Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Về một vài chức năng của văn học - Umberto Eco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.37 KB, 15 trang )

UMBERTO ECO *

VỀ MỘT VÀI CHỨC NĂNG CỦA VĂN HỌC

Chuyện kể rằng, và nếu khơng thực thì cũng đã từng được lưu truyền,
một hơm Staline hỏi: "Thưa đức Giáo hồng, có bao nhiêu sư đồn?". Phần
tiếp của các sự kiện đã chứng tỏ rằng trong một vài trường hợp các sư đồn có
vai trị quan trọng, nhưng khơng phải là tất cả. Tồn tại những quyền lực phi
vật thể, không có ý nghĩa về mặt trọng lượng nhưng lại ln có sức nặng.
Chúng ta bị bao quanh bởi những quyền lực vơ hình giống như một học
thuyết tơn giáo, những quyền lực không giới hạn ở cái mà chúng ta vẫn gọi là
giá trị tinh thần. Đó chính là một thứ quyền lực phi vật thẻ như của những con
số căn, mà quy luật của nó vượt qua hàng thế kỷ, qua các sắc lệnh của Staline
hay Giáo hoàng. Trong số những quy luật đó, tơi tính đến cả quy luật của
truyền thống văn học, tơi tính đến cả quy luật của truyền thống văn học, nghĩa
là tổng thể các văn bản được lồi người tạo ra khơng vì những mục đích thực
dụng (như ghi sổ kế ốn, ghi chép các quy luật và công thức khoa học, ghi
chép các biên bản hội nghị hay cung cấp bảng giờ tàu chạy của ngành đường
sắt), mà đúng hơn là gratia sui (bởi tình yêu đối với văn bản văn học - tiếng
Latin - ND), bởi tình u của chính họ - và người ta cịn đọc vì thú vui, vì
ni dưỡng tinh thần, để mở rộng kiến văn, thậm chí là để giải sầu, mà không
phải là bắt buộc (ngoại trừ vì những lý do bắt buộc mang tính trường quy).
Nói tóm lại, các đối tượng của văn học chỉ là phi vật thể một nửa, vì
chúng hố thân thành các phương tiện thường được làm từ giấy. Nhưng xưa
kia, chúng hoá thân vào giọng kể của người kể lại truyền thuyết truyền miệng,
hay trên các tảng đá, và ngày nay chúng ta tranh cãi về tương lai của những
*

Nhà ký hiệu học nổi tiếng, đồng thời là nhà văn người Italia (1932) với các nghiên cứu về vấn đề tác phẩm
mở.



cuốn sách điện tử, những thứ có thể cho phép cúng ta đọc như một thứ truyện
danh ngôn (truyện vui) kiểu như Trần Khúc trên một màn hình tinh thể lỏng.
tơi thích nói ngay rằng tơi khơng hề có ý định nói về vexata quaestio (vấn đề
rắc rối - tiếng latin-ND) của cuốn sách điện tử. Tất nhiên tôi thuộc vào số
những người thích đọc một cuốn tiểu thuyết hay một bài thơ bằng quyền sách,
mà tôi nhớ từng chút một và những quyển sách có gấp góc, nhưng người ta
nói với tơi rằng có một thế hệ những hacker (kẻ tấn cơng máy tính -ND),
những kẻ khơng bao giờ đọc một quyển sách trong cuộc đời của mình, nay
nhờ có sách điện tử (e-book) cũng lần đầu tiên đọc và yêu thích Don
Quichotte. Nhận được bao nhiêu cho trí tuệ của họ thì cũng mất đi chừng ấy
cho cái nhìn của họ. Nếu các thế hệ tương lai có được một mối quan hệ tốt (cả
tâm lý và thể chất) với sách điện tử, thì quyền năng của Don Quichontte sẽ
không thay đổi.
Vậy thứ của cải phi vật chất vốn là văn học có vai trị gì? Có lẽ chỉ cần
đáp, giống như tơi đã làm, rằng đó là một thứ của cải được tiêu thụ gratia sui
(bởi tình yêu đối với văn bản văn học- ND), và do đó mà nó chẳng phục vụ gì
cả. Nhưng một cái nhìn coi nhẹ sự thích thú văn học có nguy cơ bị biến văn
học trở thành trò chạy bộ (jogging) hay trị cơi các ơ chữ - cả hai vốn đều
phục vụ cho cái gì đó, sức khoẻ thân thẻ, hay giáo dục từ vựng. Điều tơi muốn
nói ngày hom nay đó là một loạt các chức năng của văn học đối với đời sống
cá nhân của chúng ta và đời sống xã hội.
Văn học duy trì sự hoạt động của ngơn ngữ
Trước tiên văn học duy trì sự hoạt động cảu ngôn ngữ như một thứ di
sản tập thể. Ngơn ngữ, theo định nghĩa, đi tới nơi mà nó muốn, khơng một sắc
lệnh nào từ bên trên, của chính trị, từ Viện Hàn lâm có thể làm nó dừng bước,
và làm nó lệch hướng về những tình huống được coi là tối ưu.
Ngơn ngữ đi tới nơi mà nó muốn, song nó cũng nhạy cảm với những
gợi ý của văn học. Khơng có Dante, sẽ khơng có một ngơn ngữ Italia thống
nhất. Trong De vulgari eloquentia (Những bài hùng biện tầm thường - ND),



