1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhằm tăng cường lãnh đạo, quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động
xuất bản, ngày 25/4/2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 42CT/TW về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản; Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12, khóa IX có kết luận về tăng
cường cơng tác tư tưởng trong tình hình hiện nay, Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 5, khóa X ngày 01/8/2007 có nghị quyết về cơng tác
tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Quốc hội, Chính phủ, các bộ,
ngành ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa việc thực
hiện các nghị quyết nêu trên. Gần đây nhất, ngày 26/01/2010, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ban hành ba quyết định, số 281/QĐ-TW quy định về việc
chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng đối với các vấn đề quan trọng, phức
tạp, nhạy cảm trong nội dung xuất bản phẩm; số 282/QĐ-TW quy định trách
nhiệm, quyền hạn và việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ
lãnh đạo nhà xuất bản và số 283/QĐ-TW quy định về sự phối hợp giữa Ban
Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông với
các cơ quan đảng, cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan nhà nước, tổ chức đồn
thể trong cơng tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản, đã cho thấy vị trí, vai
trị và tầm quan trọng của hoạt động xuất bản hiện nay.
Bên cạnh những thuận lợi và thành cơng, hoạt động xuất bản hiện nay
cịn nhiều khó khăn, hạn chế cả về chủ quan lẫn khách quan. Hiệu quả hoạt
động, năng lực và sức cạnh tranh của các nhà xuất bản trong nước nói chung
và Nhà xuất bản Trẻ nói riêng ngày càng yếu thế hơn trước xu hướng tham gia
mạnh mẽ của khu vực tư nhân, nhà xuất bản và doanh nghiệp nước ngồi; tình
trạng cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm tác quyền, làm “sách giả”, “sách
lậu” vẫn chưa có giải pháp xử lý triệt để; khủng hoảng tài chính và suy giảm
kinh tế thế giới ít nhiều ảnh hưởng đến sức mua của bạn đọc; vấn đề cơ cấu tổ
2
chức, bố trí nhân sự, quy mơ và loại hình hoạt động còn nhiều ý kiến khác
nhau; sự đầu tư cho hoạt động của các nhà xuất bản còn nhiều bất cập, là
công cụ thực hiện công tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước, nhưng những ưu
đãi về cơ chế, chính sách (vốn, cơ sở vật chất, thuế, nguồn nhân lực…) chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; hoạt động của các nhà xuất bản ít nhiều
cịn những tồn tại, hạn chế cần điều chỉnh kịp thời, chiến lược phát triển của
Nhà xuất bản Trẻ còn đang trong quá trình xây dựng, đặt ra những vấn đề về
lý luận và thực tiễn cần giải quyết.
Vì thế, tơi chọn đề tài “Hiệu quả kinh tế - xã hội của Nhà Xuất bản
Trẻ” làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số tác phẩm kinh điển đề cập đến vấn đề lý luận, nhưng
chưa đi sâu vào lĩnh vực xuất bản; các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Đồn), hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật như Luật Xuất bản, Bộ luật Dân sự (phần
về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao cơng nghệ), Luật Sở hữu trí tuệ và các
văn bản hướng dẫn thực hiện, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
như Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật... có đề
cập đến vấn đề xuất bản và đang từng bước hồn thiện; một số thơng tin
chun ngành được giới thiệu trên Tạp chí Xuất bản Việt Nam, tài liệu, giáo
trình của các Học viện, Trường đại học, các cuộc hội thảo khoa học, báo cáo
chuyên đề, báo cáo hàng năm được trình bày trong các hội nghị của Trung
ương, thành phố và các đơn vị (Cục Xuất bản, Thành ủy thành phố Hồ Chí
Minh (sau đây gọi tắt là Thành ủy), Thành đồn thành phố Hồ Chí Minh (sau
đây gọi tắt là Thành đoàn), các nhà xuất bản, cơng ty phát hành sách)… cũng
có đề cập ít nhiều đến vấn đề này.
Tuy nhiên, các văn bản, tài liệu trên chỉ thể hiện ở phạm vi tổng thể ngành
xuất bản hoặc một địa phương; cũng có khi là dưới góc độ lãnh đạo của Đảng,
3
quản lý của Nhà nước hay một khía cạnh cụ thể của hoạt động xuất bản (biên tập,
in hay phát hành); có những tư liệu cịn rời rạc, chưa cập nhật đầy đủ, kịp thời
theo biến động tình hình, hoặc thiếu khả thi, chưa được áp dụng, thực hiện một
cách triệt để trong thực tiễn. Mặt khác, Chiến lược phát triển của Nhà xuất bản Trẻ
cịn trong q trình xây dựng, Thành ủy và cơ quan quản lý nhà nước tại địa
phương đang chuẩn bị sơ kết 5 năm thực hiện chỉ thị 42/CT-TW.
