Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xâydựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới (1986 2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.64 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ
1.1. Khái niệm
1.2. Những vấn đề lý luận về dân chủ

8
8
10

Chương 2: XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THỜI KỲ
ĐỔI MỚI (1986 - 2010)

24

2.1. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ trước
đổi mới (1975 - 1985)
2.2. Tình hình đất nước sau 10 năm giải phóng miền Nam và yêu cầu

24

dân chủ hóa xã hội
2.3. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI (12/1986) mở đầu q trình

31

dân chủ hóa


2.4. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ

35

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đến 2010

49

Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT
3.1. Đặc điểm của quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở

73

Việt Nam thời kỳ đổi mới
3.2. Kết quả
3.3. Một số kinh nghiệm bước đầu

73
84
92

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

97
100


1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ khi xã hội có giai cấp và áp bức giai cấp, dân chủ đã trở thành khát
vọng và nhu cầu của quảng đại quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh giành lấy quyền lực chính trị từ tay giai cấp thống trị (chủ nô, phong
kiến, tư sản). Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một phạm trù cơ bản trong lý luận
Mác - Lênin và luôn được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin quan tâm cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng, chỉ có
dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) mới là dân chủ thực sự của nhân
dân lao động, dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản. Trong thế kỷ XX, các
nước xã hội chủ nghĩa đã có những đóng góp to lớn trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa nhưng cũng đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong
quan niệm và xử lý vấn đề dân chủ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu từ cuối những
năm 80 đến đầu những năm 90.
Xây dựng nền dân chủ nhân dân và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam đã được Đảng ta đặt ra từ rất sớm. Từ khi chúng ta bước vào thời kỳ quá
độ lên CNXH, việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn là
mối quan tâm và là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược mà Đảng
ta đã xác định.
Q trình đổi mới từ 1986 đến nay cũng chính là quá trình Đảng nhận
thức ngày càng rõ hơn, khách quan hơn về vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên chúng ta còn những khuyết điểm và yếu kém trong lĩnh vực này
như tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể
nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới; Quốc hội còn lúng túng trong việc
thực hiện chức năng giám sát; bộ máy quản lý nhà nước các cấp còn yếu kém
tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm của một số bộ phận
công chức chậm được khắc phục; mơ hình tổ chức chính quyền các cấp cịn


2

những điểm bất hợp lý; cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu; hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân ở nhiều nơi cịn mang tính hành
chính, hình thức; Dân chủ trong Đảng, trong xã hội còn bị vi phạm; kỷ cương,
kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa
đạt u cầu. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong
một bộ phận cán bộ, cơng chức có chức, có quyền diễn ra nghiêm trọng.
Nhiều tổ chức cơ sở Đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải
quyết vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng cịn thiếu sức thuyết phục.
Cơng tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công
cuộc đổi mới, nhất là vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền. Công tác tổ chức và cán bộ còn
nhiều mặt yếu kém, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Bản thân nhân dân cũng chưa có ý thức đầy đủ về quyền lợi, nghĩa vụ
của mình và chưa nâng cao năng lực tương xứng với yêu cầu của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cuộc đổi mới này ngày càng đặt ra yêu cầu phải gắn kết cơng
cuộc đổi mới tồn diện với xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tính năng động của xã hội và hồn thiện hệ thống
chính trị. Xung quanh vấn đề này có nhiều nhận thức khác nhau; cuộc đấu tranh
dân tộc, giai cấp xung quanh vấn đề dân chủ cũng đang diễn ra phức tạp.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng ở trung tâm lãnh đạo đất nước,
lãnh đạo quá trình dân chủ hố xã hội nhưng cũng có nhiều vấn đề đặt ra cần
lý giải, giải quyết để nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ
đổi mới (1986 - 2010)” làm đề tài luận văn thạc sỹ Lịch sử chuyên ngành



3
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam để góp phần nâng cao nhận thức xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới, thời gian qua đã có nhiều cơng trình khoa học đề cập
đến vấn đề này với các mức độ và phạm vi khác nhau. Các cơng trình này đã
đề cập tới nhiều nội dung, lĩnh vực có liên quan đến quá trình xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Có những cơng trình tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận cho quá trình
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Nhị Lê: V.I. Lênin bàn về
dân chủ. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003; Trần Chí Mỹ, Dỗn Chính,
Đinh Ngọc Thạch (Đồng chủ biên): Vấn đề chủ nghĩa xã hội khoa học trong
tác phẩm của C.Mác-Ph.Ăngghen, V.I. Lênin. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2010).
Có những cơng trình đề cập đến vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
sự so sánh với việc giải quyết vấn đề dân chủ của các nước trên thế giới và
phê phán dân chủ tư sản (Thái Ninh - Hồng Chí Bảo: Dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội 1991; Hồng Chí Bảo - Nguyễn
Thanh Tuấn - Nguyễn Lam Sơn: Chủ nghĩa xã hội dân chủ: Huyền thoại và
bi kịch, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1991; Dương Xuân Ngọc (chủ nhiệm đề tài): So
sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai loại thể chế chính trị: Tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, Kỷ yếu, Hà Nội 2004; Lê Minh Quân: Về
q trình dân chủ hố ở một số nước hiện nay, Tạp chí Thơng tin Khoa học
xã hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, số 10/2006; Lê Minh Quân: Các xu
hướng phát triển mới của thời đại và tác động đối với chính trị, Tạp chí Cộng
sản (điện tử), số 113, tháng 8/2006.
Một số cơng trình khác đã đi sâu nghiên cứu những nội dung cụ thể về
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (Nguyễn Văn Huyên (chủ biên): Đảng cộng sản