ông phân tích và kết án các phương ngữ Italia khác nhau, và dự định tạo nên
một ngơn ngữ bình dân mới có tinh thống nhất. Có lẽ khơng ai đánh cược với
một hành động kiêu ngạo như vậy, tuy nhiên với Thần khúc thì ơng đã giành
được chiến thắng. Quả là để trở thành thứ ngôn ngữ được sử dụng khắp nơi,
cần tới vài thế kỷ cho ngôn ngữ bình dân của Dante, nhưng nó đã tới đích bởi
vì cộng đồng của những người tin vào văn học đã tiếp tục theo mẫu hình này.
Và nếu khơng có mẫu hình này, ý tưởng về một sự thống nhất về chính trị có
thể sẽ khơng bao giờ vạch ra được con đường của mình. Chắc vì điều này mà
Bossi(1) khơng nói một thứ tiếng nói phổ thơng quen thuộc.
Văn học, trong khi đóng góp vào việc tạo dựng ngơn ngữ đã tạo nên
một bản sắc và một cộng đồng. Tôi đã nói một bản sắc và một cộng đồng. tơi
đã nói về Dante, nhưng hãy thử nghĩ tới chuyện nền văn minh Hy lạp khơng
có Homère, bản sắc Đức khơng có việc dịch Kinh Thánh của Luther(2), ngơn
ngữ Nga khơng có Pushkin, và văn minh Ấn Độ khơng có những bản sử thi
khởi đầu của mình.
Nhưng việc thực hành văn học cũng duy trì sự hoạt động ngơn ngữ cá
nhân của chúng ta. Hiện nay, nhiều người thấy chẳng hay ho gì sự xuất hiện
của một thứ ngơn ngữ tân điện báo (néo - télégraphique) trong thư điện tử và
các văn bản mẫu của các máy tính xách tay, ở đó ngươi ta tiến tới viết anh yêu
em với một chữ viết tắt (sigle); nhưng không bao giờ được quên rằng bản thân
những than niên trẻ này, người gửi những thơng điệp trong hình thức đánh
máy mới, ít nhất phần nào, cũng chính là nhữn người chen chúc trong các
đường mới này của sách như các cửa hàng sách mégastore(?). Ngay cả nếu
như chỉ cho lật qua mà không mua, thì họ cũng bước vào giao tiếp với những
phong cách văn chương trí tuệ và tinh luyện, mà cha ơng của họ chắc chắn
chưa bao giờ tiếp xúc.

(1)


Umberto Bossi, chính khách Italia, thư ký Liên đoàn phương Bắc, người chủ trương ly khai khỏi Italia, lập
nước cộng hoà tưởng tượng Padanie bao gồm tám vùng phía bắc Italia nhưng bị phản đối kịch liệt (ND)
(2)
Martin Luthr (1483-1546) nhà thần học và cải cách tơn giáo Đức có ảnh hưởng lớn tới đạo cơ đốc (ND)


Việc độc các tác phẩm văn học buộc chúng ta thực hiện trung thành
và tôn trọng đối với sự tự do trong việc cắt nghĩa tác phẩm
Có một lối phê bình tà thuyết đầy hiểm nguy, tiêu biểu cho thời đại của
chúng ta, theo đó người ta có thẻ làm điều họ muốn từ một tác phẩm văn
chương, và đọc được ở đó mọi thứ mà xung năng khơng thể kiểm sốt nổi của
chúng ta gợi ra. Khơng đúng. Các tác phẩm văn chương cho phép ta tự do
trong cắt nghĩa, bởi vì chúng giới thiệu cho chúng ta một diễn ngôn cho
nhiềumức độ đọc, và đặt chúng ta đối mặt trước sự mơ hồ của ngôn ngữ và
đời sống. Nhưng để đi xa hơn trong trò chơi này, theo đó mỗi thế hệ đọc các
tác phẩm văn chương theo cách khác nhau, cần phả được thúc đẩy bởi sự tôn
trọng sâu sắc đối với điều mà ở nơi khác tôi gọi là ý định của văn bản.
Một mặt, chúng ta có cảm tưởng rằng thế giới là một cuốn sáh "đóng
kín" chỉ cho phép một cách đọc duy nhất, bởi vì nếu có một quy luật chi
phốilực hấp dẫn thiên thẻ, thì hoặc là quy luật đó chính xác, hoặc là nó sai;
tương tự như thế thì vũ trụ của một cuốn sách đối với chúng ta như một thế
giới mở. Nhưng hãy thử tiếp cận, với lương tri, một cách khách quan, một tác
phẩm tự sự và đối chiếu các giả thiết mà chúng ta có thể nói về tác phẩm ấy
với những giả thiết mà chúng ta phát biểu về thế giới. Về thế giới, chúng ta
nói rằng các quy luật của lực hấp dẫn vũ trụ là các quy luật được Newton phát
biểu, hoặc quả thực là apoléon chết ở đảo Saint - Héène ngày 5/5/1921. Tuy
nhiên, nếu có một trí tuệ mở, chúng ta vẫn ln sẵn sàng xem xét lại niềm tin
của mình, vào cái ngày mà khoa học sẽ phát biểu một công thức khác với các
quy luật vũ trụ quan trọng, hay vào lúc mà một nhà sử học sẽ tìm ra các tài