Do vậy, cho đến nay, việc nghiên cứu chuyên sâu về hiệu quả kinh tế xã hội của Nhà Xuất bản Trẻ chưa có tác giả nào thực hiện và nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu về
hoạt động xuất bản, luận văn tìm hiểu thực trạng hoạt động, nhất là hiệu quả
kinh tế - xã hội của Nhà Xuất bản Trẻ 5 năm qua, từ đó đề ra phương hướng,
giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của Nhà Xuất bản Trẻ
trong thời gian tới, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ kinh
tế - xã hội của thành phố, cơ quan chủ quản và của chính Nhà Xuất bản Trẻ
theo tinh thần Chỉ thị 42-CT/TW, các nghị quyết, quyết định của Đảng.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Khái quát những vấn đề lý luận về xuất bản, nhà xuất bản, hiệu quả
kinh tế - xã hội của nhà xuất bản, những yếu tố tác động đến hiệu quả kinh tế
- xã hội của nhà xuất bản.
+ Nghiên cứu, giới thiệu, đánh giá thực trạng hiệu quả kinh tế - xã hội
và những vấn đề rút ra qua quá trình hoạt động của Nhà xuất bản Trẻ.
+ Xác định phương hướng và hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế - xã hội của Nhà xuất bản Trẻ những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn lấy hoạt động của Nhà xuất bản Trẻ, một đơn vị doanh nghiệp
trực thuộc Thành đoàn, làm đối tượng nghiên cứu.
4
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hiệu quả kinh tế - xã hội của Nhà
Xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi khảo sát từ 2004 đến 2009
(năm 2004 là thời điểm Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 42CT/TW, Việt Nam tham gia công ước Berne) và xây dựng phương hướng, giải
pháp từ nay đến 2015, tầm nhìn 2020.
Giới hạn về không gian: khảo sát hoạt động của Nhà xuất bản Trẻ trong
mối liên hệ, so sánh với các nhà xuất bản trong và ngoài thành phố Hồ Chí
Minh; khảo sát thị trường hoạt động của Nhà xuất bản Trẻ, trọng tâm là thị
trường truyền thống và thông qua các đối tác liên kết, phát hành xuất bản
phẩm của Nhà xuất bản Trẻ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp
nghiên cứu đặc trưng của Kinh tế chính trị Mác - Lênin, gắn với tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (trong luận văn
này gọi tắt là Đảng) hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, đánh giá, giới thiệu một số bí quyết, kinh nghiệm của
cá nhân và đồng nghiệp trong quá trình hoạt động thực tiễn để làm rõ vấn đề
nghiên cứu, và đề xuất giải pháp thiết thực, hiệu quả.
6. Ý nghĩa khoa học của luận văn
- Về lý luận:
Luận văn sẽ đóng góp cùng địa phương, cơ quan chủ quản trong
việc nêu lên những quan điểm, thông tin mới trong lĩnh vực xuất bản, góp
phần nâng cao hiệu quả cơng tác tư tưởng của Đảng cũng như hiệu quả
hoạt động của các nhà xuất bản, nhất là trong điều kiện hội nhập, cạnh
tranh gay gắt, cũng như cuộc đấu tranh mạnh mẽ về các vấn đề tư tưởng,
lý luận hiện nay.
5
- Về thực tiễn:
Việc nghiên cứu góp phần giải quyết những khó khăn, hạn chế hiện tại,
phát huy những mặt tích cực, tìm ra ngun nhân và bài học kinh nghiệm, làm
cơ sở định ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, tạo
sự ổn định và phát triển bền vững cho Nhà Xuất bản Trẻ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn bố cục gồm 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NHÀ XUẤT BẢN
1.1. HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
1.1.1. Vài nét về lịch sử ngành xuất bản, in và phát hành
Lịch sử ngành xuất bản gắn liền với lịch sử ngành in, đã có từ lâu đời
trên thế giới. Kỹ thuật in xuất hiện từ thế kỷ I, thời Đông Hán ở
Trung Quốc
. Đến
đời Đường thế kỷ IX, bộ Kinh Kim Cương được in bằng bản in khắc khá thuần
thục, sau đó hình thành nên các trung tâm in khắc ở vùng Tứ Xuyên. Những
năm 1041 - 1049, người ta đã sáng tạo ra kỹ thuật in bằng cách ghép con chữ
khiến cho nghề in sách thuận tiện và linh hoạt. Triều Tiên là nước đầu tiên đúc
tiền và đúc ra các con chữ bằng sắt, đến thế kỷ XIII - XV đúc hơn 100.000
con chữ. Từ 1435 đến 1450, ở Đức xuất hiện con chữ bằng hợp kim chì, các
loại máy in và chế được mực in từ chất liệu thực vật. Năm 1455, đã in thành
cơng cuốn “Thánh Kinh 42 dịng” nổi tiếng. Từ đó, kỹ thuật in bằng con chữ
được truyền bá rộng rãi ở Châu Âu. Sang thế kỷ XIX, các loại máy in, máy
đúc chữ được phát minh và phát triển, nâng cao hiệu suất, chất lượng sản
phẩm. Đến 1904, người Mỹ phát minh ra bản in bằng cao su, chất lượng tốt.
