Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Tài liệu Đề tài “Tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh THPT về sức khoẻ sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.48 KB, 77 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, kinh tế, xã hội Việt Nam có những bước phát
triển mới, vấn đề sức khoẻ cũng có những đặc điểm riêng, nhiều loại bệnh tật của
mô hình cũ như suy dinh dưỡng, nhiễm khuẩn vẫn tồn tại nhưng mô hình bệnh tật
mới đã xuất hiện và gia tăng một số bệnh rất nguy hiểm lây qua con đường TD và
HIV/AIDS. Với trào lưu du nhập lối sống phương Tây vào nước ta hiện nay, số
VTN QHTD trước hôn nhân, tình trạng nạo phá thai, hiện tượng lạm dụng TD trẻ
em có xu hướng tăng cao… Những vấn đề này đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ VTN.
Để giúp các em HS có thể tiếp thu lối sống lành mạnh thì việc trang bị kiến thức về
sức khoẻ giới tính, về việc tránh thai an toàn để bảo vệ mình là điều vô cùng cần
thiết.
Ở nước ta, việc GDGT đã bước đầu được triển khai cho HS thông qua nhiều
hình thức như tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, chính sách
DS/KHHGĐ, giáo dục trong nhà trường… Tuy nhiên sự tiếp cận với kiến thức về
SKSS lại có sự chênh lệch giữa những HS sống ở khu vực thành phố với nông
thôn; giữa các vùng miền; giữa HS nam và HS nữ…
Điều tra và đánh giá thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS về SKSS
là việc làm cần thiết làm cơ sở cho công tác GDGT trẻ VTN ở mức độ gia đình,
nhà trường, địa phương để có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao nhận thức
của HS về CSSKSS từ đó hình thành cho HS lối sống lành mạnh, tự chăm sóc sức
khoẻ và bảo vệ bản thân.
Việc điều tra, tìm hiểu thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS trên địa
bàn huyện Yên Khánh (Ninh Bình) đặc biệt là HS THPT chưa được tiến hành một
cách có hệ thống và hiệu quả vì vậy mà hiểu biết của VTN về vấn đề SKSS chưa
được nâng cao, các em còn hiểu biết mơ hồ và thiếu chính xác về các nội dung của
SKSS từ đó mà có thái độ và hành vi không đúng với tác phong của người HS. Đây
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học


1
Khoá luận tốt nghiệp
là vấn đề bức thiết cần được chú trọng mà trước hết là cần phải hiểu rõ thực trạng,
thái độ hành vi của HS về vấn đề này để có thể có những biện pháp tác động phù
hợp.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm
hiểu thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của học sinh THPT về sức khoẻ
sinh sản, trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình”
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
- Xuất phát từ các đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi vị thành niên.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được thực trạng nhận thức của HS về SKSS từ đó đưa ra được các
biện pháp nâng cao nhận thức của HS về vấn đề này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi của học sinh THPT về sức
khoẻ sinh sản trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
- Mô tả được một số yếu tố liên quan tới sức khoẻ và hành vi của học sinh THPT
về sức khoẻ sinh sản trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Từ đó đưa ra
những đề xuất nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về sức khoẻ sinh sản.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.
- Khảo sát tình hình nhận thức của HS THPT tại huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh
Bình về SKSS.
- Khảo sát tình hình giáo GDGT cho HS ở các trường THPT tại huyện Yên
Khánh.
- Mô tả một số yếu tố liên quan tới sức khoẻ và hành vi của HS THPT về
SKSS trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2

Sinh học
2
Khoá luận tốt nghiệp
- Đưa ra kết luận chung về thực trạng kiển thức, thái độ, hành vi của HS THPT
tại Yên Khánh từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức của
HS về SKSS.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của HS THPT
trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình về SKSS.
- Khách thể nghiên cứu: GV, phụ huynh, HS THPT trên địa bàn huyện Yên
Khánh, tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm: Các trường THPT trên địa bàn Huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
Gồm: Trường THPT Yên Khánh A
Trường THPT Yên Khánh B
Trường THPT Vũ Duy Thanh
- Thời gian: Từ tháng 01/2013 đến tháng 05/2013
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các văn bản Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục và
Đào tạo về GDGT và CSSKSS.
- Nghiên cứu các công trình khoa học đề cập đến SKSS làm cơ sở đề xuất
phương pháp tìm hiểu nhận thức, thái độ, hành vi của HS THPT trên địa bàn huyện
Yên Khánh.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến SKSS làm cơ sở cho việc thiết kế câu
hỏi phiếu điều tra tìm hiểu nhận thức, thái độ, hành vi của HS THPT trên địa bàn
huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
6.2. Phương pháp điều tra
- Điều tra bằng phiếu câu hỏi tự điền.

Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
3
Khoá luận tốt nghiệp
- Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với GV, phụ huynh, HS…
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến các chuyên gia, thầy cô giáo
có kinh nghiệm về SKSS.
6.3. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
- Thống kê kết quả thu được từ phiếu điều tra, khảo sát, phỏng vấn.
- Xử lí số liệu thống kê bằng phần mềm MS. Excel.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
4
Khoá luận tốt nghiệp
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình ngiên cứu về SKSS VTN trên thế giới
• Kiến thức TD, SKSS, QHTD lần đầu, TD trước kết hôn
Nghiên cứu ở các nước đang phát triển cho thấy VTN thiếu hụt kiến thức
TD, SKSS. Nguồn thông tin về TD, SKSS chủ yếu với VTN là từ sách báo, phim
ảnh, bạn đồng lứa. Giáo dục TD, SKSS trong nhà trường và giao tiếp bố mẹ với
VTN về TD, SKSS rất hạn chế.
Số liệu điều tra quốc gia về VTN Mỹ (2006) cho thấy 42% VTN nhóm 13-15
tuổi và 69% nhóm 16 – 18 tuổi đã QHTD. Kết nối với nhà trường là yếu tố giảm
QHTD ở VTN và yếu tố liên quan tăng QHTD ở VTN là sử dụng chất gây nghiện,
phơi nhiễm với bạo lực.
Nghiên cứu ở Thổ Nhĩ Kì (2008) thấy rằng tuổi QHTD lần đầu là 16 tuổi ở