liệu chưa công bố chứng minh rằng Napoléon chết trên một con tầu của phái
Bonnaparte trong khi đang chạy trốn. Ngược lại, so với thế giới của những
quyển sách, các giả thuyết kiểu như Sherlock Holmes độc thân. Cô bé quàng
khăn đỏ bị sói ăn thịt nhưng lại được bác thợ săn cứu thốt, Anna Karénina
tự vẫn sẽ ln là đúng đắn và sẽ khơng một ai có thể bác bỏ. Không ai chối bỏ
rằng Giê-su là con của Chúa Trời, một vài người nghi ngờ sự tồn tại có tính


lịch sử của ông ta, số khác ủng hộ niềm tin rằng ông ta là Con đường, Sự thật,
Cuộc sống, số khác nữa cuối cùng nghĩ rằng Lễ Mixa còn cần diễn ra và dù ý
kiến của chúng ta như thế nào đi nữa thì cũng phải xử sự tơn trọng với những
quan điểm này. Nhưng không ai sẽ xử sự một cách tôn trọng với người khẳng
định rằng Hamlet đã cưới Ophelia hay Siêu nhân (Superman) không phải là
Clark Kent(3)
Các văn bản văn chương nói với chúng ta một cách rõ ràng những điều
mà chúng ta không bao giờ có thể đặt lại vấn đề lẫn nữa, nhưng khác với thế
giới bên ngoài, các văn bản ấy với một sự đảm bảo tuyệt đối báo cho chúng ta
biết, trong bản thân chúng, điều cần được coi là quan trọng và điều mà chúng
ta không thể coi như điểm xuất phát cho những cách cắt nghĩa tự do.
Cuối chương 35 của Đỏ và Đen, chúng ta biết Julien tới nhà thờ, bắn
vào bà de Rénal. Sau khi quan sát thấy tay của nhân vật run rẩy, Stendhal cho
chúng ta biết rằng Julien bắn phát đầu tiên và bắn trượt, rồi anh ta bắn phát
thứ hai và bà ta ngã xuống. Giờ hãy tưởng tượng người ta khẳng định rằng
cánh tay run rẩy, cũng như việc phát súng đầu tiên bắn trượt vào khơng khí,
chứng tỏ rằng Julien khơng tới Nhà thờ với một ý định ban đầu giết ngươi rõ
ràng nhưng bị thúc đẩy bởi một xung năng mãnh liệt khơng kiểm sốt nổi.
Theo cách cắt nghĩa này, người ta có thể tưởng tượng một điều khác, Julien
ngay từ đầu đã có ý định giết người nhưng đó là một kẻ hèn nhát. Văn bản
cho phép hai cách hiểu.
Hãy giả thiết rằng có ai đó tự hỏi xem viên đạn đầu tiên kết thúc ở đâu.

Câu hỏi thú vị cho những ai ưa thích Stendhal. Cũng tương tự như ai ưa thích
Joyce tới Dublin để tìm hiểu hiệu thuốc mà Bloom có lẽ đã mua một chiếc
bánh xà phịng nho nhỏ như một quả chanh (và để làm hài lòng những người
u thích này, hiệu thuốc đó quả là có tồn tại và đã lại bứt đầu sản xuất những
bánh xà phịng nho nhỏ), người ta có thể tưởng tượng rằng những người hâm
(3)

Một nhân vật dạng hiệp sĩ thời hiện đại xuất hiện lần đầu trong các truyện dài kỳ năm 1938 của hai tác giả
Jerry Siegel và Joe Shuster (1914-1992). Trong truyện nay, siêu nhân đồng thời cũng là Clark Kent (ND)