4
cầm quyền, nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010; Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông: Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2005; Đồn Minh Huấn: Dân chủ đại diện, dân chủ trực
tiếp và quá trình mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Tạp chí Lý
luận số 8/2004; Hồng Văn Nghĩa: Thực hiện dân chủ trong thời kỳ đổi mới
của nước ta, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8/2002; Nguyễn Thị Huyền Anh:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
Tạp chí Lý luận Chính trị, số 8/2001.
Đặc biệt là đã có nhiều cơng trình tập trung nghiên cứu một cách tổng
thể về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
nước ta dưới góc độ lý luận và thực tiễn (Trần Ngọc Hiên - Nguyễn Văn Kỷ Nguyễn Hữu Tư - Hồ Hữu Vĩnh - Nguyễn Cúc - Nguyễn Văn Thạo: Đề tài
cấp nhà nước KX - 05: Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị của nước ta
trong giai đoạn mới, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội,1992; Nguyễn Đức
Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Tuyến, Nguyễn Văn Thảo, Trần Xuân
Sầm (đồng chủ biên): Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong
giai đoạn mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Tơ Huy Rứa - Hồng
Chí Bảo - Trần Khắc Việt - Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên): Nhìn lại quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2005; Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên): Đổi mới và phát triển ở Việt Nam, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2008).
Dưới góc độ nghiên cứu đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều tác giả tập trung nghiên
cứu một số chuyên đề về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam mà trong đó có
những chuyên đề liên quan đến xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa một
cách khái lược và chung nhất (Bộ Giáo dục và Đào tạo: Một số chuyên đề
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tập I), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,



5
2007; Đại học Quốc gia Hà Nội - Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý
luận chính trị: Một số chuyên đề về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008).
Dù vậy, cho đến nay có thể nói, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
một cách tồn diện và có tính hệ thống các nội dung về Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới dưới
góc độ Lịch sử Đảng. Nhưng những kết quả nghiên cứu của các cơng trình
nêu trên đều là những cứ liệu rất quan trọng trong việc kế thừa và vận dụng để
thực hiện đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới (1986-2010)”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới 1986 - 2010. Đánh giá một cách khách
quan những thành tựu, những hạn chế trong lãnh đạo xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa và tổng kết một số kinh nghiệm bước đầu nhằm góp phần
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra ở Việt Nam trong việc xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục đích nêu trên luận văn có các nhiệm vụ sau:
Làm rõ khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
thời kỳ đổi mới (chủ yếu qua nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng).
Đánh giá một cách khách quan một số thành tựu, hạn chế trong lãnh
đạo xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Rút ra một số đặc điểm và một số kinh nghiệm bước đầu nhằm góp
phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra ở Việt Nam trong việc
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2010).


6
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian: Từ năm 1986 đến năm 2010.
+ Nội dung: Sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới thể hiện toàn
diện trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu q trình
Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị và thực hiện nền dân chủ trên lĩnh vực
kinh tế - xã hội, qua hệ thống quan điểm và những chủ trương, chính sách lớn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác, Lênin: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương
pháp lơgic ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, khảo sát thực tiễn.
6. Cái mới của luận văn
Từ việc phân tích một số vấn đề lý luận chung về dân chủ, làm rõ quá
trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm từng bước xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đánh giá một cách khách quan một số thành tựu hạn
chế trong lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng
sản Việt Nam, luận văn trình bày một số kinh nghiệm bước đầu có giá trị lý
luận và thực tiễn góp phần xây dựng và từng bước và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng
dạy môn học “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam” tại các
trường đại học, cao đẳng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận:
+ Làm rõ cơ sở lý luận của quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
+ Phân tích đường lối xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng
trong thời kỳ đổi mới.


7
+ Rút ra những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục
vụ công tác giảng dạy và học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về dân chủ
Chương 2: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới
(1986 - 2010)
Chương 3: Một số nhận xét


8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DÂN CHỦ
1.1. Khái niệm
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ là từ có gốc từ chữ Hy Lạp “demos” và “kratos”, có nghĩa là
“nhân dân” và “quyền lực” tạo thành; là quyền lực thuộc về nhân dân hay
nhân dân làm chủ quyền lực xã hội. Đến thế kỷ XVIII, người Anh đã dựa vào

ngôn ngữ Hy Lạp cổ để đưa ra thuật ngữ “democracy” có nghĩa là “chính thể
dân quyền” một trong những hình thức chính quyền với đặc trưng là chính
quyền nhà nước phải thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của cơng dân.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã dịch
“democracy” là “dân quyền” (trong thuật ngữ “tư sản dân quyền cách mạng”
-Chính cương vắn tắt) và từ sau những năm 30 thì Hồ Chí Minh lại thường sử
dụng khái niệm “Dân chủ” để diễn đạt bản chất chính trị của chế độ mới mà
Người và Đảng ta đã và đang lãnh đạo nhân dân tiến hành hai cuộc cách mạng
(cách mạng tư sản dân quyền hay cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa) để thiết lập và hoàn thiện nó.
Vậy, dân chủ là dân quyền, tức là quyền lực của cộng đồng người được
nhà nước công nhận là dân (nhân dân) - quyền lực thuộc về nhân dân.