nam và 17 tuổi ở nữ VTN (tương tự với tuổi trung bình QHTD lần đầu của VTN
một số nước Châu Âu là 17 tuổi) và tỷ lệ VTN có QHTD có xu hướng tăng lên. Ở
Thụy Điển, xã hội cởi mở về TD và kiến thức TD, SKSS được giảng dạy trong
trường phổ thông. Tuổi được đồng ý QHTD là 15 tuổi, nhiều dịch vụ CSSKSS là
miễn phí.
Điều tra quốc gia ở Croatia (2007) với học sinh phổ thông 15-19 tuổi cho
thấy 28% nam, 17% nữ có QHTD trước 16 tuổi. QHTD sớm ở nam có liên quan
với đã từng sử dụng chất gây nghiện, đánh nhau, trêu chọc bạn bè.
Ở một số nước Châu Phi VTN có QHTD sớm và quan hệ nhiều bạn tình là
phổ biến, ảnh hưởng của bạn đồng lứa có vai trò quan trọng tới QHTD ở VTN.
Nghiên cứu ở Nigeria (2006) thấy rằng 19% nam và 6% nữ VTN học sinh phổ
thông trung học đã QHTD. Tuổi trung bình QHTD lần đầu ở nam là 15,7 tuổi và ở
nữ là 16,1 tuổi. Khoảng 1/4 VTN có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất và
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
5
Khoá luận tốt nghiệp
25% VTN QHTD lần đầu là không tự nguyện. Tuổi VTN càng thấp càng thiếu kiến
thức về TD, SKSS. Nghiên cứu với nữ VTN 12-19 tuổi ở một số nước châu Phi
(2007) thấy tỷ lệ QHTD lần đầu không mong muốn là 38% ở Malawi, 30% ở
Ghana, 23% ở Uganda và 15% ở Burkina Faso. Nghiên cứu của Ott (2010) thấy
rằng nam VTN chủ động hơn nữ về QHTD, gợi ý các chương trình can thiệp về
TD, SKSS tăng cường hơn với nam VTN.
Nghiên cứu ở một số nước Châu Á, Châu Phi (2002) thấy tỷ lệ QHTD trước
hôn nhân cao: 23% (Triều tiên) 49,5% (Philippines), 81,4% (Thái Lan) và 14,8%
(Việt Nam), 71% (Ni-Giê-Ria), phản ánh nhu cầu từ vấn về TD an toàn và dịch vụ
CSSKSS thích hợp cho thanh niên và VTN ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ
QHTD trong 3 tháng trước điều tra ở VTN học sinh THPT Trung Quốc (2009) là
4,5% và 1,8%. Nghiên cứu ở Iran (2006) với VTN 15-18 tuổi thấy 28% VTN đã

QHTD, yếu tố liên quan với QHTD gồm tuổi cao hơn, thái độ đồng tình với QHTD
trước kết hôn, sử dụng rượu bia.
• Có thai, nạo phá thai
Nghiên cứu ở Châu Phi (2001) thấy có thai VTN liên quan tới tần suất
QHTD, không sẵn có BPTT, QHTD lần đầu bị ép buộc,không thảo luận với bạn
trai về TD. Nhiều VTN không biết có thể có thai trong QHTD lần đầu, VTN nhận
thức được về BPTT nhưng tỷ lệ QHTD không an toàn vẫn cao do không chủ động
BPTT và bạn tình từ chối sử dụng. Một số nghiên cứu ở các nước đang phát triển
(2011) thấy rằng VTN có thai thường nạo phá thai tại các cơ sở y tế tư nhân mặc dù
chất lượng dịch vụ kém.
Ở khu vực Tiểu sa mạc Sahara Châu Phi, VTN QHTD sớm, có thai, nạo phá
thai, nhiễm HIV gia tăng là vấn đề được quan tâm. Nghiên cứu (2001) cho thấy
VTN nữ thường được coi là “con mồi” khai thác TD của nam giới nhiều tuổi hơn
và đã kết hôn. Nghiên cứu tại Kenia (2003), so sánh nhóm VTN có thai lần đầu và
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
6
Khoá luận tốt nghiệp
có thai lặp lại thấy trên 50% số VTN mang thai là khi chưa kết hôn, nhóm VTN lần
đầu có thai có xu hướng là có thai không mong muốn.
Nghiên cứu ở Mỹ (2005) với VTN có thai để tìm hiểu về QHTD và các yếu
tố liên quan thấy rằng 2/3 VTN hài lòng vì không có thai, số còn lại là thất vọng và
hầu hết cho rằng bạn tình của họ thất vọng hơn. Nhóm VTN có thai sớm, nạo phá
thai sớm bị nhiều ảnh hưởng tiêu cực hơn các nhóm khác. Nữ VTN thường không
muốn có thai nhưng một bộ phận nữ VTN thụ động, không có kĩ năng, động lực về
tránh có thai ngoài ý muốn. Nghiên cứu về nạo phá thai tuổi VTN ở Thụy Điển
(2005) thấy VTN đồng tình với nạo phá thai, nhưng thiếu kiến thức về nạo phá thai.
VTN ngại sử dụng BPTT và QHTD khi sử dụng bia rượu là yếu tố làm tăng nguy
cơ có thai. Nghiên cứu ở Hy Lạp (2004) với VTN nạo phá thai tại các cơ sở y tế

thấy rằng 65% VTN có thai là ở đô thị, 73% là chưa kết hôn, 62% là QHTD lần
đầu trước 15 tuổi, BPTT được sử dụng phổ biến là xuất tinh ngoài (49%) và BCS
(28,5%). Quyết định nạo phá thai từ nữ (65%) hoặc cả hai (73%). Bố mẹ ít khi biết
được VTN có thai hoặc nạo phá thai. Nghiên cứu ở Đan Mạch (2009) thấy 43%
VTN biết đúng thời điểm dễ thụ thai nhất trong chu kì kinh nguyệt, 64% VTN biết
đúng tuổi thai có thể nạo, hút và nữ có kiến thức đúng cao hơn nam.
Nghiên cứu của Brown (2005) cho thấy có thai và tai biến liên quan mang
thai là nguyên nhân hàng đầu về tử vong và bệnh tật liên quan trong phụ nữ trẻ ở
các nước đang phát triển. Một số nghiên cứu ở Ghana, Kenya, Zimbabue,
Bangladesh, Ai Cập, Indonesia, Philippines, Bolivia, Brazil, Columbia, Mexico,
Pháp, Nhật bản và Mỹ thấy hậu quả mang thai ở VTN ảnh hưởng đến học vấn, tình
trạng kinh tế xã hội, sức khoẻ cho mẹ và con.
• Sử dụng biện pháp tránh thai
Vialard và cộng sự (2005), Aruda (2011) thấy rằng hầu hết VTN không chủ
động tìm các BPTT trừ khi họ lo lắng về sự mang thai hoặc đã có QHTD một số
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
7
Khoá luận tốt nghiệp
lần mà chưa dùng BPTT. Sử dụng BPTT hay không có thể do bạn tình, sợ có thai,
hay do cha mẹ muốn bảo vệ con gái khỏi có thai, hoặc để điều hoà kinh nguyệt.
VTN sử dụng BCS không thường xuyên trong QHTD với bạn tình thường xuyên là
do niềm tin không cần sử dụng, cam kết tương lai, có quan niệm chung, phong tục
tập quán, mức độ khoái cảm và tình yêu. Nữ VTN có kiến thức tốt hơn nam về
BCS, ít ảnh hưởng bạn đồng lứa hơn, nhận thức nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn,
tự tin hơn. Nhưng nữ lại ít quyết định sử dụng BCS hơn trong QHTD do nam giới
hoặc động lực trong mối quan hệ của họ. Nữ VTN có QHTD trước tuổi 17 ít sử
BPTT hơn. VTN có QHTD không sử dụng BPTT thường là xuất thân từ các gia
đình nhiều thành viên, muốn có con, và xuất thân từ tầng lớp xã hội thấp hơn.