mộ Stendhal, tìm cách khám phá trong thế giới đó ngơi nhà thờ Verrière, cịn
khảo sát tỉ mỉ từng cây cột để khám phá ra điểm chạm của viên đạn. Có lẽ đó
là một chương fanship (?) khá thú vị. Nhưng bây giờ hãy giả thiết rằng một
nhà phê bình muốn thiết lập ra một cách cắt nghĩa của mình về số phận viên
đạn bị lạc trong tác phẩm. Thời gian trơi đi, đúng là khơng như thực, rồi cũng
có thể ai đó căn cứ vào vị trí của bức thư so với ống khói mà đọc Bức thư bị
đánh cắp của Poe. Nhưng nếu Poe chỉ một cách rõ ràng vị trị thích đáng của
bức thư, thì Stendhal lại khơng quan tâm tới viên đạn đầu tiê đó, và do vậy
ơng loại trừ nó ra khỏi số lượng các thực thể hư cấu. Nếu bám sát văn bản của
Stendhal, thì viên đạn này lạc mất hẳn, và việc biết nó đi đâu hồn tồn khơng
quan trọng về mặt kể chuyện. Ngược lại, cái điều khơng được nói ra của nhân
vật Armance(4) về chứng bất lực rất có thể của nhân vật chính lại thúc đẩy độc
giả tới những giả thiết đầy mãnh liệt để hồn chỉnh câu chuyện khơng được kể
ra, và tong Những vị hôn phu, một câu như "cơ gái bất hạnh trả lời" khơng có
nghĩa tới mức là Gertrude gây ra tội lỗi của mình với Egidio, nhưng cái quầng
tối của các giả thiết ứng với độc giả đã tham gia vào sự hấp dẫn của trang giấy
có sự tỉnh lược đầy e lệ đó.
Trong phần đầu của Ba người lính ngự lâm, rõ ràng là D'Artagnan tới
Meung trên một con ngựa gầy gị xấu xí mười bốn tuổi, vào ngày thứ hai đầu

tiên của tháng tư 1625. Với một người đọc ưa tư duy logic, có thể xác lập
ngay đó là ngày7.4. Một nét tinh tế cho trivia games (những trò chơi tầm
phào) giữa những điểm tinh tế tuyệt đối kiểu Dumas. Liệu người ta có thể lập
ra trên dữ liệu đó một siêu cắt nghĩa (sur-interpretation) của tiểu thuyết? Tơi
có thể nói là khơng, vì rằng các trang tiếp theo khơng hề cho thấy sự quan
trọng của dữ liệu này. Diễn biến của tiểu thuyết khơng coi trọng việc
D'Artagan tới nơi có đúng vào ngày thứ hai hay khơng, trong khi đó quan
trọng chính là phải vào tháng tư (hãy nhớ rằng để không chứng tỏ cái dây đeo
súng rực rỡ được thêu lên phía trước, Porthos đã mặc một chiếc áo khoắc dài
(4)

Tên nhân vật trong một truyện ngắn của Stendhal dường như là về chuyện đồng tính luyến ái (ND)


bằng nhưng mà đỏ sẫm dù thời tiết khơng địi hỏi phải như thế - sao cho
người lính ngự lâm cần phải làm ra vẻ như bị sổ mũi).
Điều đó có thể xuất hiện ở nhiều chuyện hiển nhiên, những chuyện đó
(lại thường bị lãng quên) nói với chúng ta rằng thế giới của văn học cho phép
có các giả thiết không được nghi ngờ, và do vạy cung cấp cho ta một mẫu
hình, sự tưởng tượng nếu chúng ta muốn, về sự thật. Sự thật văn học đó được
phản ánh theo cái mà chúng ta nói là D'Artagnan bị thúc đẩy bởi một tham
vọng đồng tính luyến ái đối với Porthos, rằng kẻ vô danh bị dẫn dắt tới điều
xấu xa bởi một mặc cảm Oeudipe không cưỡng lại nổi, hay Panurge hành
động như vậy là bởi sự căm thù việc chủ nghĩa tư bản đang hình thành, chúng
ta luôn đáp rằng, trong các văn bản được đối chiếu, khơng thể ìm thấy bất cứ
một sự khẳng định, một gợi ý, một lời bóng gió cho phép chúng ta nhượng bộ
cho các thử thách cắt nghĩa đó. Thế giới văn học là một thế giới trong đó có
thể làm cac thử nghiệm để xác lập xem một người đọc có khiếu hiện thực hay
anh ta là miếng mồi cho chính những ảo tưởng của mình.
Các nhân vật di trú (migrer)

Chúng ta có thể có những khẳng định thật sự về các nhân vật văn học
bởi vì điều xảy ra với học đã được ghi lại trong văn bản, và một văn bản
giống như một bản nhạc chia bè. Quả thật anna Karenina chết vì tự vẫn đúng
như là Bản giao hưởng số 5 của Beethoven được viết ở cung đô thứ (chứ
không phải ở cung fa trưởng như của bản giao hưởng số 6) và bắt đầu bằng
"sol, sol, sol, mi giáng". Nhưng xảy ra chuyện - tuy không phải là tất cả - một
vài nhân vật văn học rời khỏi văn bản nơi chúng được sinh ra và di trú trong
một vùng vũ trụ mà người ta rất khó xác định giới hạn vũ trụ ấy.
Các cuộc di trú từ văn bản này tới văn bản kia (và thơng qua những
cách chuyển thể hồn tồn khác nhau về chất, từ sách thành phim hay thành
vở ba lê, hay từ truyền thuyết truyền miệng thành sách) đã xảy ra đối với các
nhân vật đến từ huyền thoại cũng như đối với các nhân vật của lối huyền thoại
cũng như đối với các nhân vật của lối kể "phi tôn giáo", Ulysse, Jason, Arthur