ở đây,

nhân dân không phải là tất cả dân cư. Trong nền cộng hồ Hy Lạp cổ đại, nơ
lệ khơng được xem là một bộ phận nhân dân, họ chỉ như bầy động vật biết nói
và chủ nơ có tồn quyền quyết định số phận của họ. Trong CNTB, nhân dân
lao động được thừa nhận là dân (công dân) nhưng thực chất quyền lực chính
trị cơ bản nhất lại thuộc giai cấp tư sản - giai cấp nắm tư liệu sản xuất chủ yếu
trong xã hội, quyền lực của nhân dân lao động bị cắt xén, bị lừa gạt và mang
tính hình thức.
Dân chủ là khái niệm được sử dụng để chỉ vai trị chủ thể quyền lực
chính trị thuộc về cộng đồng dân cư mà cộng đồng này sở hữu những tư liệu


9
sản xuất chủ yếu trong xã hội. Về tổ chức, dân chủ là hình thức tổ chức nhà
nước mà đặc trưng cơ bản là thừa nhận quyền lực chính trị của nhân dân,
quyền tự do bình đẳng của cơng dân, thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng

đa số nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp nắm tư liệu sản xuất chủ yếu
trong xã hội. Nhân loại đã trải qua nhiều nấc thang trong việc tổ chức quyền
lực xã hội: nền dân chủ chủ nô, nền quân chủ phong kiến, nền dân chủ tư sản,
nền dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa).
1.1.2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản) là khái niệm để chỉ chủ thể
quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội là giai cấp cơng nhân và quảng đại nhân
dân có lợi ích căn bản thống nhất, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân.
Nền dân chủ (chế độ dân chủ) xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam được ra đời bằng
việc chuyển nền dân chủ nhân dân sang làm nhiệm vụ của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa khi chúng ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (ở miền
Bắc từ năm 1954, cả nước từ năm 1975) và ngày càng được củng cố dưới một
hình thức nhà nước thích hợp, nhằm quản lý một cách có hiệu quả quá trình
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới xã
hội xã hội chủ nghĩa và chuẩn bị cho các giai đoạn tiếp theo trên con đường đi
lên chủ nghĩa cộng sản. Từ thực tiễn đó, chúng ta có thể hiểu, nền (chế độ)
dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một tập hợp (hệ thống) các thiết chế nhà
nước, xã hội được xác lập, vận hành và từng bước hoàn thiện nhằm bảo đảm
trên thực tế các quyền lực chính trị thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Hệ thống chính trị (hệ thống dân chủ) xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam chính


10
là hệ thống các giai cấp, các tầng lớp, các cộng đồng xã hội khác và hệ thống
các tổ chức chính trị - xã hội do họ tổ chức nên để thực thi quyền lực của

mình trong xã hội. Hệ thống dân chủ không chỉ là hệ thống các chủ thể quyền
lực, các tổ chức mà còn là hệ thống các mối quan hệ trong hoạt động chính
trị theo một thiết chế nhất định mà mỗi bộ phận trong hệ thống phải thực
hiện những chức năng, nhiệm vụ với những phương thức hoạt động thích
hợp ở mọi cấp độ (Trung ương - địa phương - cơ sở) nhằm tác động và điều
chỉnh mọi quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa các tổ chức, giữa
các dân tộc trong cộng đồng xã hội, giữa các yếu tố xã hội, giữa tập thể và
cá nhân về vấn đề quyền lực, về định hướng, chủ trương, đường lối, chính
sách quy định phương hướng, nội dung, mục tiêu phát triển xã hội. Hệ
thống chính trị là nền tảng chính trị - xã hội ở nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Những vấn đề lý luận về dân chủ
1.2.1. Lý luận Mác - Lênin về dân chủ
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, dân chủ là một hình thức nhà nước và hơn
thế cịn là một chế độ chính trị trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Vì vậy, khơng thể có một chế độ dân chủ, một nhà nước chung chung mà chỉ
có chế độ dân chủ và nhà nước có tính giai cấp. Thích ứng với một nền dân
chủ là một kiểu nhà nước dân chủ và ngược lại. Khi giai cấp và nhà nước thay
đổi thì tính chất của dân chủ cũng thay đổi, khi giai cấp và nhà nước khơng
cịn thì dân chủ với tính cách là một hình thức nhà nước cũng khơng cịn nữa.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cuộc đấu tranh cho dân chủ của giai cấp vơ sản
có ý nghĩa to lớn với cuộc đấu tranh cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Cuộc đấu tranh cho dân chủ của giai cấp vô sản được tiến hành ngay
trong chủ nghĩa tư bản. Dù các quyền tự do, dân chủ mà giai cấp vô sản giành
được trong chủ nghĩa tư bản chưa thể giải phóng cơng nhân và nhân dân lao