Nghiên cứu ở Mỹ (2005) thấy bạo hành bằng lời nói có liên quan đến không sử
dụng BCS trong QHTD gần nhất ở VTN và bạo hành thể chất có liên quan đến
mang thai.
Một số nghiên cứu ở Goa-Tê-Ma-La, Ni-Giê-Ria, Jamaica, Triều Tiên,
Philippines, Thái Lan, và Việt Nam thấy tỷ lệ cao thanh thiếu niên biết về nguy cơ
QHTD không an toàn, nhưng tỷ lệ sử dụng BCS vẫn thấp, tỷ lệ VTN Nepal (2010)
sử dụng BCS chỉ chiếm ½.
• Bệnh LTQĐTD và HIV
Nghiên cứu ở VTN một số nước châu Á, Thái Bình Dương (2007) cho thấy
13% nữ và 4% nam đã từng mắc bệnh LTQĐTD trong đó 33% có QHTD trước 15
tuổi và 55% có nhiều bạn tình. Yếu tố liên quan với mắc bệnh LTQĐTD là nữ, có
nhiều bạn tình, đã từng QHTD để nhận tiền hay quà tặng. Nghiên cứu khác cũng
thấy rằng có nhiều bạn tình liên quan đến nguy cơ bệnh LTQĐTD ở VTN. Một số
tác giả đề cập rằng quan tâm đến SKSS VTN là vấn đề cấp thiết ở Châu Á và các
nước đang phát triển vì các nguy cơ liên quan mang thai, nạo phá thai, sức khoẻ và
lây nhiễm HIV/AIDS ở VTN.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
8
Khoá luận tốt nghiệp
Nghiên cứu của Dahlback (2003) và Owolabi (2005) ở một số nước Châu
Phi thấy VTN thiếu kiến thức về nguy cơ bệnh lây truyền qua QHTD bao gồm cả
HIV/AIDS. Nghiên cứu với VTN đã QHTD ở Uganda (2006) thấy tỷ lệ nữ mắc
STIs là 4,5% bị Lậu, 8% trùng roi, và 4% bị giang mai, 15,2% huyết thanh dương
tính HIV. Tỷ lệ tương ứng ở nam VTN là 4,7%, 0%, 2,8% , và 5,8%. Báo cáo của
Berlan và cộng sự (2010) cho thấy một số tiến bộ về Vắc-xin và kĩ thuật chẩn đoán
nhanh một số bệnh LTQĐTD giúp tiếp cận sớm phòng tránh một số bệnh
LTQĐTD ở VTN. Ancheta (2005) đề cập rằng để giảm nguy cơ bệnh LTQĐTD ở
VTN cần có tiếp cận kết hợp các vấn đề về sinh học, nhận thức, tâm lý, hành vi, và

xã hội.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
• Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam nói chung
Mặc dù SKSS VTN là chủ đề mới được quan tâm ở nước ta song cũng đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này.
“Báo cáo kết quả cuộc khảo sát tìm hiểu kiến thức, thái độ và thực hành về
sức khoẻ sinh sản tuổi vị thành niên” do Khuất Thu Hồng thực hiện theo yêu cầu
của UNFPA và sở Giáo dục Khánh Hoà cũng nằm trong số đó. Đây là một nghiên
cứu khá hoàn chỉnh. Cuộc khảo sát được thực hiện tại 6 trường phổ thông cấp II và
cấp III. Đối tượng là học sinh lớp 8 và 11 (360 em), 350 cha mẹ của học sinh lớp 8
và 11, 60 giáo viên bộ môn đã từng tham gia giảng dạy GDGT và SKSS và đại diện
ban giám hiệu, GVCN và các GV phụ trách đoàn đội. Kết quả thu được đã cung
cấp những thông tin cơ bản về kiến thức, thái độ, thực trạng và hành vị liên quan
đến SKSS của một bộ phận HS, phụ huynh và của GV ở Khánh Hoà.
Tháng 5/1995, John Chalker đã thực hiện nghiên cứu về “Kiến thức, thái độ
và hành vi của thanh thiếu niên về DS-KHHGĐ, phòng chống AIDS và các mô
hình câu lạc bộ thanh niên” tại Nghệ An và Hà Nội. Mẫu nghiên cứu gồm 271
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
9
Khoá luận tốt nghiệp
người, trong đó độ tuổi từ 15-21 chiếm 27,3%. Kết quả cho thấy hầu hết thanh
thiếu niên tán thành mô hình gia đình 1-2 con. Tuy nhiên, có sự mâu thuẫn giữa
kiến thức và hành vi. Hành vi thực hiện các BPTT của thanh thiếu niên còn hạn
chế. Quan niệm thích con trai vẫn tồn tại trong gần đại đa số mẫu. 80% người được
hỏi không biết gì về tình trạng HIV/AIDS ở khu vực mình sống, gồm cả những
người đang sống ở Hà Nội. Hai loại mô hình câu lạc bộ “ thanh niên chưa lập gia
đình” và “các cặp vợ chồng” được nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ.
Đề tài nghiên cứu về: “Sức khoẻ vị thành niên ở Việt Nam” do chương trình

hợp tác y tế Việt Nam - Thuỵ Điển và trường Đại học Y Thái Bình thực hiện đã
tổng kết kết quả của cuộc điều tra sức khoẻ VTN tại 5 tỉnh (Hà Nội, Thái Bình,
Bình Định, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh), có so sánh với kết quả của một số
nghiên cứu khác. Nội dung chính chủ yếu của cuốn sách này cũng tập trung vào
thực trạng, nhận thức, thái độ và hành vi về SKSS VTN ở Việt Nam. Mẫu nghiên
cứu định lượng là 4675 vị thành niên (trong đó có 51,2% nam và 48,8% nữ). Có
184 cuộc phỏng vấn sâu và 72 cuộc thảo luận nhóm, tiến hành trên 22 xã/phường
thuộc 9 quận/huyện của 5 tỉnh/thành phố. Báo cáo này cung cấp một số lượng
thông tin tương đối lớn về kiến thức, thái độ, hành vi và thực trạng SKSS của VTN
và bên cạnh đó, báo cáo còn đưa ra định hướng cho việc soạn thảo chiến lược tăng
cường sức khoẻ VTN giai đoạn 2003-2010.
Một đề tài khác của Lê Xuân Hoàn về “Nhận thức và hành vi của thanh
thiếu niên nông thôn kiếm sống theo thời vụ ở các đô thị về nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS”. Mẫu: 450 thanh thiếu niên từ nông thôn ra Hà Nội, Đà Nẵng và tp. Hồ
Chí Minh kiếm sống. Nghiên cứu đã phát hiện 5% thanh thiếu niên chưa biết gì về
HIV/AIDS. Hầu hết thanh thiếu niên biết hai con đường lây nhiễm qua đường TD
và tiêm chích ma tuý. Đa số thanh thiếu niên ra thành thị kiếm sống theo thời vụ đã
có nhận thức về sự nguy hiểm của HIV/AIDS, những quy chế lây nhiễm, các
phương pháp chủ yếu phòng tránh HIV/AIDS.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
10
Khoá luận tốt nghiệp
Hay như một nghiên cứu khác của Phan Thục Anh và Daniel Goodkind về:
“Hiểu biết, thái độ và thực hành liên quan đến HIV/AIDS trong thanh niên Hà Nội”
cũng thuộc nội dung nghiên cứu trên. Mẫu nghiên cứu là thanh niên ở lứa tuổi từ
18-25 ở Hà Nội. Nghiên cứu được thực hiện tại 3 địa điểm: trường đại học Công
Đoàn, một doanh trại quân đội và một xã ngoại thành Hà Nội. Kết quả nghiên cứu
cho thấy thanh niên ở Hà Nội có hiểu biết khá tốt về HIV/AIDS. Tỷ lệ những người