hay Parsifal, Alice, Pinochio, d'Artagnan. Khi chúng ta nói về các nhân vật
của loài này, phải chăng là chúng ta dựa vào một bản chia bè chính xa chính
sách? Hãy thử xem xét truyện Cô bé quàng khăn dỏ. Hai bản nổi tiếng nhất,
của Perrault và của anh em Grimm, hồn tồn khác nhau. Trong bản thứ nhất,
cơ bé bị sói ăn và câu chuyện kết thúc ở đó, do vậy nó tạo ra các suy nghĩ
nghiêm khắc mang tính đạo đức về các hiểm hoạ do sự bất cẩn. Trong trường
hợp thứ hai, người đi săn tới giết con sói, cứu sống cơ bé và người bà. Happy
end (kết thúc có hậu - ND)
Hãy tưởng tượng giờ đây một bà mẹ kể truyện cổ cho con và dừng lại ở
chỗ con sói ăn thịt Cơ bé qng khăn đỏ. Lũ trẻ có thể phản đối và muốn có
một câu chuyện "thực sự", câu chuyện mà ở đó cơ bé quàng khăn đỏ được
cứu sống, và không cần tới việc bà mẹ phải tuyên bố mình là nhà một giữ văn
học biết tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Lũ trẻ biết một câu chuyện "đích
thực" là cơ bé qng khăn đỏ sống lại và câu chuyện này gần với bản kể của
Grimm hơn la của Perrault. Tuy nhiên bản kể đó khơng trùng khít với phần

chia bè của Grimm, bời vì nó bỏ qua một loạt các sự kiện thứ yếu - ở đó bản
Perrault và bản Grimm khác nhau, chẳng hạn như là kiểu quà ma Cô bé quàng
khăn đỏ mang tới cho bà, và cũng ở đó lũ trẻ dễ dàng đồng ý với nhau, bởi vì
chúng dựa theo một cá nhân có tính sơ đồ hơn, mơ hồ trong truyền thuyết,
phân bố theo nhiều bè khác nhau, mà chủ yếu là truyền miệng.
Như vậy, Cô bé quàng khăn đỏ, D'Artagnan, Ulysse, Bà Bovary trở
thành những cá nhân sống ngoài các bè ban đầu, và những ai chưa bao giờ
đọc bè cổ mẫu (archétype) đều có thể tự tin đưa ra các khẳng định thật sự về
các nhân vật đó. Trước khi đọc Oeudipe làm vua, tơi đã biết rằng Oeudipe
cưới Jocaste. Mặc dù các bè có phân mơ hồ, song chúng cũng không phải là
không thể kiểm tra được; Có lẽ ai đó nói rằng Bà Bovary dàn hoà với Charles
và sống hạnh phúc với anh ta đều hứng thú với các cách trừng phạt của những
người có lương tri, hệt như là những người này đồng ý về nhân vật Emma.


Ở đâu những cá nhân mơ hồ đó? Điều này cịn phụ thuộc vào khn hổ
của bản thể học chúng ta, nếunó chứa cũng những số căn, như ngơn ngữ
Êtơrui và hai ý niệm về Thánh Ba ngôi (Très Sainte - Esprit) xuất phát từ Cha
và Con (ex patre Filioque procedit - nguyên bản Latin, ND); Linh chỉ xuất
phát từ cha. Nhưng bản thể này có một quy chế rất mơ hồ và chứa đựng
những thực thể với độ dày khác nhau, bởi vì chính vị Lão trưởng của
Constantinople (sẵn sàng va chạm với Giáo hồng nhân nói tới filioque (Cha ND) có thể đồng ý với Giáo hồng để nói rằng quả thật Sherlock Holmes sống
ở phố Baker và rằng Clark Kent và Siêu nhân chỉlà cùng một con người.
Đôi khi, người ta đã viết trong các cuốn tiểu thuyết hay các bài thơ rằng
- tôi khám phá những ví dụ cách ngẫu nhiên - Asdrubal giết Corinthe hay
Théephraste yêu điên cuồng Théodoline, tuy nhiên không ainghĩ rằng người
ta có thể đưa ra những khẳng định đích thực về chủ đề của chúng, bởi vì đó là
những nhân vật không may mắn hay sinh ra không may, họ không hê di trú và
khơng tới tham dự vào trí nhớ tập thể. Tại sao trong thế giới này việc hamlet
không cưới Ophelia lại đúng đắn hơn so với việc Theophraste đã cưới

Theodolinde? Đâu là bè của thế giới này, nơi Hamlet và Ophelie sống chứ
không phải là theophraste bất hạnh.
Những nhân vật kiểu như Hamlet hay Anna Karenina trong chừng mực
nào đó được tập thể coi là có thật bời vì cộng đồng đã tạo nên những cảm
hứng say mê, trong hàng thế kỷ và hàng năm. Chúng ta tạo ra các cảm hứng
say mê mang tính cá nhân trên hàng đống những ảo tượng mà chúng ta có thể
lập ra dưới đôi mắt mở to hay lim dim. Chúng ta thực sự có thể xúc động khi
nghĩ tới cái chết của một người mà chúng ta yêu quý, hay cảm nhận được
những phản ứng sinh lý khi tưởng tượng trong một mối quan hệ tình dục với
cơ ta, cũng như vậy, bằng những cách thức nhận diện hay có tính phóng
chiếu, chúng ta có thể xúc động về số phận của Emma Bovary, hoặc giống
như điều đó xảy đến với một vài thế hệ, hay bị thu hút tới việc tự tử do những
âm mưu của Werther hay của Jacopo Ortis. Nhưng nếu ai đó hỏi chúng ta liệu