11
động khỏi sự áp bức của giai cấp tư sản, nhưng nó tạo ra cho họ thứ vũ khí để

đấu tranh chống lại sự áp bức đó. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, dân
chủ tư sản và những cải cách dân chủ khuôn khổ trong chế độ ấy trở thành
trường học dân chủ để giai cấp vô sản học tập, rèn luyện tinh thần, ý thức và
năng lực thực hành dân chủ. Cuộc đấu tranh cho dân chủ đó càng được thực
hiện có hiệu quả bao nhiêu thì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa càng đến gần
và có khả năng thắng lợi bấy nhiêu. Vì vậy, đấu tranh cho dân chủ ở những
mức độ và tính chất nào cũng đều nằm trong mục tiêu chung của tiến trình
giải phóng giai cấp vơ sản và tồn xã hội.
Cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vơ sản khỏi sự áp bức và bóc lột của
giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản trước hết phải là cuộc đấu tranh để thiết
lập chế độ dân chủ mới. Mác và Ăngghen chỉ rõ, bước thứ nhất trong cuộc
cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành
lấy dân chủ. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị và giành lấy dân chủ
có nghĩa là giai cấp vơ sản trở thành giai cấp nắm chính quyền và nhờ đó mà
“tước đoạt lại những kẻ đi tước đoạt”.Khi những tư liệu sản xuất đã tập trung
trong tay những cá nhân đã liên hiệp lại với nhau thì dân chủ vơ sản ngày
càng hồn thiện và sẽ tự tiêu vong trên con đường đi lên chủ nghĩa cộng sản.
Muốn có được những quyền dân chủ thực sự trong chính trị thì phải
giành lấy quyền dân chủ trong kinh tế. Nhưng giai cấp vô sản khơng có khả
năng làm cách mạng kinh tế nếu khơng được giáo dục trong cuộc đấu tranh
dân chủ. Bởi vậy, sau khi giành được chính quyền về tay mình, giai cấp vơ
sản thơng qua nhà nước của mình từng bước tổ chức để toàn dân tham gia
quản lý nhà nước một cách dân chủ những tư liệu sản xuất đã tước đoạt được
của giai cấp tư sản; thu hút tất cả quần chúng lao động - cả vô sản, nửa vô sản
và tiểu nông - tham gia việc tổ chức một cách dân chủ đội ngũ của họ, mà
trước hết là chính đảng tiền phong cách mạng của nó. Chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa có ý nghĩa lớn lao trong cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp


12

cơng nhân và nhân dân lao động. Nhưng nó lại khơng phải là một giới hạn
khơng thể vượt qua, nó chỉ là một giai đoạn trên con đường từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển say giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, V.I. Lênin đã kế thừa và phát triển toàn diện lý luận dân chủ vô sản
của chủ nghĩa Mác. Người cho rằng: Khơng có con đường nào khác dẫn
đến chủ nghĩa xã hội, ngoài cách kinh qua chế độ dân chủ, qua tự do chính
trị. Chủ nghĩa tư bản và nhất là chủ nghĩa đế quốc, xét cho cùng, làm cho
dân chủ ngày càng trở thành một ảo tưởng. Tuy vậy, nó lại làm nảy sinh
những nguyện vọng dân chủ trong quần chúng, làm gay gắt thêm mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc muốn phủ nhận dân chủ và quần chúng khao
khát dân chủ. Theo V.I. Lênin, đấu tranh cho dân chủ trở thành một bộ phận
hữu cơ của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cho chủ nghĩa xã hội. Người
nhấn mạnh: Khơng có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội khơng thể thực
hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: 1) Giai cấp vô sản khơng thể hồn
thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị
cho cuộc cách mạng đó thơng qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; 2)
Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ
khơng dẫn nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện
được đầy đủ chế độ dân chủ.
Từ thực tiễn bước đầu của chính quyền Xơ Viết, V.I. Lênin đã nhiều lần
nói đến vai trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và của nhà nước xây
dựng chủ nghĩa nói riêng trong nhiệm vụ thu hút quần chúng nhân dân vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội để tiến hành cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa
xã hội trong những điều kiện mới, với những nội dung, hình thức mới. Giai
cấp vơ sản thơng qua nhà nước của mình mà tổ chức để quần chúng tham gia
thực sự bình đẳng và rộng rãi vào mọi công việc nhà nước. Không phải cứ
tuyên truyền về dân chủ hay giao trách nhiệm cho “những người đại diện”



13
nhân dân là đủ, mà phải xây dựng chế độ dân chủ từ cơ sở, dựa vào ý kiến của
quần chúng, sự tham gia của quần chúng vào mọi công việc của nhà nước.
Theo Lênin, Nhà nước vô sản được tổ chức và hoạt động nhằm mục
tiêu dân chủ, theo các nguyên tắc dân chủ và phương pháp dân chủ. Những
nội dung dân chủ ấy phải được đảm bảo bằng hiến pháp và toàn bộ hệ thống
pháp luật. Người nhấn mạnh: Dân chủ là sự thống trị của đa số. Chỉ có thể gọi
cuộc bầu cử là dân chủ khi nào nó là phổ thơng, trực tiếp và bình đẳng. Chỉ có
những uỷ ban nào do tồn dân bầu ra trên cơ sở quyền phổ thông đầu phiếu
mới là những uỷ ban dân chủ. Thực hiện quyền bãi miễn tức là thực hiện
quyền dân chủ. Từ chối không thực hiện quyền bãi miễn, trì hỗn thực hiện
quyền đó, hạn chế quyền đó khi cần thiết đều là phản lại dân chủ, là từ bỏ
nguyên tắc chủ yếu và nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chế
độ nhân dân bầu cử ra quan toà là điều kiện cần thiết để cơ cấu toà án được
dân chủ triệt để. Trên cơ sở đó, cần phải đấu tranh để đảm bảo dân chủ trong
quá trình xét xử.
Chế độ dân chủ của giai cấp vô sản là một chế độ trong đó tồn bộ
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, về “số đông”. Bản chất dân chủ của
nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ở việc thu hút quần chúng vào cơng việc
quản lý nhà nước. Vì vậy, cơng việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải do bản
thân quần chúng tổ chức ra và tham gia quản lý, chứ không dừng lại ở cơ
quan đại diện và đại biểu đại diện. Quần chúng vô sản và nửa vô sản ngày
càng nắm vững nghệ thuật quản lý nhà nước và điều khiển tồn bộ chính
quyền nhà nước. Đó cũng là con đường dẫn đến sự tiêu vong của nhà nước
trong quá trình tiêu vong của nhà nước. Lênin đã viết rằng:
Chủ nghĩa xã hội dẫn tới sự tiêu vong của mọi nhà nước, và do đó
dẫn tới sự tiêu vong của mọi chế độ dân chủ, nhưng không thể thực
hiện được chủ nghĩa xã hội bằng cách nào khác thơng qua chun
chính vơ sản, nền chun chính này kết hợp với việc dùng bạo lực