chưa có gia đình có QHTD thấp. Mặc dù, biện pháp BCS được mọi người lựa chọn
nhiều hơn cả nhưng đáng chú ý là chỉ có 80,6% cho là phải sử dụng BCS khi quan
hệ với gái bán dâm. Vẫn còn một tỷ lệ nhỏ (10%) cho rằng nguy cơ nhiễm HIV từ
ôm, hôn nhau, ăn chung bát đĩa, bắt tay, dùng chung nhà vệ sinh.
Một nghiên cứu nữa về “Khảo sát đánh giá về kiến thức, thái độ và thực
hành của thanh thiếu niên Hải Phòng với các vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh
sản” của Trần Thị Trung Chiến và cộng sự. Nghiên cứu này được tiến hành tại 20
xã/phường thuộc Hải Phòng với đối tượng thanh thiếu niên từ 15-24 tuổi. Theo kết
quả nghiên cứu, nhìn chung, nhận thức của thanh thiếu niên vẫn chưa đầy đủ, vẫn
còn thiếu hụt những kiến thức về hiểu biết về sinh lý, BPTT, QHTD, các
LTQĐTD.
Nghiên cứu của Barbara S.Mensch, Đặng Nguyên Anh, Wesley H.Clark: “Vị
thành niên và biến đổi xã hội ở Việt Nam”, được tiến hành tại 19 xã và 5 phường
của 16 huyện thuộc 6 tỉnh (Lai Châu, Quảng Ninh, Hà Tây, Quảng Nam- Đà Nẵng,
tp. Hồ Chí Minh và Kiên Giang). Nội dung nghiên cứu này tuy có hơi khác so với
những nghiên cứu trên nhưng chủ đề chính mà đề tài này cung cấp là: giáo dục học
đường, sử dụng thời gian và hoạt động sống; việc làm và thái độ xã hội; những vấn
đề di cư của VTN; dậy thì và quan hệ khác giới, sử dụng thuốc tránh thai và kiểm
soát sinh đẻ; hôn nhân và sinh đẻ; vai trò bình đẳng giới; kiến thức sức khoẻ, SKSS
của VTN.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
11
Khoá luận tốt nghiệp
Nhìn chung, chủ đề chung xuyên suốt các tài liệu này là về vấn đề thực trạng
nhận thức, thái độ, hành vi của vị thành niên đối với sức khoẻ sinh sản. Những nội
dung thường được đề cập đến là tình bạn, tình yêu, TD, QHTD, sử dụng các BPTT,
có thai sớm và nạo hút thai trong lứa tuổi VTN; nhận thức về HIV/AIDS. Bên cạnh
đó, nội dung về các tệ nạn xã hội cũng được nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu: VTN&TN độ tuổi từ 15-24, đa số họ là học sinh
THPT, với tỷ lệ nam, nữ gần tương đương. Bên cạnh đó, đối tượng VTN đã thôi
học, có vợ/chồng, trẻ em ngoài nhà trường chiếm tỷ lệ thấp. Ngoài ra thì người lớn
tuổi cũng được lựa chọn tham gia nghiên cứu bao gồm các giáo viên phổ thông và
cha mẹ VTN.
Về địa bàn nghiên cứu: các đề tài tập trung chủ yếu vào khu vực đô thị,
những nơi thuận lợi về giao thông và có đông dân cư.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng chủ yếu là phương pháp điều tra xã hội
học: thu thập thông tin định lượng qua các bảng hỏi, thu thập thông tin định tính
qua các bảng phỏng vấn sâu, hội thảo, thảo luận nhóm. Xử lý số liệu bằng phần
mềm SPSS và EPI- INFO.
Tóm lại, các nghiên cứu trên cung cấp cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh
về SKSS VTN, các số liệu trong các cuộc nghiên cứu trên có tính chất thống kê,
mô tả và các giải pháp tình thế.
• Tình hình nghiên cứu ở Ninh Bình và huyện Yên khánh nói riêng
Tại Ninh Bình hiện chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nhận thức, thái độ
hành vi của VTN về SKSS:
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài Đức, Anke Van Dam, Vũ Thu Hà, Phan
Thanh Tuyền về “Kiến thức, thái độ, hành vi của VTN liên quan đến SKSS và TD
tại Hà Nội và Ninh Bình” được thực hiện năm 1999 tại Hà Nội và Ninh Bình. Đối
tượng được nghiên cứu là VTN ở độ tuổi 15-19. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
12
Khoá luận tốt nghiệp
nguồn cung cấp thông tin về SKSS cho VTN từ trường học. Tuy nhiên, lượng
thông tin còn rất nghèo nàn và thiếu chi tiết. Các GV rất ngại khi đề cập đến vấn đề
này. Thông tin đại chúng là cung cấp nhiều nhất thông tin về lĩnh vực này. Các
BPTT thường được biết đến nhiều nhất là vòng và BCS. Đa số không chấp nhận

QHTD trước hôn nhân nhưng tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định có QHTD
trước hôn nhân hay không. Các em đều cho rằng cần được giáo dục về giới. Cha
mẹ và thầy cô giáo là những nhà GDTD thích hợp nhất…
Chưa có bất cứ một nghiên cứu cụ thể nào về đánh giá thực trạng hiểu biết,
thía độ, hành vi của VTN liên quan đến SKSS tại bất kì địa phương nào của tỉnh
Ninh Bình nói riêng
1.2. Cơ sở lí luận của đề tài
1.2.1. Đặc điểm tâm, sinh lí của HS THPT
Tuổi đầu thanh niên (14 - 18 tuổi) là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt
thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể của người
lớn. Đối với các em, đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành.
Sự khác biệt cơ bản của lứa tuổi VTN với các em ở lứa tuổi khác là sự phát triển
mạnh mẽ, thiếu cân đối giữa các mặt: cơ thể, trí tuệ, tâm sinh lý [8].
Sự biến đổi về tâm sinh lí làm cho lứa tuổi VTN vừa là “trẻ con”, vừa là
“người lớn” là sự phát triển đối lập nhưng thống nhất. Do tác động mạnh của
hoocmon, cơ thể phát triển mạnh, nhanh nhưng chưa được hài hoà giữa các cơ
quan, bộ phận.
Cơ tim phát triển đột xuất, tim hoạt động mạnh, nhanh nhưng vẫn có thể
thiếu máu cục bộ gây nên chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi. Sự hưng phấn của vỏ não
nhiều khi quá mức không được ức chế gây cho các em không tự làm chủ được
mình, biểu hiện ở tính cách bất thường khi thì trầm ngâm khi thì cảm xúc mãnh liệt
(ở nữ), hoặc có phản ứng vô cớ, có hành vi bạo lực (ở nam). Các em còn trẻ con
hồn nhiên nhưng đã bắt đầu có ý thức về “cái tôi”, muốn tự khẳng định mình,
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
13
Khoá luận tốt nghiệp
khẳng định nhân cách của mình. Đây cũng là thời kỳ các em hình thành cách sống,
cách nghĩ. Các em nghĩ mình đã lớn và mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách,

phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính tự do cho các em. Đặc biệt ở lứa tuổi này các
em rất xem trọng tình bạn, các em thích giao tiếp kết bạn với nhau, tôn trọng lẫn
nhau, tin tưởng, quan hệ bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau.
Hệ xương phát triển hơn hệ cơ, các em có dáng vẻ cao, gầy, thiếu cân đối, có
vẻ vụng về, không khéo léo khi làm việc.
Một bước ngoặt quan trọng ở lứa tuổi VTN là giai đoạn dậy thì, khi tuyến
sinh dục trên cơ thể có những biến đổi:
Ở nam: hoocmon testosteron tăng cao làm tăng kích thước bộ phận sinh dục,
xuất hiện lông mu, giọng nói thay đổi, xuất tinh lần đầu tiên, mọc lông nách, mọc
râu và tăng chiều cao.
Ở nữ: lượng hoocmon estrogen tăng cao kích thích ngực nở, lông mu xuất
hiện, mọc lông nách, tăng chiều cao, tuyến sữa hình thành, xuất hiện kiểu thanh
quản nữ giới với giọng cao, kỳ kinh đầu tiên xuất hiện.
Sự thay đổi của cơ thể và tâm sinh lý của VTN đã làm các em chú ý hơn về
cơ thể mình cho nên luôn làm đẹp để gây chú ý ở người khác giới, các em đã bắt
đầu thích chơi với bạn khác giới. Có thể phân thời kỳ này ra làm 3 giai đoạn:
12 tuổi: các em bắt đầu tìm hiểu về TD ở trong sách báo, các em bắt đầu để ý
đến bạn khác giới.
13 - 15 tuổi: ở lứa tuổi này đã bắt đầu xuất hiện tình cảm yêu đương nhưng
thường là yêu đơn phương, chúng thích nghe những chuyện tình lãng mạn, hay
buồn vu vơ, ở một số em trai xuất hiện hiện tượng thủ dâm. Ở tuổi này, cả hai giới
đã quan tâm đến chuyện tránh thai, phá thai.
15 - 18 tuổi: Đã xuất hiện những mối tình đầu và những giao tiếp TD. Chúng
củng cố kiến thức qua bố mẹ hoặc qua sách vở. Nhu cầu hiểu biết những cái mới
của đời sống con người và của bản thân rất lớn, các bậc cha mẹ nên tìm những cơ
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
14
Khoá luận tốt nghiệp

hội thuận lợi, chủ động trò chuyện với con mình, tạo niềm tin và sự cảm thông với
chúng để giúp chúng tránh được việc hoạt động TD bừa bãi, chuẩn bị cho một cuộc
sống TD lành mạnh khi bước vào cuộc sống hôn nhân.
Ở lứa tuổi này, hoàn cảnh xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tình
cảm của các em.
Tóm lại, thời kì VTN được đặc trưng bởi sự phát triển rất nhanh cả về trí tuệ
và thể lực, thời kì này không dài nhưng lại có nhiều biến động về tâm lí và sinh lí.
Các hiện tượng tâm lí trong giai đoạn này có đặc điểm biến động nhanh, mạnh, có
tình trạng mất cân đối của hiện tượng tâm lí. Tuổi VTN thường có những hành vi,
những thử nghiệm biểu hiện sự hào phóng, có khi có nguy cơ gây hại cho bản thân
và xã hội. Đây cũng là lứa tuổi đang phát triển hình thành nhân cách, nhiều yếu tố
tâm lí đang được hình thành vững chắc, quan điểm sống và thế giới quan chưa rõ
ràng đặc trưng cơ bản là sự mâu thuẫn trong nội dung tâm lí giữa một bên là tính
chất quá độ không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn với một bên là
ý thức về bản thân phát triển mạnh mẽ. Mặt khác, ở độ tuổi này VTN chưa được
trang bị đầy đủ kiến thức về SKSS, làm mẹ an toàn nên có nhiều tai biến sản khoa
trong quá trình sinh đẻ vì vậy nếu mang thai và sinh con ở độ tuổi này sẽ gây ảnh
hưởng không tốt đến quá trình phát triển theo quy luật tự nhiên và ảnh hưởng rất
lớn đến sức khoẻ của người mẹ. Từ đó quá trình mang thai sẽ có ảnh hưởng khó
lường cho thai nhi, có nhiều tai biến trong quá trình mang thai và khi sinh. Người
mẹ thiếu kiến thức về chăm sóc và nuôi dạy con làm ảnh hưởng đến chất lượng dân
số. Vì vậy cần có sự có sự nỗ lực của bản thân VTN, sự quan tâm, định hướng của
nhà trường, gia đình và xã hội để VTN phát triển nhân cách đúng hướng, tránh các
sai lệch không đáng có. Cần có giáo dục về giới tính, về SKSS, về hôn nhân gia
đình, về tránh thai an toàn… tạo điều kiện cho các em vượt qua giai đoạn khủng
hoảng của tuổi dậy thì để trở thành người lớn với đúng nghĩa của nó.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
15

Khoá luận tốt nghiệp
1.2.2. Một số khái niệm về sức khỏe sinh sản
• Khái niệm SKSS
“SKSS là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả
những gì liên quan tới hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản chứ không phải
là không có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó. Điều này cũng hàm ý là tất cả mọi
người, kể cả nam và nữ đều có được cuộc sống TD thoả mãn và an toàn; họ có khả
năng sinh sản và tự do quyết định khi nào sinh và khoảng cách các lần sinh; có
quyền được tiếp cận thông tin và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, các biện
pháp kế hoạch hoá gia đình an toàn, hiệu quả và chấp nhận được theo sự lựa chọn
của mình, cũng như có khả năng lựa chọn các biện pháp phá thai phù hợp không
trái với pháp luật, nhằm bảo đảm cho phụ nữ trải qua quá trình thai nghén và sinh
đẻ an toàn, tạo cho các cặp vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh được đứa con khoẻ
mạnh.” [6].
Nói tóm lại SKSS bao gồm:
- Thể chất: Bộ máy sinh sản phải được bình thường và khoẻ mạnh về hoạt
động TD và chức năng sinh sản.
- Tinh thần: Có sự thoải mái, bằng lòng, không lo lắng hay băn khoăn về bộ
máy sinh sản.
- Xã hội: Được xã hội tôn trọng và đối xử công bằng về các quyền sinh sản
và TD.
Vì vậy SKSS cũng hàm ý là mọi người đều có thể:
- Có cuộc sống TD thoải mái và an toàn.
- Tự do quyết định sinh con.
- Tiếp cận thông tin và các biện pháp KHHGĐ an toàn, hiệu quả.
- Tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, sinh đẻ an toàn.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
16

