê tàu chuyên chở một khối lượng hàng hố
nhất định, thì hai bên phải quy định rõ tên hàng, loại bao bì, các đặc điểm của hàng
hố. Về số lượng hàng hố, có thể th chở theo trọng lượng hoặc theo thể tích, tuỳ
đặc điểm của mặt hàng. Rất ít khi người ta quy định chính xác về số lượng hàng hoá
thuê chuyên chở, mà thường ghi kèm theo tỷ lệ hơn kém (dung sai). Khi gửi thông báo
sẵn sàng xếp hàng, thuyền trưởng sẽ tuyên bố chính thức số lượng hàng hố chun

chở. Người th tàu có trách nhiệm xếp đầy đủ tồn bộ số lượng hàng hóa đã được
thơng báo. Nếu giao và xếp lên tàu ít hơn số lượng quy định, người chuyên chở sẽ thu
tiền cước khống. Ngược lại, người chuyên chở khơng nhận hết số lượng quy định thì
người th tàu có quyền lợi địi bồi thường những chi phí liên quan đến việc tàu bỏ lại
hàng.
- Ðiều khoản về cảng bốc dỡ: Hai bên thỏa thuận tên một cảng hoặc một vài
cảng xếp hàng (Loading port). Cảng bốc dỡ quy định trong hợp đồng phải là cảng an
toàn (Safe port) đối với tàu về mặt hàng hải và chính trị xã hội. Ðể mở rộng quyền hạn
của mình về việc thay đổi cảng xếp dỡ khi cần thiết, chủ tàu thường đưa thêm câu
hoặc nơi nào gần đấy mà tàu có thể đến được một cách an tồn và ln luôn đậu nổi
vào hợp đồng. Điều này nhằm đảm bảo hợp đồng được thực hiện một cách an toàn.
Trong trường hợp chưa xác định được cảng bốc/dỡ thì có thể quy định cảng bốc
dỡ theo sự lựa chọn của người thuê tàu. Nếu quy định một số cảng bốc dỡ hoặc khu
vực cảng bốc dỡ (Range of port), thì phải quy định thêm thứ tự địa lý của cảng xếp dỡ
(port to be in Geographitical rotain) để giảm thời gian và chi phí đi lại của tàu, thứ tự
địa lý của cảng xếp phụ thuộc vào luồng tàu chạy và sự lựa chọn của chủ tàu. Số lượng
cảng bốc dỡ có ảnh hưởng trực tiếp đến mức cước thuê tàu. Vì vậy, người thuê tàu cần
cố gằng xác định rõ cảng xếp dỡ cụ thể, tránh ký kết chung chung về cảng xếp dỡ.
- Ðiều khoản về cước phí thuê tàu: Cước phí thuê tàu chuyến (Freight) do chủ
tàu và người thuê tàu thương lượng và quy định rõ trong hợp đồng thuê tàu. Đây là
một điều khoản quan trọng của hợp đồng thuê tàu chuyến. Hai bên thoả thuận những
nội dung sau:
+ Mức cước (Rate of freight):
Là tiền cước tính cho mỗi đơn vị cước (Freight unit). Ðơn vị tính cước có thể là
đơn vị trọng lượng (tấn phổ thông, tấn Anh127, tấn Mỹ128) đối với hàng nặng (weight
cargo) hay đơn vị thể tích (mét khối, cubic feet) đối với hàng cồng kềnh (meaurement
127
128

Khoảng 1.016 kg

Khoảng 907,18474 kg

95


×