Cùng với cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ in phát triển nhanh chóng.
Ở Việt Nam, in bằng bản khắc gỗ xuất hiện từ thế kỷ III, được phát
triển mạnh từ đời nhà Lý vào thế kỷ XI. Đến thế kỷ XV, Lương Nhữ Hộc một
vị quan thời Hậu Lê đã hoàn thiện nghề in bản khắc gỗ và truyền nghề cho
dân làng ông ở Liễu Chàng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, sau đưa lên kinh
đô Thăng Long để in kinh Phật, sách lịch sử, quản lý nhà nước, pháp luật.
Năm 1865, nhà in typô đầu tiên in chữ quốc ngữ ở Sài Gòn được lập ra để in
“Gia Định báo”. Tiếp theo đó, nhiều nhà in khác ra đời ở Sài Gòn, Hà Nội và
một số thành phố lớn. Trước 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng lập ra
7
một số cơ sở để in tài liệu và truyền đơn bằng phương pháp in thạch, litô đá.
Cách mạng Tháng Tám thành công, công tác xuất bản, in và phát hành
sách cách mạng lúc này được coi là một bộ phận quan trọng của chính quyền
cách mạng non trẻ, là công cụ chủ yếu để tuyên truyền đường lối, chủ trương
của Đảng và Chính phủ trong nhân dân, là vũ khí đấu tranh chống lại mọi thủ
đoạn của bọn đế quốc, tay sai tuyên truyền xuyên tạc, phá hoại cách mạng.
Sách, báo cịn góp phần nâng cao dân trí, đời sống tinh thần cho nhân dân và
là phương tiện động viên, giữ gìn và bảo vệ đất nước. Những ngày đầu cách
mạng, việc viết, dịch, biên tập và in ra thật nhiều sách, báo để phát hành rộng
khắp là nhiệm vụ rất quan trọng. Tháng 8/1946, Nhà máy In Tiến Bộ được
thành lập, tiếp theo nhiều nhà in như Lao động, Việt Nam Quốc gia ấn thư cục
ra đời. Năm 1948, Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo ở Việt Bắc đã chế tạo
được máy in typô 8 trang, 4 trang. Ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam đã
xây dựng một cơ sở in offset để in “giấy bạc cụ Hồ” và các tín phiếu, tem,
tranh, ảnh. Một số nhà xuất bản mới được thành lập như Vệ quốc dân (1947),
Quân du kích (1948), cả hai sau này sáp nhập thành Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân (1950). Lúc này, nhiều ngành và đoàn thể cũng thành lập bộ phận
xuất bản sách, báo như: Giáo dục, Thanh niên, Phụ nữ, Tài chính, Nơng
nghiệp... khi đó, các bộ phận như biên tập, in, phát hành và vận chuyển đều
khép kín trong từng cơ quan báo chí, xuất bản.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai năm 1951, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp bước sang giai đoạn mới, đòi hỏi công tác xuất bản, in
và phát hành phải tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng. Trong bối cảnh
đó, cần có một cơ quan quản lý thống nhất mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10/10/1952, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh 122/SL thành lập Nhà in Quốc gia trực thuộc Nha Tuyên
truyền và Văn nghệ, với chức năng, nhiệm vụ vừa là “một doanh nghiệp quốc
gia”, vừa là cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, báo chí, in và phát hành.
8
Qua nghiên cứu cho thấy, Sắc lệnh 122/SL đã khẳng định về mặt nhà nước vai
trò quan trọng của hoạt động xuất bản, báo chí, in và phát hành; coi trọng
công tác quản lý nhà nước và xem những hoạt động này như là hoạt động của
“doanh nghiệp đặc biệt”, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị, tư tưởng, vừa
đồng thời quan tâm đến hiệu quả kinh tế thông qua hạch toán kinh doanh, với
tư cách là “một doanh nghiệp quốc gia”, đây là cơ sở quan trọng cho việc xác
định tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của một nhà xuất bản. Sau
tháng 10/1954, ở miền Bắc, nhiều nhà in, nhà xuất bản mới được thành lập,
các nhà in, nhà xuất bản tư nhân được cải tạo thành nhà in, nhà xuất bản của
Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Sau 30/4/1975, các nhà
in tư nhân ở miền Nam được cải tạo và xây dựng lại, ngành in được hiện đại
hố nhanh chóng, nhiều nhà xuất bản được thành lập và phát triển.