Khoá luận tốt nghiệp
• Nội dung của SKSS
Bản kế hoạch hành động ICPD sau Cairo của Quỹ dân số Liên hiệp quốc mô
tả SKSS với sáu nội dung chính có liên quan mật thiết với nhau bao gồm:
- Làm mẹ an toàn
- Kế hoạch hoá gia đình
- Sức khoẻ TD
- Nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh LTQĐTD
- Phá thai
- Vô sinh
Tại Việt Nam, SKSS được chi tiết hoá thành 10 nội dung trong chiến lược
quốc gia về SKSS 2001-2010 như sau:
* Làm mẹ an toàn
Làm mẹ an toàn là những biện pháp được áp dụng để đảm bảo sự an toàn cho
cả người mẹ và thai nhi (cũng như trẻ sơ sinh); mục đích là giảm tỉ lệ tử vong và
bệnh tật ngay từ khi người phụ nữ mang thai, trong khi sinh và suốt trong thời kì
hậu sản (42 ngày sau đẻ). Chìa khoá của làm mẹ an toàn là KHHGĐ, chăm sóc
người mẹ trước, trong và sau khi sinh.
* Kế hoạch hoá gia đình
- Sử dụng tốt và rộng rãi và đa dạng các BPTT.
- Mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con dù trai hay gái.
- Khoảng cách sinh giữa các lần sinh con từ 3 đến 5 năm.
- Tuổi đẻ lần đầu là 22, lần cuối là dưới 35. Không sinh con đầu lòng trước 20
tuổi và con cuối cùng sau 35 tuổi.
- Vai trò và trách nhiệm của nam giới trong KHHGĐ.
- Lợi ích của việc thực hiện tốt công tác KHHGĐ khống chế sự gia tăng dân số,
giảm tai biến sản khoa, đảm bảo sức khoẻ phụ nữ, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học

17
Khoá luận tốt nghiệp
* Phá thai an toàn
- Phá thai an toàn là thực hiện cuộc phá thai thật tốt để đảm bảo sức khoẻ cho
người phụ nữ.
- Quan trọng nhất là áp dụng rộng rãi các BPTT để không có thai ngoài ý
muốn.
- Chỉ phá thai khi chắc chắn là có thai bằng xét nghiệm thai sớm hoặc siêu âm
và chỉ thực hiện phá thai ở các cơ sở y tế được phép phá thai và do những cán bộ đã
được đào tạo chu đáo về các phương pháp phá thai.
- Phải làm tốt công tác tư vấn trước và sau phá thai.
- Không phá thai chui.
- Thực hiện tốt những lời dặn dò của thầy thuốc sau phá thai về sử dụng thuốc,
vệ sinh, sinh hoạt TD…
* Giáo dục SKSS cho VTN
- Giáo dục sinh lí kinh nguyệt.
- Giáo dục sinh lí thụ thai và các BPTT. Những điều kiện và các dấu hiệu có
thai.
- Giáo dục vệ sinh cho VTN nữ, vệ sinh kinh nguyệt.
- Giáo dục tình bạn, tình yêu lành mạnh; Những nguy cơ do thai nghén; Nguy
cơ có thai ngoài ý muốn.
- Giáo dục về sức khoẻ TD và TD an toàn nhằm giảm gánh nặng dân số, bệnh
nhiễm khuẩn đường sinh sản kể cả nhiễm HIV/AIDS cũng như lợi ích của việc sử
dụng BCS.
* Phòng các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản
- Vệ sinh thân thể hàng ngày ngay từ bé gái cho đến người cao tuổi.
- Vệ sinh kinh nguyệt.
- Vệ sinh thai nghén.
- Vệ sinh sinh hoạt TD.
Đinh Thị Thanh Nga- D

2
Sinh học
18
Khoá luận tốt nghiệp
- Vệ sinh sau đẻ, sẩy, phá thai.
- Phòng và điều trị sớm những bệnh viêm nhiễm đường sinh sản cho cả nam và
nữ.
* Phòng các bệnh LTQĐTD
- Cung cấp kiến thức chung, đặc biệt là các đường lây truyền của các bệnh
LTQĐTD (bao gồm cả HIV/AIDS) và hậu quả của các bệnh LTQĐTD.
- Không dùng chung các dụng cụ bị nhiễm dịch cơ thể của người khác.
- Sống thuỷ chung một vợ một chồng.
- Sử dụng rộng rãi và đúng cách BCS.
* Phòng ung thư vú và ung thư sinh dục
- Tự khám vú hàng ngày, nếu đau vú hoặc tự sờ thấy hay nghi ngờ có khối u
phải đi khám ngay.
- Ít nhất 6 tháng nên đi khám phụ khoa một lần, bao gồm cả khám vú. Xét
nghiệm tế bào dịch âm đạo, cổ tử cung để phát hiện ung thư cổ tử cung. Khám phụ
khoa để phát hiện các khối u sinh dục.
- Tránh và hạn chế nhiễm khuẩn đường sinh sản.
- Phải điều trị sớm và tích cực những viêm nhiễm đường sinh sản.
- Khám và chẩn đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt.
* Vô sinh
- Tránh những nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở cả nam lẫn nữ, không để bị
nhiễm khuẩn đường tiết niệu sinh dục.
- Vệ sinh cơ quan sinh dục sạch sẽ, đúng cách.
- Phòng và điều trị sớm các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và LTQĐTD.
- Điều trị sớm những trường hợp bị rong kinh, nhất là ở những VTN nữ.
* Sức khoẻ về TD và giáo dục về TD
- Giáo dục về sức khoẻ TD, TD an toàn và lành mạnh đặc biệt trong nhóm tuổi

VTN.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
19
Khoá luận tốt nghiệp
- Tăng cường vai trò và trách nhiệm của nam giới trong chăm sóc SKSS, đặc
biệt vấn đề chăm sóc con cái và cùng tham gia trong KHHGĐ.
- Quan tâm chăm sóc sức khoẻ TD cho người cao tuổi cả nam và nữ vì tuổi thọ
hiện nay cao, số người cao tuổi ngày càng tăng.
- Bình đẳng giới trong gia đình và xã hội, đặc biệt trong việc lựa chọn các
BPTT nhằm đạt mục tiêu TD an toàn và lành mạnh.
* Thông tin, giáo dục, truyền thông về SKSS
- Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về SKSS trong các cấp,
ngành, đoàn thể, đặc biệt đưa SKSS vào nhà trường.
- Đa dạng hoá các phương thức thông tin, giáo dục, truyền thông về SKSS.
- Phát huy vai trò truyền thông viên về SKSS tại cộng đồng.
- Nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của các cấp lãnh đạo.
- Ưu tiên và tăng cường cho vùng sâu, vùng xa.
1.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.3.1. Thực trạng công tác chăm sóc SKSS trên thế giới
Nền kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới phát triển rất khác nhau nên
tình hình về CSSKSS cũng rất khác nhau. CSSKSS cho lứa tuổi VTN đã được quan
tâm song các nước vẫn xác nhận VTN là nhóm dễ bị tổn thương nhất. Ở nhiều
nước Châu Âu, Bắc Mĩ, Nhật Bản,… các cá nhân, các cặp vợ chồng đã có thể làm
chủ khả năng sinh sản của mình nghĩa là họ chủ động được sinh con khi nào và
sinh mấy con, thực tế trong vòng 35 năm trong độ tuổi sinh đẻ (15 đến 49 tuổi) họ
chỉ mất 5-6 năm cho việc chửa đẻ và nuôi con, phần thời gian còn lại họ quan tâm
đến chăm sóc sức khoẻ mà đặc biệt là sức khoẻ TD.
Một trong những vấn đề quan tâm lớn của xã hội đối với SKSS VTN là vấn