14
để chống lại giai cấp tư sản, tức thiểu số trong dân chủ, với việc phát
triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là với việc làm cho tồn
thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự
rộng rãi vào mọi công việc của nhà nước và vào mọi vấn đề phức
tạp trong việc thủ tiêu chủ nghĩa tư bản [27, tr.93].
Đặc biệt, V.I.Lênin nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tìm ra những hình
thức phù hợp để thực hiện dân chủ. Người viết: Phát triển dân chủ đến cùng,
tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức
ấy trong thực tiễn,... đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu
tranh vì cách mạng xã hội.
Theo lý luận của Lênin, xây dựng chế độ dân chủ đi đôi với việc chống
nạn quan liêu. Quan liêu là trái với dân chủ, là đối lập với dân chủ. V.I. Lênin
viết: Chế độ dân chủ vô sản là chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện
pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp
ấy tới cuối cùng, tới chỗ hoàn toàn phá huỷ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn
toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân. Lênin đã nêu lại những gợi
ý của C. Mác và Ph. Ăngghen khi các ông tổng kết Công xã Pari về các biện
pháp chủ yếu để chống chế độ quan liêu. Theo đó, những nhân viên của nhà
nước vơ sản khơng chỉ được bầu ra mà cịn có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào,
lương cho họ không cao hơn lương công nhân; thi hành ngay những biện pháp
khiến tất cả mọi người đều làm chức năng kiểm sát và giám thị, khiến tất cả
mọi người đều tạm thời biến thành “quan liêu” và do đó, khiến khơng một ai
có thể biến thành quan liêu được.
V.I. Lênin đã đi sâu nghiên cứu thực tiễn của dân chủ Xô Viết và đã chỉ
ra những biểu hiện dân chủ của chế độ dân chủ vơ sản. Tính chất xã hội của
chế độ dân chủ vô sản - theo Lênin - là ở chỗ, một là, các cử tri đều phải là
quần chúng lao động; hai là, mọi thủ tục và những sự hạn chế có tính chất
quan liêu đều bị xoá bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu



15
cử, hồn tồn có quyền tự do bãi miễn những người mà họ đã bầu ra; ba là,
hình thành một tổ chức quần chúng tốt nhất của đội tiền phong của những
người lao động để làm thế nào mà toàn thể nhân dân thực sự được làm chủ
trong thực tế. Ngoài ra, cần xây dựng chế độ tự quản như một hình thức
của dân chủ vơ sản. Từng bước thiết lập một nền tự quản địa phương hết
sức rộng rãi.
Để phát huy được vai trị động lực chính trị của nhân dân, theo Lênin
cần thực hành một chế độ dân chủ đầy đủ hơn, ít tính chất hình thức hơn và dễ
dàng hơn. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản,
hình thức chính trị của nhà nước là chế độ dân chủ triệt để nhất. Chế độ dân
chủ có một ý nghĩa lớn lao trong cuộc đấu tranh tự giải phóng của giai cấp
công nhân chống bọn tư bản. Nhưng chế độ dân chủ hồn tồn khơng phải là
một giới hạn khơng thể vượt được, nó chỉ là một giai đoạn trên con đường từ
chế độ phong kiến đến tư bản và từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa cộng sản.
Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể đưa lại một chế độ dân chủ thực sự
hồn bị và nó càng hồn bị bao nhiêu thì càng mau trở thành thừa và tự tiêu
vong bấy nhiêu.
Việc xây dựng và thực hiện chế độ dân chủ còn gắn liền với nhiệm vụ
xây dựng và phát triển kinh tế. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ
dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân
chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu...
Dân chủ của giai cấp vơ sản cịn là mục tiêu và điều kiện của cuộc đấu
tranh cho các quyền tự quyết của các dân tộc. Không được giành một tí đặc
quyền nào cho bất cứ dân tộc nào! Khơng được có một hành động áp chế nhỏ
nào, khơng được có một sự bất cơng nhỏ nào đối với một dân tộc thiểu số! đó là những nguyên tắc của nền dân chủ công nhân.
Sau cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (1917), với sự ra đời
của Nhà nước Nga Xô viết, chế độ dân chủ vô sản lần đầu tiên được xác lập,