Trải qua hơn 65 năm phát triển, trong những thành tựu to lớn của đất
nước, có sự đóng góp của các thế hệ những người làm cơng tác xuất bản, in
và phát hành. Tuy trong từng thời điểm, từng ngành, địa phương, đơn vị cịn
có những thiếu sót hay chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và đòi hỏi của xã hội,
nhưng ngành xuất bản, in và phát hành vẫn là đội quân cách mạng, công cụ
sắc bén, phán ánh trung thực đường lối, chủ trưởng của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, ý chí, trí tuệ, tài năng, sáng tạo của nhân dân ta và
nhân dân thế giới trong cuộc sống, trong chiến đấu, lao động và học tập, qua
việc tập hợp, nghiên cứu, chọn lọc để phát huy và phổ biến tri thức, di sản văn
hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ những cơ sở nhỏ bé, thiếu thốn,
phương tiện, kỹ thuật nghèo nàn trong những ngày đầu, đến nay, hầu hết các
tỉnh, thành phố, nhiều bộ, ngành, đoàn thể ở trung ương và địa phương đã có
nhà in, nhà xuất bản và cơ sở phát hành riêng. Khu vực kinh tế tư nhân tham
gia ngày càng nhiều vào lĩnh vực in, phát hành và liên kết xuất bản sách.
Ngành xuất bản, in, phát hành Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Tại
Việt Nam, theo thống kê năm 2009 của Hiệp hội in Việt Nam, có khoảng
9
1.200 doanh nghiệp in; theo báo cáo của Cục Xuất bản, tính đến cuối năm
2009 có 60 nhà xuất bản [11]; và hàng chục ngàn doanh nghiệp, cơ sở kinh
doanh xuất bản phẩm trong cả nước.
1.1.2. Khái niệm về hoạt động xuất bản và nhà xuất bản
1.1.2.1. Hoạt động xuất bản
- Theo Từ điển trực tuyến của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt
Nam (sau đây gọi tắt là Từ điển Việt Nam), xuất bản là “hoạt động thuộc lĩnh
vực văn hố, tư tưởng thơng qua việc sản xuất, phổ biến các ấn phẩm đến
nhiều người. Xuất bản là hoạt động truyền bá, bản thân nó khơng bao gồm
khâu sáng tạo ra tác phẩm. Xuất bản, khai thác và truyền bá, phổ biến tác phẩm,
là khâu nối tiếp, nâng cao giá trị văn hoá, nhân rộng và mang chúng đến với
quảng đại quần chúng...” [39].
Theo Điều 1, Luật Xuất bản 2004, “hoạt động xuất bản bao gồm các lĩnh
vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm”[32]. Theo Điều 3, vị trí, mục đích
của hoạt động xuất bản được xác định:
thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ
biến những xuất bản phẩm đến nhiều người, nhằm giới thiệu tri thức
thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của
nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của
người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển
kinh tế - xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn
hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [32].
Như vậy, theo nghĩa hẹp, xuất bản là việc tổ chức bản thảo, biên tập,
trình bày kỹ thuật, duyệt nội dung, hình thức xuất bản phẩm trước khi chuyển
sang nhà in để làm công đoạn in và thành phẩm. Có tài liệu gọi chung các
hoạt động này là biên tập, để tránh nhầm lẫn với nghĩa rộng của xuất bản.
10
Theo nghĩa rộng, xuất bản bao gồm hoạt động biên tập (nghĩa hẹp nêu trên),
in và phát hành xuất bản phẩm. Theo Luật Xuất bản 2004, chỉ có các nhà xuất
bản Việt Nam mới có quyền thực hiện cả ba nội dung này tại Việt Nam. Các
doanh nghiệp, tổ chức khác chỉ được hoạt động ở hai lĩnh vực in và phát
hành, muốn tham gia quyết định nội dung xuất bản phẩm phải thông qua nhà
xuất bản Việt Nam dưới hình thức liên kết.
Hoạt động xuất bản khơng bao gồm khâu sáng tạo ra tác phẩm hay tiêu
thụ, sử dụng xuất bản phẩm. Nếu có, đó chỉ là sự hỗ trợ, tác động của các chủ thể
tham gia hoạt động xuất bản để các tác giả có điều kiện sáng tạo ra những tác
phẩm có giá trị, để xuất bản phẩm đến tay bạn đọc, người tiêu dùng (sau đây gọi
chung là bạn đọc) một cách thuận lợi và bạn đọc sử dụng nó một cách hữu ích
nhất. Tuy vậy, các khâu, các nội dung này có liên quan mật thiết, có tác động
mạnh mẽ đến việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất bản nói chung và hiệu
quả kinh tế - xã hội của các nhà xuất bản nói riêng.