đề QHTD sớm dẫn đến mang thai ngoài ý muốn. VTN QHTD sớm là vấn đề xã hội
của nhiều quốc gia trên thế giới. Do tác động của nhiều yếu tố: đô thị hoá, phim
ảnh, phương tiện thông tin… và trào lưu xã hội làm cho tỉ lệ VTN có hoạt động TD
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
20
Khoá luận tốt nghiệp
sớm ngày càng tăng trên toàn thế giới, trong khi đó hiểu biết về thời điểm có thai
của VTN rất thấp. Vấn đề cần quan tâm cùng với việc QHTD sớm và sự thiếu hiểu
biết của VTN về các bệnh LTQĐTD và các BPTT. Một nghiên cứu ở Nigeria cho
thấy 80% nữ VTN dưới 19 tuổi được hỏi đã từng có QHTD và một nghiên cứu
khác nhận được quan niệm của các đối tượng về các bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS
là không thể tránh được [5].
* Những thách thức về SKSS trên toàn thế giới
Vấn đề thai nghén, sinh đẻ và sức khoẻ trẻ sơ sinh: Hàng năm khoảng 8 triệu
trong số 210 triệu phụ nữ có thai bị các biến chứng liên quan đến thai nghén đe doạ
đến cuộc sống của họ, nhiều trường hợp bị tàn phế thậm chí cả tử vong. Năm 2000,
có khoảng 529.000 bà mẹ chết trong khi mang thai và trong khi sinh mà nguyên
nhân có thể phòng tránh được nếu quan tâm hơn về kiến thức CSSKSS cho các bà
mẹ. Tuy nhiên tỷ lệ tử vong mẹ đã thay đổi theo chiều hướng tích cực trong những
năm gần đây do làm tốt việc chăm sóc SKSS.
Vấn đề KHHGĐ: Việc sử dụng các BPTT đã tăng ổn định ở các nước phát
triển và các nước đang phát triển. Một số nghiên cứu cũng cho biết hoạt động TD
của VTN và người lớn chưa xây dựng gia đình cũng chưa được đáp ứng nhu cầu về
phương tiện tránh thai, khoảng 80 triệu phụ nữ hàng năm có thai ngoài ý muốn,
nhiều trường hợp trong số này có thai do không thành công trong sử dụng BPTT
[5].
Nạo thai không an toàn: Hàng năm có khoảng 19 triệu trường hợp phá thai
không an toàn, trong đó có khoảng 40% ở độ tuổi từ 15 đến 24 tuổi. Việc nạo phá

thai không an toàn đã làm tử vong ước tính 68.000 phụ nữ. Bên cạnh đó nạo phá
thai không an toàn còn để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng khác như: nhiễm trùng
đường sinh sản, thủng tử cung, vô sinh…[5].
Bệnh LTQĐTD gồm cả HIV/AIDS: Hàng năm có khoảng 340 triệu người
mắc bệnh LTQĐTD, hầu hết các bệnh đều có thể điều trị được. Tuy nhiên rất nhiều
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
21
Khoá luận tốt nghiệp
trường hợp không được điều trị do không được chẩn đoán bởi thiếu các dịch vụ.
HIV/AIDS là căn bệnh hàng năm có tới 5 triệu ca nhiễm mới, trong đó có 600.000
trường hợp là trẻ sơ sinh. Hàng năm có trên 100 triệu trường hợp mắc các bệnh
LTQĐTD, những trường hợp này thường ở lứa tuổi 15 đến 24. Sự lây nhiễm này
lan tràn cùng với HIV, ước tính 50% các trường hợp nhiễm mới HIV xuất hiện ở
người trẻ. Nhiễm trùng đường sinh dục có thể dẫn tới hậu quả đáng tiếc đó là vô
sinh, khoảng 60 triệu đến 80 triệu cặp vợ chồng vô sinh trên thế giới, nguyên nhân
thông thường là do tắc ống dẫn trứng sau viêm đường sinh dục không được điều trị
tích cực [16].
1.3.2. Thực trạng chăm sóc SKSS ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nhiệm vụ CSSKSS được Chính phủ giao cho Bộ Y tế và Uỷ
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em. Các hoạt động CSSKSS ở nước ta đã đạt được
những thành quả tốt đẹp: Các dịch vụ làm mẹ an toàn đang phát triển thành một
mạng lưới rộng khắp trong toàn quốc từ thành thị đến nông thôn. Bộ Y tế có Vụ
bảo vệ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hoá gia đình, các Sở Y tế có Trung tâm CSSKSS,
các huyện, thành phố, thị xã có các Độ kế hoạch hoá gia đình thường xuyên tổ chức
các đợt xuống cơ sở phối hợp với các Trạm y tế xã thực hiện tuyên truyền vận
động, cung cấp kiến thức về CSSKSS, hỗ trợ các trạm Y tế thực hiện các BPTT
lâm sàng cho phụ nữ. Hàng năm Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em phối hợp với
ngành Y tế và các đoàn thể tổ chức từ 2 đến 3 đợt chiến dịch truyền thông vận động