16
quyền dân chủ của nhân dân, mà trước hết là nhân dân lao động không chỉ
được thừa hưởng về mặt pháp lý mà còn trở thành hiện thực trong đời sống.
Chế độ dân chủ vô sản nước Nga Xô viết thực hiện dân chủ với tuyệt đại đa
số, trấn áp thiểu số bọn áp bức và bóc lột nhân dân, thừa nhận quyền tự do và
bình đẳng thực sự của nhân dân trong việc tham gia công việc nhà nước, từ
việc xác định nội dung và hình thức đến mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước.
Chế độ dân chủ ở nước Nga Xơ viết đã thực sự có giá trị mở đường cho một
mơ hình dân chủ hố kiểu mới trong thời đại mới - thời đại của cách mạng vơ
sản. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế, khuyết điểm và từ bài học thành
công và thất bại khi sửa chữa nó đã để lại nhiều suy ngẫm và kinh nghiệm
phong trào cách mạng thế giới nói chung và cho các nước xã hội chủ nghĩa
đang tiếp tục cải cách, đổi mới nói riêng sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở
Liên Xô và Đông Âu.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong
suốt cuộc đời hoạt động của Người. Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều khía cạnh
khác nhau của dân chủ.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã xác định đấu tranh
cho dân chủ là một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Theo Hồ
Chí Minh, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. “Nước ta là nước dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công
việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân… Nói tóm lại, quyền thực
hành và lực lượng đều ở nơi dân” [35, tr.698]. Dân chủ là “của báu”, khơng
phải tự nhiên mà có, mà phải là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian
khổ của nhân dân mới giành được. Dân chủ là quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền.
Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân

chủ”[37, tr.218 - 219]. Tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể ở mỗi nước mà cơ


17
cấu của nhân dân có các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Hồ Chí Minh đã viết:
“Chế độ Xơ viết ở Liên xô và chế độ nhân dân đại biểu đại hội ở các nước
dân chủ mới đại khái cũng như vậy. Ở Liên Xơ khơng có giai cấp tư sản nữa.
Xơ viết, tức là đại biểu cho tồn thể nhân dân: công nhân, nông dân trong các
nông trường tập thể và tầng lớp trí thức.
Ở Trung Quốc và ở nước ta, thì ngồi liên minh cơng nơng, cịn có giai
cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc tham gia” [37, tr.218].
Dân chủ và thực hành dân chủ là động lực của cách mạng. Chỉ có dân
chủ mới tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân phát huy sáng kiến, mới giải
phóng được những tiềm năng sáng tạo của nhân dân và trở thành động lực cho
sự phát triển và tiến bộ của đất nước. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở
cán bộ phải phát huy vai trò làm chủ của nhân dân vì theo Người: dễ trăm lần
khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong. Đó chính là tư tưởng
“lấy dân làm gốc” của ông cha ta được Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên CNXH ở nước ta.
Dân chủ còn là phương thức, phương pháp và là chìa khố giải quyết
hết thảy những vấn đề của cách mạng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, theo Hồ Chí Minh,dân chủ “là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động
thực hành quyền thống trị của mình” [37, tr.218].
Dân chủ là của quý nhất của nhân dân, còn chun chính là cái khố,
cái cửa đề phịng kẻ phá hoại, lấy đi của quý nhất ấy. Dưới các chế độ phong
kiến và tư bản, chuyên chính là của số ít người đối với đa số nhân dân, còn
dưới chế độ dân chủ vơ sản, chun chính là đại đa số nhân dân chuyên chính
với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân
chủ của nhân dân.
Khi xem xét vấn đề dân chủ, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đứng vững trên

quan điểm duy vật lịch sử và phải vận dụng sáng tạo vào điều kiện của
phương Đơng. Người nêu một ví dụ thật lý thú:


18
Theo Khổng giáo thì các nước Nga, Pháp, Trung Quốc, Mỹ và các
nước dân chủ là những quốc gia ở đó thiếu qui tắc về đạo đức và
những thần dân nổi dậy chống nhà vua đều là những tên phản loạn.
Nếu Khổng tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ơng khăng khăng giữ
những quan điểm ấy thì ơng trở thành phần tử phản cách mạng. Cũng
có khả năng là siêu nhân này chịu thích ứng với hồn cảnh và nhanh
chóng trở thành người kế tục trung thành của Lênin [32, tr.453 - 454].
Dân chủ là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của cơng dân. Hồ
Chí Minh đã viết: “Dưới chế độ dân chủ cộng hồ thì khác hẳn. Nhân dân có
nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi”[37, tr.219]. Hoặc: “Nhân dân có quyền lợi
làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận của cơng dân”[37, tr.452]
Cùng với tập trung, dân chủ là một nội dung của nguyên tắc “dân chủ
tập trung” trong hoạt động của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh
đã phân tích mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung và chỉ rõ: “Nguyên tắc ấy
tức là dân chủ tập trung. Nghĩa là:
A.Tập trung trên nền tảng dân chủ...
B. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung ”[37, tr.240 -241]
Theo Hồ Chí Minh, “Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ
chức cơ bản của các cơ quan nhà nước trong chế độ ta, nó đã được thể hiện
trong tổ chức của nhà nước của ta”[39, tr.595]. Người đã chỉ rõ: “Có việc gì
thì giải quyết thế nào?
Từ tiểu tổ đến đại hội đều theo cách dân chủ tập trung. Nghĩa là có việc gì
thì ai cũng được bàn, khi bàn rồi thì phải bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo
hơn thì được. Ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi thì giao cho hội uỷ viên làm, khi ấy
thì tất cả hội viên phải theo mệnh lệnh ấy. Ấy là tập trung. Ai không nghe lời thì

uỷ viên có quyền phạt” [32, tr.306]. Đồng thời Người còn khẳng định:
Tập thể lãnh đạo là dân chủ.
Cá nhân phụ trách là tập trung.