- Theo Từ điển Việt Nam và quy định của pháp luật, các khái niệm,
thuật ngữ trong giới hạn nghiên cứu của luận văn, được hiểu như sau:
Biên tập, là “thuật ngữ dịch từ chữ Latinh: redactus - sắp xếp lại cho có
trật tự”. Ngày nay, biên tập mang hàm nghĩa rộng lớn và yêu cầu cao hơn, khi
con người ngày càng có ý thức củng cố và truyền bá kiến thức của mình. Tuỳ
theo từng ngành chun mơn khác nhau mà thực hiện đối tượng biên tập khác
nhau. “Trong xuất bản sách báo, biên tập chủ yếu là tổ chức làm ra bản thảo,
sửa chữa, hoàn chỉnh bản thảo để in thành sách báo”[39]. Trong biên tập sách,
báo nói chung cịn có yếu tố biên tập ảnh, đó là “lựa chọn, phân tích, đánh
giá, cắt cúp ảnh, sửa chữa lời chú thích, định hướng cho phù hợp với nội dung
ảnh và chủ đề. Người thực hiện việc biên tập gọi chung là biên tập viên”[39].
In hay còn gọi là ấn loát, tức là “phương tiện kỹ thuật truyền đạt thơng
tin thị giác, có tính lâu dài và rộng rãi, sử dụng mực in thông qua thiết bị máy
in tái hiện nhiều lần trên giấy hoặc các chất liệu khác có thể tiếp nhận được
11
mực in các hình ảnh về văn tự đen trắng hoặc các màu sắc khác. Sản phẩm in
thường là thư tịch, báo chí và các loại ấn phẩm khác”[39]. Hiện nay có thể
dùng máy vi tính để xếp chữ, tạo ghép hình, lưu trữ bản gốc hoặc có thể
truyền tín hiệu in qua vệ tinh với phương pháp kích quang tới những khoảng
cách rất xa. Theo Điều 14, Nghị định 111/2005/NĐ-CP của Chính phủ: “hoạt
động in xuất bản phẩm bao gồm chế bản, in và gia công sau in” [3].
Phát hành (trong hoạt động xuất bản), là đem bán hoặc phân phối
những sản phẩm ngành in như sách, báo, tranh, ảnh; băng, đĩa âm thanh, hình
ảnh v.v... Theo Điều 37, Luật Xuất bản, hoạt động phát hành xuất bản phẩm
bao gồm “các hình thức mua, bán, phân phát, cho thuê, triển lãm, hội chợ,
xuất khẩu, nhập khẩu xuất bản phẩm và đưa xuất bản phẩm lên mạng thơng
tin máy tính (internet) để phổ biến đến nhiều người” [32].
Xuất bản phẩm, là “tên gọi chung của những sản phẩm
xuất bản
được
in
thành nhiều bản để phát hành: sách, báo, tranh ảnh, băng nhạc, băng hình, đĩa
hình... Điều 4, Luật Xuất bản 2004 quy định “xuất bản phẩm là tác phẩm, tài
liệu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số
Việt Nam, tiếng nước ngồi và cịn được thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh trên
các vật liệu, phương tiện kỹ thuật khác nhau” [39]. Trong các loại hình xuất bản
phẩm, sách là bộ phận cơ bản nhất, phổ biến nhất và ra đời sớm nhất.
1.1.2.2. Nhà xuất bản
- Khái niệm nhà xuất bản:
Theo Từ điển Việt Nam, nhà xuất bản là:
Tổ chức sự nghiệp, hoạt động ở nhiều lĩnh vực như lý luận,
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố, giáo dục, khoa học, cơng nghệ...,
thơng qua việc sản xuất và phổ biến sách và các ấn phẩm khác như
sản phẩm nghe, nhìn, nhằm đáp ứng yêu cầu của các tầng lớp nhân
dân về nghiên cứu, học tập, nâng cao trình độ tri thức và kinh nghiệm
12
hoạt động thực tiễn trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
hoặc để phục vụ các mục đích tun truyền, giải trí. Mỗi nhà xuất bản
thường có các loại ấn phẩm và đối tượng phục vụ riêng; có tài khoản,
trụ sở riêng, tuân thủ “Luật Xuất bản” hiện hành, chịu trách nhiệm
trước pháp luật, cơ quan chủ quản và nhân dân về hoạt động của
mình... [39].
Theo Điều 11, Luật Xuất bản 2004: “nhà xuất bản tổ chức và hoạt động
theo loại hình doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện hoặc đơn vị sự nghiệp có
thu” [32]. Theo Điều 12, việc thành lập nhà xuất bản phải đủ các điều kiện sau:
1. Có tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản;
2. Có người lãnh đạo nhà xuất bản đủ tiêu chuẩn quy định tại
khoản 1, Điều 14 và đội ngũ biên tập viên đủ tiêu chuẩn quy định tại
khoản 1, Điều 15 của Luật này;
3. Trong các chức danh lãnh đạo nhà xuất bản phải có ít nhất
một người hoạt động trong lĩnh vực xuất bản từ ba năm trở lên;
4. Có trụ sở hoạt động, vốn và các điều kiện cần thiết khác theo
quy định của pháp luật;
5. Phù hợp với quy hoạch phát triển sự nghiệp xuất bản toàn
quốc, quy hoạch của từng ngành, từng địa phương [32].