lồng ghép với dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ để vận động đối tượng thực hiện 3 gói
dịch vụ: KHHGĐ, làm mẹ an toàn và phòng chống viêm nhiễm đường sinh sản.
Các đợt chiến dịch hàng năm đã vận động được trên 70% các cặp vợ chồng trong
độ tuổi sinh đẻ thực hiện các BPTT hiện đại góp phần quan trọng để cả nước có tỷ
suất sinh giảm từ 3,8 con ( năm 1989) xuống còn 1,92 con ( năm 2006) [13].
Theo tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong những nước triển khai các
chương trình CSSKSS sớm và có hiệu quả. Bao gồm các chương trình Y tế Quốc
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
22
Khoá luận tốt nghiệp
gia như: chương trình làm mẹ an toàn, chương trình DS/KHHGĐ, chương trình
phòng chống suy dinh dưỡng, phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp… đều được triển
khai có hiệu quả, sức khoẻ của bà mẹ và trẻ em được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, trong những năm qua, chương trình DS/KHHGĐ và CSSKSS
mới chỉ thành công ở vùng thành thị và vùng nông thôn phát triển. Những vùng
nghèo, vùng sâu, vùng xa còn gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ sử dụng các BPTT ở
những vùng này còn thấp chỉ đạt 60%, có tới 56,3% phụ nữ có thai chưa được
khám lần nào trong suốt thời kì mang thai và chỉ có 42% sản phụ được các nhân
viên y tế chăm sóc khi sinh nở [13].
* Công tác CSSKSS hiện nay đang đứng trước những thách thức;
Tỷ lệ tử vong do thai sản giảm từ 400/100.000 người đẻ con sống ở thập kỉ
50 giảm xuống còn 200/100.000 trẻ đẻ sống ở thập kỉ 80, đến thập kỉ 90 giảm
xuống còn 100/100.000 trẻ đẻ sống. Theo ước tính ở nước ta có từ 2.200 đến 2.800
bà mẹ tử vong hàng năm, trong khi 90% các trường hợp tử vong mẹ có thể tránh
được nếu như làm tốt công tác quản lý thai nghén, trang bị đầy đủ kiến thức cho
các bà mẹ và tiếp cận tốt với các dịch vụ y tế [13].
Cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn, đội ngũ cán bộ còn thiếu ở tuyến xã,
hiện nay cả nước còn gần 30% số xã chưa có nữ hộ sinh và y sĩ sản nhi, việc quản

lý thai nghén còn nhiều hạn chế, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
* Những tồn tại chủ yếu về SKSS ở Việt Nam;
Chất lượng công tác KHHGĐ còn hạn chế như tỷ lệ thất bại trong việc sử
dụng các BPTT còn cao, tỷ lệ sử dụng các BPTT hiện đại còn ở mức trung bình, số
con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở miền núi, vùng cao, vùng
sâu vùng xa còn ở mức cao. CSSKSS VTN và thanh niên chưa được quan tâm
đúng mức, tình trạng mang thai ngoài ý muốn và nạo phá thai còn ở mức cao.
Hiện Việt Nam là một trong ba quốc gia có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế
giới, với khoảng 400.000 ca phá thai/năm, trong đó phá thai không an toàn là
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
23
Khoá luận tốt nghiệp
nguyên nhân 12% ca tử vong ở mẹ được báo cáo chính thức, con số này trên thực tế
còn lớn hơn rất nhiều. Bà Đỗ Thị Hồng Nga, đại diện tổ chức Concept Foundation
tại Việt Nam cho biết “Tình trạng phá thai ở Việt Nam có xu hướng tăng ở phụ nữ
trẻ chưa có gia đình (chiếm 20-30% tổng số ca phá thai). VTN phá thai muộn và
không an toàn có 53%, 23% phá thai lặp lại ở người chưa có gia đình”[2].
Chăm sóc phụ nữ mang thai và các bà mẹ còn nhiều hạn chế, việc chăm sóc
sau sinh và phương pháp nuôi con khoa học chưa được biết nhiều ở các bà mẹ ở
vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Dân số tăng thêm mỗi năm vẫn lớn, trong những năm tới mỗi năm vẫn tăng
khoảng 1,1 triệu người [12].
CSSKSS VTN còn nhiều hạn chế nhất là việc cung cấp thông tin và kiến
thức về CSSKSS cho lứa tuổi này. Khi hỏi về QHTD trước hôn nhân có 12,8%
VTN được hỏi cho rằng có thể chấp nhận được; 3,4% cho là không thành vấn đề và
20,4% cho rằng chấp nhận được vấn đề có thai trước hôn nhân. Trong khi đó 16%
VTN được phỏng vấn không biết một BPTT nào và không biết phòng tránh bệnh
LTQĐTD. Nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu dân số và sức khoẻ nông thôn

cho kết quả: Khoảng 1/3 số VTN không biết một dấu hiệu nào khi dậy thì và không
hiểu biết về QHTD [13].
Một thách thức lớn trong việc chăm sóc sức khoẻ VTN ở nước ta hiện nay là
vấn đề chưa được nhận thức đầy đủ, chưa đúng mức về SKSS VTN của toàn xã
hội. Nhiều nhà lãnh đạo chính quyền và nhà hoạch định chính sách vẫn coi vấn đề
sức khoẻ, SKSS VTN chỉ thuần tuý là vấn đề xã hội, liên quan đến tập quán, lối
sống. Nhận thức về SKSS VTN của các bậc cha mẹ còn nhiều lệch lạc, phong kiến,
coi VTN là trẻ con, chưa có sự trao đổi cởi mở, bình đẳng và hướng dẫn cần thiết
cho VTN.
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
24
Khoá luận tốt nghiệp
1.3.3. Thực trạng CSSKSS của tỉnh Ninh Bình
Công tác dân số trong những năm gần đây ở Ninh Bình đạt được những kết
quả rất đáng khích lệ theo hướng từng bước nâng cao chất lượng dân số, thông qua
việc cung cấp hiệu quả, kịp thời, đa dạng các gói dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ, đẩy
mạnh tuyên truyền, vận động để mọi người dân thực hiện gia đình có từ 1- 2 con, là
tiền đề xây dựng mô hình gia đình bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ, góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Năm 2011 là năm đầu tiên triển khai thực hiện các mục tiêu của chiến lược
Dân số và SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020, công tác CSSKSS đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em như tỷ
lệ phụ nữ có thai được quản lý thai, số lần khám thai trung bình, tỷ lệ phụ nữ đẻ có
cán bộ được đào tạo hỗ trợ, tỷ lệ bà mẹ được khám sau đẻ tại nhà đã đều đạt và đạt
cao hơn so với năm 2010. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi nhẹ cân năm
2011 còn 16,8%, giảm 0,7% so với năm 2010, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao. Mạng
lưới dịch vụ CSSKSS tiếp tục được củng cố và tăng cường năng lực [7].
Năm 2012, Công tác CSSKSS của cả nước đã tập trung thực hiện bảy nhóm

vấn đề gồm: tiếp tục xây dựng, rà soát, hoàn thiện và cập nhật những văn bản,
hướng dẫn quy trình chuyên môn kỹ thuật; Tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống
CSSKSS từ trung ương đến cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc thông qua tập
huấn và giám sát hỗ trợ tuyến dưới, mở rộng dần các can thiệp toàn diện về
CSSKSS, triển khai rộng rãi; Thực hiện tốt việc phối hợp đẩy mạnh công tác truyền
thông và vận động về CSSKSS; Tiếp tục thực hiện các dự án mục tiêu quốc gia về
CSSKSS
Trong những năm qua, công tác CSSKSS/KHHGĐ của tỉnh Ninh Bình đã
bước đầu đạt được những kết quả khả quan: Số cặp vợ chồng áp dụng các BPTT
hiện đại là 48.912 cặp, đạt 73%; Có 33,8% số bà mẹ mang thai được sàng lọc trước
sinh; 33,9% số trẻ mới sinh được sàng lọc sơ sinh (5.034 cháu); Số trẻ sinh trong
Đinh Thị Thanh Nga- D
2
Sinh học
25

×