19
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung.
Làm việc mà khơng theo cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung
[35, tr.505]
Dân chủ là một thể chế quốc gia, một hình thái nhà nước mà trong đó
nhân dân là chủ thể tối cao của nó. Hồ Chí Minh đã phân chia các nước thành
các quốc gia dân chủ hoặc phản dân chủ. Với nước ta, Người nói: “Ngày nay
nước ta là dân chủ cộng hồ...” [35, tr.640]. Là một hình thái nhà nước dân
chủ, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, nhà nước đó vừa mang nội dung giai
cấp của giai cấp cơng nhân, vừa mang tính chất nhân dân. Người đã nói: “Nhà
nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân trên nền tảng liên minh công nông,
do giai cấp công nhân lãnh đạo...” [39, tr.586]. Nhà nước đó phải đồng thời
thực hiện dân chủ với nhân dân và thực hiện chuyên chính với kẻ thù của
nhân dân. Người chỉ rõ: “Phải luôn luôn củng cố và tăng cường Nhà nước dân
chủ nhân dân, kiên quyết giữ vững chuyên chính đối với kẻ thù của dân tộc,
của giai cấp và thực hiện dân chủ thật sự đối với nhân dân” [41, tr.494]. Hồ
Chí Minh ln xem “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính
chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân” [39, tr.592].
Dân chủ là nội dung địi hỏi phải chống tham ơ, lãng phí, quan liêu. Vì
vậy, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là dân chủ”
[36, tr.495]. Theo Hồ Chí Minh để chống được tham ơ lãng phí và quan liêu
thì cần phải dựa vào lực lượng quần chúng. Người nói “Dân chủ là dựa vào
lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho nên phong trào
chống tham ơ, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì
mới thành cơng” [36, tr.495].

Dân chủ là một thể chế hành chính mà trong đó chính phủ là đày tớ
của dân và dân là chủ nên dân có quyền phê phán chính phủ. Hồ Chí Minh
viết: “Hành chính: chính phủ cộng hồ dân chủ là gì? Là đày tớ chung của
dân, từ chủ tịch tồn quốc đến làng. Dân là chủ thì chính phủ phải là đày tớ.


20
Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu chính phủ làm
hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ. Nhưng khi dân dùng đày tớ làm
việc cho mình, thì phải giúp đỡ chính phủ. Nếu chính phủ sai thì phải phê
bình, phê bình nhưng khơng phải là chửi” [35, tr.60]. Người cịn nói: “Tơi
xin nói lại,... bây giờ chúng ta là dân chủ. Dân chủ là thế nào? Là dân làm
chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Uỷ viên này khác là
làm gì? làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan
cách mạng” [38, tr.375].
Dân chủ là một lực lượng quốc tế để đấu tranh cho hồ bình, độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh viết:
Phe dân chủ do Liên Xơ lãnh đạo, gồm nước xã hội chủ nghĩa, các
nước dân chủ mới ở Châu Âu và ở Châu Á. Nó gồm cả các nước
dân tộc bị áp bức đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược
và các đoàn thể dân chủ cùng những nhân sĩ dân chủ ở các nước tư
bản. Phe dân chủ là một lực lượng rất mạnh và ngày càng mạnh
thêm [36, tr.168].
Ngược lại “phe phản dân chủ” ln ln tìm mọi cách phá hoại dân
chủ, phá hoại hồ bình, độc lập của các dân tộc và tiến bộ nhân loại. Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ là một trong những yêu cầu gắn liền với
hồ bình, thống nhất và độc lập cho các dân tộc. Với Việt Nam, Người chỉ rõ:
Vấn đề hồ bình, thống nhất, độc lập dân tộc và dân chủ là những
vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau. Khơng củng cố hồ bình
thì khơng thể nào thống nhất đất nước Việt Nam bằng tổng tuyển

cử. Và ngược lại, nếu không thực hiện thống nhất đất nước bằng
tổng tuyển cử thì cũng khơng thể nào đặt cơ sở vững chắc cho hồ
bình [37, tr.519].
Dân chủ là một nhiệm vụ gắn liền với phê bình và tự phê bình trong xã
hội và trong sinh hoạt nội bộ các tổ chức chính trị xã hội của xã hội. Trên cơ


21
sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và từ thực tiễn xây dựng chế độ dân
chủ mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã rút ra nhận xét: “Dân chủ là dân chủ
chân chính, xây dựng, thật thà phê bình. Cơng nhân có quyền phê bình cán
bộ, phê bình lẫn nhau. Thật thà phê bình là dân chủ chân chính, chứ khơng
phải dân chủ q trớn ” [38, tr.342]. Hồ Chí Minh cho rằng: “Phê bình và tự
phê bình là vũ khí rất cần thiết và rất sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai
lầm và phát triển ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng ta và dân ta ngày
càng tiến bộ” [40, tr.614]
Dân chủ là một phương thức quản lý xã hội có hiệu quả. Hồ Chí Minh
đã vận dụng lý luận dân chủ vào quản lý xã hội một cách sáng tạo, góp phần
đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Người chỉ rõ:
Quản lý xí nghiệp phải dân chủ. Các chú có biết dân chủ là thế nào
không? Là cán bộ Đảng, Cơng đồn, Thanh niên lao động, nhất là cán bộ
kỹ thuật phải tự phê bình thật thà, phê bình xây dựng. Cơng nhân cũng tự
phê bình chu đáo. Như thế mới đồn kết được, có đồn kết được cơng
nhân và cán bộ mới đi đến cải tiến quản lý được tốt [39, tr.396 - 397].
Dân chủ là con đường để phát huy vai trò động lực to lớn của nhân
dân. Trong mọi thời đại nhân dân đã làm nên lịch sử của mình. Nhưng vai trị
đó chỉ có thể được phát huy đầy đủ khi nhân dân thực sự làm chủ tự nhiên, xã
hội và bản thân mình. Như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “... thực hành dân
chủ là cái chìa khố vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Trong mọi cơng
việc, ngay từ khi lập kế hoạch và suốt cả thời gian thực hiện, phải mạnh dạn