Như vậy, nhà xuất bản được tổ chức và hoạt động theo một trong hai
hai loại hình doanh nghiệp và sự nghiệp có thu, chủ yếu xuất bản và phát
hành xuất bản phẩm, với nội dung thể hiện ở các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, tùy thuộc vào tơn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ của mình và
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản. Nếu tồn tại theo loại hình doanh
nghiệp, thì các nhà xuất bản thường chọn mơ hình cơng ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên, vì theo pháp luật hiện nay, nhà xuất bản chỉ trực thuộc
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh trở
13
lên hoặc các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cấp trung ương (nơi trực tiếp sáng
tạo và công bố tác phẩm) và khơng được tồn tại dưới hình thức công ty cổ
phần hay doanh nghiệp tư nhân. Nếu tồn tại theo mơ hình sự nghiệp, phần lớn
các nhà xuất bản hiện nay là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần
hoặc đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo tồn bộ chi phí hoạt động.
- Vị trí, vai trị và chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản:
Nhà xuất bản là một chủ thể của hoạt động xuất bản, có vị trí và vai trị
quan trọng trong hoạt động xuất bản, là công cụ để Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp thực hiện công tác tư tưởng, giáo dục
nâng cao nhận thức xã hội, phổ biến thông tin, tri thức cho nhân dân, thông qua
việc xuất bản, giới thiệu và phát hành các xuất bản phẩm đến nhiều người.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của nhà xuất bản là xuất bản, phát hành
xuất bản phẩm với nội dung được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội như lý luận, chính trị, kinh tế, văn hố, giáo dục, khoa học,
cơng nghệ..., thơng qua việc sản xuất kinh doanh sách và các sản phẩm nghe,
nhìn, nhằm đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp nhân dân về nghiên cứu, học tập,
giải trí và phục vụ mục đích tuyên truyền, giáo dục của các tổ chức, đơn vị.
Mỗi nhà xuất bản thường có một số loại xuất bản phẩm và đối tượng
phục vụ riêng; có tư cách pháp nhân, có tài khoản, trụ sở riêng; hoạt động theo
quy định của Luật xuất bản và các văn bản pháp luật có liên quan; chịu trách
nhiệm trước Đảng, Nhà nước và cơ quan chủ quản về hoạt động của mình. Tùy
nhiệm vụ chính trị của cơ quan chủ quản, yêu cầu của từng địa phương, đơn vị
và quy hoạch phát triển chung của ngành mà từng nhà xuất bản có chức năng,
nhiệm vụ và tơn chỉ mục đích riêng của mình.
1.1.3. Chủ thể tham gia hoạt động xuất bản
Một là, hoạt động của tổ chức đảng vi vai trũ lÃnh đạo, định hớng v quyt nh nhân sự chủ chốt của các nhà xuất bản. Ở trung ương, chủ
yếu là hoạt động của Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương và các vụ
14
chuyên ngành; ở cấp tỉnh chủ yếu là hoạt động của Ban Thường vụ, Ban
Tuyên giáo và các phòng chuyên ngành; ở cấp trên cơ sở và cơ sở, chủ yếu là
hoạt động của cấp ủy cơ quan chủ quản, cấp ủy cơ quan quản lý nhà nước về
xuất bản, cấp ủy của các nhà xuất bản, nhà in và đơn vị phát hành sách.
Hai là, hoạt động của các cơ quan nhà nước với vai trị cụ thể hóa chủ
trương của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện việc điều
hành, quản lý, ban hành các chính sách phát triển sự nghiệp xuất bản và có ý
kiến về nhân sự chủ chốt của các nhà xuất bản. Ở trung ương, thường xuyên
là hoạt động của Chính phủ, các bộ và cục chuyên ngành như Cục Xuất bản
(Bộ Thông tin và Truyền thông), Cục Bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa - Thể
thao và Du lịch), Cơ quan An ninh văn hóa (Bộ Cơng an), Cục Sở hữu trí tuệ
(Bộ Khoa học và Cơng nghệ); ở địa phương, thường xuyên là hoạt động của
Ủy ban nhân dân, Sở Thơng tin và Truyền thơng, Sở Văn hóa - Thể thao và
Du lịch, Công an tỉnh (thành phố thuộc trung ương) và các cấp trực thuộc.