cái con người mà ta tưởng tượng về cái chết của anh ta có chết thật hay
khơng, chúng ta có thể sẽ đáp rằng khơng, rằng đó là hiệu quả của trí tượng cơ
lập của chúng ta. Ngược lại, nếu ngươi ta hỏi chúng ta liệu có phải Werther có
tự vẫn thật khơng thì chúng ta đáp rằng có, và trí tưởng tượng mà chúng ta nói
tới khơng cịn cơ lập nữa, đó là một hiện thực văn hố, mà tồn thể cộng đồng
nhất trí về nó. Vì thế chúng ta cho là điên kẻ nào chỉ tự tử bởi vì kẻ đó tưởng
tượng (trong khi biết rằng đó là một sản phẩm của trí tưởng tượng của anh ta)
rằng cô người yêu của anh ta đã chết, trong khi đó chúng ta cố gắng chứng
minh, bằng cách này hay cách khác ai đó tự tử (dù biết rằng anh ta khóc về
một nhân vật hư cấu) vì sự tự sát của Werther.
Chúng ta sẽ cần tìm ra một khơng gian của vũ trụ, nơi các nhân vật đó
sống và cần xác định các hành vi ứng xử của chúng ta, tới mức chúng ta coi
chúng ta coi chúng như những hình mẫu của cuộc đời, của chúng ta và của
những người khác, và chúng ta hiểu rất rõ khi chúng ta nói về ai đó có mặc
cảm Oeudip, một món ăn kiểu Gargantua, một hành vi ứng xử kiểu Don

Quichotte, sự ghen tuông của Othello, một sự nghi ngờ của Hamlet hay nói
rằng anh ta là một người theo kiểu Donjuan khơng sao chữa khỏi. Trong văn
học, điều đó không chỉ xảy ra với các nhân vật. Tại sao những nàng tiên cá
tồn tại mãi lại là những ẩn dụ đầy ám ảnh, ln sẵn sàng nói lại với chúng ta
bất kỳ lúc nào rằng ta là ai?
Các thực thể ấy cảu văn học ở ngay gần chúng ta. Nhưng chúng ta
khơng có ở đó từ mn đời nay (có thể lắm) như các số căn và những định lý
của Pythagore, mà giờ đây, sau khi chúng đã được văn học sáng tạo và nuôi
dưỡng bằng nhiệt hứng của chúng ta thì chúng ở đó, và chúng ta cần phải tính
tới sự tồn tại của chúng. Để tránh những tranh cãi về bản thể học và siêu hình
học, chúng ta cần nói rằng các thực thể học và siêu hình học, chúng ta cần nói
rằng các thực thể đó tồn tại như những thói quen văn hố, những quan điểm
mang tính xã hội. Nhưng ngay cả sự cấm kỵ mang tính phổ quát của loạn luân


là một thói quen văn hố, một ý niệm, một quan điểm, thì cấm kỵ đó lại có
sức mạnh làm chuyển động những số phận của những cộng đồng con người.
Những siêu văn bản (Hypertexte) mở và những câu chuyện kết thúc
Ngày nay ai đó nói với chúng ta rằng ngay cả các nhân vật văn học
cũng có nguy cơ trên nên mờ dần, thay dổi, không ổn định, và mất đi sự xác
định của chúng vốn áp đặt cho ta để không được chối bỏ số phận của chúng.
Chúng ta đang bước vào thời đại siêu văn bản, và các siêuvăn bản điện tử
không chỉ cho phép đi du lịch qua một mạng chằng chịt văn bản (dù đó là một
từ điển hồn tồn hay opera omnia) khơng vì vậy mà "vét cạn" mọi thơng tin
nó chứa đựng, bằng cách thâm nhập vào nó như một chiếc kim đan vào một
lưới đan đen; nhưng siêu văn bản cũng sinh ra việc thực hiện một lối viết sáng
tạo tự do. Trên Internet, bạn tìm thấy những chương trình để bạn có thể viết
theo lối tập thể những câu chuyện, bằng cách tham gia vào những chương
trình để bạn có thể viết theo lối tập thể những câu chuyện, bằng ccáh tham gia
vào những lối kể chuyện cho phép làm thay đổi sự tiến triển của những câu