phát động quần chúng, làm cho mọi người thấm nhuần tinh thần làm chủ tập
thể” [42, tr.249 - 250]. Trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã phân tích, “Mặt
trận hồ bình, Dân chủ là Mặt trận thống nhất của tất cả nhân dân thế giới u
chuộng hồ bình , đấu tranh cho hồ bình” [36, tr.452].
Dân chủ là u cầu của nhiệm vụ xây dựng Đảng và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng trong sự nghiệp cách mạng. Để có dân


22
chủ, thì trước hết “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”, cịn ngồi xã hội
thì “việc gì cũng hỏi dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc”, “đưa mọi vấn đề
cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. Dân chủ là dựa vào lực
lượng của quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Đối với Đảng, Hồ Chí
Minh thường xuyên yêu cầu: “cán bộ và đảng viên phải nâng cao tinh thần
phụ trách trước Đảng và trước quần chúng... Phải thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân” [40, tr.311] Người nhắc nhở: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân” [42, tr.511]. Quá trình thực hiện xây dựng Đảng, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, càng phải thực hiện dân chủ ở trong Đảng theo nguyên tắc dân chủ
tập trung nhằm giữ gìn và xây dựng sự đồn kết của Đảng “như giữ gìn con
ngươi trong mắt mình”.
Dân chủ là phát huy vai trị của các đồn thể nhân dân trong chế độ mới.
Hồ Chí Minh đã viết: “Đồn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh
vực quyền lợi của dân, liên lạc mật thiết với nhân dân, với chính phủ” [36, tr.66].
Người cịn nhấn mạnh rằng: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng
như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một
trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam” [40, tr.605].
Dân chủ là chế độ mà trong đó nhân dân là người chủ sáng tạo trên

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh viết: “Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân là người chủ mà chính phủ là người đày tớ trung thành
của nhân dân” [37, tr.499]. Người đã chỉ rõ:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.


23
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [35, tr.698].
Dân chủ là những giá trị tiến bộ gắn liền với lịch sử phát triển của
nhân loại. Không phải ngẫu nhiên, trong Tuyên ngôn Độc lập đọc ngày 2
tháng 9 năm 1945 trước quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh đã trích ra
những “Lời bất hủ” trong “Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ” và
“những lẽ phải không ai chối cãi được” trong “Bản Tuyên ngôn nhân quyền
và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791” để rồi Người tuyên bố: “Dân
ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước
Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà
lập nên chế độ Dân chủ Cộng hồ” [31, tr.3].
Từ các khía cạnh chủ yếu được nêu trên đã toát lên một quan niệm
chung nhất của Hồ Chí Minh về dân chủ. Đó là quan niệm về vai trò chủ thể,
vai trò động lực của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng tháng Tám (1945),
lập nên Nhà nước dân chủ cộng hoà, mở ra kỷ nguyên mới cho q trình dân

chủ hố ở Việt Nam. Hơn nửa thế kỷ qua, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta từng được xây dựng và hoàn thiện dựa trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong q trình đổi mới ở nước ta hiện
nay, dân chủ và dân chủ hố, một mặt địi hỏi sự kế thừa và vận dụng sáng tạo
những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ; mặt khác, địi hỏi sự tổng kết và khái qt những giá trị có tính phổ biến
trong tư tưởng và thực tiễn dân chủ hoá của nhân loại để làm phong phú thêm
lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin - cơ sở lý luận
cho q trình dân chủ hố đất nước trong thời kỳ đổi mới.


24
Chương 2
XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THỜI KỲ
ĐỔI MỚI (1986 - 2010)
2.1. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ
trước đổi mới (1975 - 1985)
2.1.1. Quá trình nhận thức và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam thời kỳ trước đổi mới
Từ tháng 4 năm 1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai
đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Do đó, hệ thống
chính trị của nước ta (khi đó được gọi là hệ thống chun chính vơ sản)
cũng chuyển sang giai đoạn phát triển mới: từ hệ thống chuyên chính dân
chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính cơng nơng sang làm
nhiệm vụ của hệ thống chun chính vơ sản; từ hoạt động của hệ thống
chun chính vơ sản trong phạm vi nửa nước (miền Bắc) mở rộng sang
hoạt động trong phạm vi cả nước.
Bước sang giai đoạn mới, nền dân chủ nước ta (khi đó được gọi là chế
độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa) hoạt động trong hoàn cảnh mới với các

đặc điểm như sau:
Cả nước hoà bình, độc lập, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, có
nền chun chính vơ sản đã được thử thách, có khối liên minh cơng nơng
vững chắc làm nền tảng cho Mặt trận Dân tộc thống nhất (sau này là Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam) và chính quyền cách mạng của nhân dân. Tuy nhiên, chỉ
vài năm sau khi cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta rơi
vào tình thế vừa có hồ bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của các thế lực bành trướng bá quyền, đồng thời, phải sẵn sàng
đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh quy mô lớn.


×