Ba là, hoạt động của cơ quan chủ quản các nhà xuất bản, với vai trị chỉ
đạo, định hướng, quyết định tồn diện về mọi hoạt động của nhà xuất bản trực
thuộc. Điều 11, Luật Xuất bản xác định cơ quan chủ quản là cơ quan, tổ chức
đứng tên xin phép thành lập nhà xuất bản, gồm “Cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức khác do Chính phủ quy
định” [32]. Điều 8, Nghị định số 111/2005/NĐ-CP của Chính phủ, xác định tổ
chức được thành lập nhà xuất bản là:
1. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương và cấp tỉnh;
2. Tổ chức khác được thành lập nhà xuất bản bao gồm:
a) Tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp
sáng tạo và cơng bố tác phẩm.
b) Ngồi tổ chức được thành lập nhà xuất bản quy định tại điểm
a khoản này, căn cứ yêu cầu cụ thể, điều kiện thành lập nhà xuất
bản, quy hoạch phát triển sự nghiệp xuất bản toàn quốc và từng
15
ngành, từng địa phương, Bộ Thông tin và Truyền thông quyết định
thành lập nhà xuất bản sau khi có ý kiến của Thủ tướng chính phủ...
[3].
Điều 13, Luật Xuất bản xác định nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan
chủ quản là:
1. Xác định và chỉ đạo việc thực hiện tơn chỉ, mục đích, phương
hướng hoạt động, xét duyệt kế hoạch xuất bản của nhà xuất bản;
2. Cấp vốn ban đầu và đảm bảo các điều kiện cần thiết khác để
nhà xuất bản hoạt động;
3. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc, Tổng biên tập
nhà xuất bản sau khi thỏa thuận với Bộ Thông tin và Truyền thông;
4. Thanh tra, kiểm tra hoạt động của nhà xuất bản theo thẩm quyền;
5. Chịu trách nhiệm về những vi phạm pháp luật của nhà xuất bản
trong hoạt động xuất bản theo nhim v, quyn hn ca mỡnh [32].
Bn l, hoạt động ca nh xut bn vi nhim v khai thác, xây
dựng kế hoạch đề tài, tổ chức, biên tập bản thảo, trình bày,
duyt ni dung, hỡnh thc xuất bản phẩm, quyt nh xut bn v phỏt
hnh xuất bản phm; hoạt động ca nh in vi chc nng in ấn, gấp,
bắt, đóng, xén và thành phẩm; hoạt động phát hành của
nhà xuất bản, cá nhân, đơn vị phát hành; và các doanh
nghiệp s¶n xuÊt kinh doanh trong lÜnh vùc xuÊt b¶n phẩm (sau
đây gọi chung là chủ thể sản xuất kinh doanh xuất bản phẩm).
Ngoài ra, phải kể đến các bộ phận có liên quan như hoạt động nghiên
cứu, sáng tác của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, trí thức, những người
hoạt động chính trị - xã hội - nghề nghiệp, văn nghệ sĩ (nhà văn, nhà thơ, nhạc
sĩ, soạn giả, biên kịch...) sáng tạo ra tác phẩm (sau đây gọi chung là tác giả);
hoạt động của bạn đọc, quần chúng trong việc bình phẩm, góp ý, mua hay
khơng mua, sử dụng các xuất bản phẩm như thế nào hữu ích nhất.
16
1.1.4. Tính chất đặc thù của hoạt động xuất bản
Thứ nhất, hoạt động xuất bản vừa mang tính chất kinh tế nhằm mang
lại những giá trị vật chất mới, sản phẩm mới, tạo ra doanh thu, lợi nhuận, vừa
mang tính chất xã hội, với vai trò định hướng tư tưởng, nâng cao dân trí, giá
trị văn hố và thoả mãn đời sống tinh thần cho nhân dân, như phần nhiệm vụ
cụ thể trong Chỉ thị 42-CT/TW xác định “tập trung xây dựng tiềm lực và năng
lực của hoạt động xuất bản; nâng cao hiệu quả kinh tế của xuất bản, in và phát
hành” và “nâng cao chất lượng toàn diện các xuất bản phẩm: đảm bảo tính tư
tưởng, tính khoa học, chất lượng giáo dục, văn hoá và sự đa dạng, hấp dẫn
của ấn phẩm xuất bản, đảm bảo đủ các loại sách và tài liệu đáp ứng nhu cầu
của các đối tượng người đọc khác nhau...” [12].
Thứ hai, hoạt động xuất bản có yếu tố độc quyền nhóm. Theo Luật
Xuất bản hiện hành, chỉ có các nhà xuất bản Việt Nam mới có quyền quyết
định xuất bản và phát hành xuất bản phẩm ra thị trường Việt Nam (trừ các loại
tài liệu không kinh doanh, khi không thực hiện qua nhà xuất bản thì phải xin
phép cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền). Tuỳ chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan chủ quản, khi cấp Giấy phép thành lập, Bộ Thông tin và Truyền
thông xác định mỗi nhà xuất bản chỉ được phép xuất bản những xuất bản
phẩm chủ yếu với đối tượng phục vụ cụ thể, như §iỊu 16, Luật Xuất bản
xác định “Tríc khi thµnh lËp nhà xuất bản, cơ quan chủ quản
phải có hồ sơ xin cấp giấy phép gửi Bộ Văn hoá - Thông tin
(nay là Bộ Thơng tin và Truyền thơng). Hå s¬ xin cấp giấy phép
gồm: a) Đơn xin cấp giấy phép ghi tên gọi, tôn chỉ, mục
đích, đối tợng phục vụ, giám đốc, tổng biên tập, trụ sở và
vốn của nhà xuÊt b¶n...”[32]. Như vậy, đối với một số lĩnh vực, đề tài
hay đối tượng đặc thù, chỉ có một nhóm vài nhà xuất bản có quyền xuất bản,
mặt khác các nhà xuất bản chuyên ngành chỉ được xuất bản những tác phẩm
gắn với chuyên ngành và đối tượng phục vụ của mình mà thơi.