chuyện, cho tới vô cùng. Nếu người ta có thể làm điều đó cho một văn bản mà
người ta đang sáng tạo cùng một nhóm bạn ảo, tại sao lại khơng làm điều đó
cũng cho các văn bản học đã tồn tại bằng cách mua những chương trình cho
phép thay đổi những câu chuyện lớn vốn đã ám ảnh chúng ta có thể từ hàng
trăm năm nay.
Hãy thử tưởng tượng một chút, bạn đọc say mê Chiến tranh và Hồ
bình và tự hỏi liệu Natacha có nhượng bộ trước những lời tán tỉnh của
Anatole hay khơng, liệu chàng cơng tước Anderé có chết thật hay khơng, liệu
Pierre có đủ dũng cảm để bắn vào Napoléon, và giờ đây, bạn có thể làm tại
Tolstoi của mình, bằng cách gắn cho André một cuộc đời dài hạnh phúc, và
biến Pierre thành người giải phóng châu Âu, hay hồ giải Emma Bovary với
ơng chồng Charles tội nghiệp, bà mẹ hạnh phúc và nguôi ngoai; và chúng ta
cũng có thể định đoạt được việc Cơ bé qng khăn đỏ đi vào rừng và gặp ở đó


Pinochio, hay là cô bé bị người mẹ ghẻ bắt cóc và làm việc dưới cái tên Lọ
Lem đang phục vụ cho Scarlett.
O'Hara, hay là cơ bé gặp ở đó một người hảo tâm huyền thoại có tên là
Vladimir Ja. Propp, ơng ta tặng một chiếc nhẫn có phép thuật, nhờ đó cơ bé
khám phá ra Aleph trên một hồn đảo huyền thoại, vị trí người ta có thể nhìn
thấy toàn thế giới, người ta nhận thấy Jorges Luis Borges trong khi ông ta
đang nhắc Funes el memoriso là không được quân trả Anna Karenine cho thư
viện Babel.
Sẽ là tồi chăng? Khơng, bởi vì cũng điều ấy, văn học đã từng làm, rất
lâu trước các siêu văn bản, với dự định về Livre (sách) của Mallarmé, những
cái thây tao nhã của các đại diện siêu thực, hàng tỷ bài thơ của Queneau,
những cuốn sách di động của phong trào tiền phong thứ hai. Đây cũng là cái
mà jam session (tính ngẫu hứng trong nhạc jazz - ND) làm nên. Nhưng sự tồn
tại của lối chơi Jam session, mỗi một tối lại thay đổi số phận theo một chủ đề,
không ngăn chúng ta, không hề ngăn bước chúng ta vào trong căn phịng hồ

nhạc, nơi Bản Sonat cung si giáng thứ opus số 35 vẫn ln là như vậy.
Ai đó nói rằng đối với trò chơi theo những cơ chế liên văn bản, người
ta thốt khỏi hai hình thức kiềm chế, tuân theo những cuộc phiêu lưu do
người khác định đoạt về việc kết án về sự chia rẽ xã hội giữa những người
viết và những người đọc. Điều đó làm tôi cảm thấy ngốc nghếch, nhưng chắc
chắn là chơi theo cách sáng tạo với các liên văn bản, bằng cách đổi những câu
chuyện và góp vào để tạo nên những câu chuyện khác, có thể là một hành
động say mê, một bài tập hay để thực hành ở trường học, một dạng thức mới
trong cách viết rất gần gũi với jam Session. Tơi tin rằng có thể là tốt, và cũng
đầy tính giáo dục khi cố gắng thay đổi những câu chuyện đã tồn tại, cũng
giống như sẽ thú vị khi viết lại Chopin cho đàn mandoline: điều đó có thể sẽ
dùng để mài sắc của piano lại đồng chất đến như vậy ở bản sonate cung si
giáng thứ. Lao vào những dán ghép để giáo dục cho gu nhìn và cho việc thám
hiểm các hình thức, trong khi cố gắng cùng sáng tạo những mẩu, mảnh của


Đám cưới của trinh nữ

(5)

, của Những cô gái ở Avignon(6) và của câu chuyện

mới đây nhất của Pokémon. Thực sự, rất nhiều nghệ sĩ đã từng làm điều đó.
Nhưng những trị chơi này khơng được đánh tráo với chức năng giáo
dục thật sự của văn học, vì chức năng giáo dục không giới hạn việc chuyền tải
những ý niệm đạo đức, dù là chúng tốt hay xấu, hay ở việc giáo dục cảm nhận
về cái đẹp.
Yuri Lotman, trong Văn hoá và sự bùng nổ, nhắc lại yêu cầu nổi tiếng
cảu Tchekov, theo đó nếu trong một truyện kể hay một vở kịch, người ta thấy
ngay ở phần mở đầu một khẩu súng treo trên tường, thì trước khi kết thúc

khẩu súng phải được bắn. Lotman khiến cho chúng ta hiểu rằng vấn đề thật sự
không phải là biết xem liệu khẩu súng đó có thực sẽ bắn hay khơng. Đúng là
khơng cần biết liệu có phải khẩu súng ấy sẽ bắn hay khơng, miễn là chuyện
đó có đối chiếu ý nghĩa với cốt truyện. Đọc một truyện kể cũng có nghĩa là bị
cuốn vào một say mệ, một cơn co thắt (spasme). Khám phá cho tới cùng việc
khẩu súng phát nổ hay không không mang giá trị đơn giả của một thơng tin.
Đó là khám phá ra rằng các sự vật tiến triển, và luôn là vậy, theo một cách
nào đó, ngồi những ham muốn của độc giả. Người đọc phải chấp nhận kết
quả này, và thơng qua đó cảm nhận sự rung động của số phận. Nếu người ta
có thể định đoạt số phận của nhân vật, điều đó sẽ giống như đi tới quầy hàng
của một hãng du lịch: "Thế nào, ơng muốn tìm thấy Cá voi ở Samoa hay ở
Aleutines? Khi nào? Ơng có muốn bản thân mình giết nó khơng hay là để
Quinquez làm chuyện đó?". Bài học thật sự muốn Moby Dick(7) là cá voi đi
tới nơi mà nó muốn.
Hãy nghĩ tới những đoạn miêu tả của Hugo về trận chiến Wateloo
Những người khốn khổ. Khác với Stendhal người miêu tả trận chiến với con
mắt của Fabrice, kẻ ở bên trong trận chiến và chẳng hiểu gì đang diễn ra,

(5)

Bức tranh Nhà Thờ cũng được biết dưới cái tên Sposalizio. Thuộc về những sáng tác đầu tiên của Raphael. (ND)
Tên một bức tranh của Picasso báo hiệu chủ nghĩa lập thể (ND)
(7)
Moby Dick, tiểu thuyết của Heman Melville. (1951) xuất bản ở Anh với tên gọi The Whale (Cá voi), sau
đó là ở Mỹ với tên Moby Dick. Đó là câu chuyện kể về chuyến đi săn cá voi của thuyền trưởng Achab (ND).
(6)


Hugo miêu tả trận chiến đó với con mát của Thượng đế, ơng nhìn nó từ rên
cao: ơng biết rằng nếu Napopléon đã biết rưàng ở phía bên kia của cao

nguyên Mont - Saint-Jean có một vườn nho (nhưng người hướng đạo của ơng
ta lại khơng nói cho ơng ta biết), thì các độ qn thiết kỵ của Milhaud sẽ
khơng bị nghiền nát dưới chân quân đội Anh: rằng nếu người mục đồng nhỏ
tuổi làm hướng đạo cho Bulow đã gọi ý một con đường khác thì đội qn phổ
có thể sẽ không tới đúng lúc để định đoạt số phận của trận chiến.
Với một cấu trúc siêu liên kết, chúng ta có thể viết lại trận chiến
Waterloo bằng cách tìm sao cho những người Pháp từ Grouchy tới vị trí
người Đức ở Blucher, và có những war games (trị chơi chiến tranh-ND) cho
phép làm điều đó, và rất thú vị. Những sự vĩ đại mang tính bi kịch trong các
trang văn của Hugo nằm ở việc (ngoài ý muốn của chúng ta) là mọi chuyện
diễn ra như nó vốn có. Vẻ đẹp của Chiến tranh và hồ bình là sự giễu cợt mỉa
mai của công tước Anderi được kết thúc bằng cái chết, dù điều đó khơng làm
chúng ta hài lòng. Nỗi đau đáng kinh ngạc mà mỗi lần đọc những bi kịch lớn
mang lại chúng ta, đó là nhân vật của những tác phẩm đó, vốn đáng lẽ có thể
trốn khỏi một số phận cay đắng, do sự yếu mềm hay mù quáng, lại không hiểu
họ hướng về cái gì, và vội vàng lao về vực thẳm mà họ đã đào sẵn bằng chính
bàn tay mình. Tuy nhiên đó chính là cái Hugo nói với chúng ta, sau khi đã đã
chỉ ra cho chúng ta thấy một vài sự trùng hợp ngẫu niên mà Napoléon đáng lẽ
có thể nắm lấy: "Napoléon liệu có thể thắng trận chiến này khơng? chúng ta
đáp rằng khơng. Tại sao? Vì Wellington? Vì Blucher? Khơng. Vì Chúa".
Đó là cái tất cả những câu chuyện lớn kể với chúng ta với nhu cầu thay
thế Chúa bằng số phận, hay bằng những điều luật không cưỡng được của cuộc
sống. Chức năng của những câu chuyện kể "khơng thể thay đổi" chính là điều
này: cưỡng lại mọi ý định của chúng ta đối với việc thay đổi số phận, chúng
buộc chúng ta chạm ngón tay vào cái không thể thay đổi chúng. Bằng cách
làm như thế, dù câu chuyện của chúng ta, và chính bởi vậy chúng ta đọc và
yêu thích chúng. Chúng ta cần bài học nghiêm khắc "mang tính trấn áp" của


các cuốn sách đó. Tính trần thuật siêu văn bản có thể giáo dục chúng ta về sự

tự do và tính sáng tạo. Tốt, nhưng khơng phải là tất cả. Các câu chuyện "đã
được kể" cũng dậy chúng ta cách chết.
Tôi tin rằng việc giảng dạy về Số phận và cái chết là một trong những
chức năng cơ bản của văn học. Cịn có thể có những cái khác, nhưng tôi chưa
nghĩ tới.
Phùng Kiên dịch
(Magazine Littéraire số 11 - 2000)



×