Thứ ba, nội dung hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, quy mô tổ chức,
17
thành phần tham gia, đối tượng phục vụ... đa dạng, phong phú, có mục đích,
nhu cầu khác nhau. Có những nhà xuất bản, công ty phát hành như Nhà xuất
bản Giáo dục, Công ty cổ phần phát hành sách thành phố Hồ Chí Minh
(Fahasa), quy mơ hoạt động lớn, vốn hàng chục tỉ đồng, doanh thu hàng trăm,
hàng ngàn tỉ đồng/năm; chi nhánh, trụ sở, đơn vị trực thuộc và địa bàn hoạt
động trải khắp các tỉnh, thành, nhân sự lên đến hàng ngàn người; hàng năm
xuất bản, phát hành không chỉ hàng chục ngàn đầu sách, hàng chục triệu bản
in mà còn cung cấp ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ khác như bất động
sản, văn hóa phẩm, phương tiện, đồ dùng dạy học. Bên cạnh đó, cũng có
nhiều nhà xuất bản, cơng ty phát hành vốn chỉ vài trăm triệu, chỉ có một trụ
sở, một sản phẩm kinh doanh là sách, nhân sự không quá 10 người, sản lượng
hàng năm khơng q 10 đầu sách, thậm chí năm 2009, có 3 nhà xuất bản
khơng xuất bản được một đầu sách nào [11]. Riêng về đối tượng phục vụ thì
khác nhau rất nhiều về mục đích, thị hiếu, khả năng và nhu cầu thụ hưởng, sử
dụng xuất bản phẩm.
Thứ tư, là hoạt động nhạy cảm, tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận
thức xã hội, nên không chỉ có sự quản lý chặt chẽ, thường xuyên, sự quan
tâm, hỗ trợ (hơn các lĩnh vực khác) của các cơ quan quản lý nhà nước như
Chính phủ - với vai trò “thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản
trong phạm vi cả nước” [32] và các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp, mà
cịn có sự lãnh đạo, định hướng về chính trị, tư tưởng và công tác cán bộ của
Đảng, sự lãnh đạo và chịu trách nhiệm toàn diện của cơ quan chủ quản đối
với nhà xuất bản trực thuộc, như Chỉ thị 42-CT/TW xác định: “đổi mới và
nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với lĩnh vực xuất bản, in và
phát hành. Củng cố, kiện toàn tổ chức và tăng cường đội ngũ cán bộ có đủ
phẩm chất, năng lực cho các cơ quan chỉ đạo, quản lý và tham mưu trên lĩnh
vực xuất bản, in và phát hành từ trung ương đến các địa phương" [12], cũng
như "xác định rõ vai trò của cơ quan chủ quản, đồng thời nêu cao vai trò tự
18
chịu trách nhiệm, chủ động của lãnh đạo nhà xuất bản và cơ quan phát
hành..." [12] và “tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất bản, in, phát hành sách. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng các văn bản
pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ, thống nhất để quản lý hoạt động xuất
bản...” [12]. Tuy vậy, Đảng, Nhà nước vẫn đảm bảo sự chủ động, sáng tạo của
nhà xuất bản và “Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản” [32].
Thứ năm, là hoạt động liên quan mật thiết đến lao động sáng tạo của các
tác giả, biên tập viên, nhân viên kỹ thuật, in ấn; kể cả hoạt động sáng tạo của
khách hàng, bạn đọc trong việc sáng tác, bình phẩm, góp ý, quyết định mua hay
khơng mua, kinh doanh hay không kinh doanh, sử dụng xuất bản phẩm như thế
nào, như tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định:
Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật,
tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật...
Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng,
nhà truyền thống, thư viện, phịng đọc, điểm bưu điện - văn hóa xã,
khu vui chơi, giải trí…, tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản,
thông tin đại chúng phát triển [13, tr.106-107].
1.2. HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế - xã hội
- Theo Từ điển Việt Nam:
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con
người chờ đợi và hướng tới; nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh
vực khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là
. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất,
suất
, là
hiệu suất
năng
. Trong lao động
lợi nhuận
nói chung hiệu quả lao động là năng suất lao động, được đánh giá bằng số
lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc là
bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời
19
gian. Trong xã hội học, một hiện tượng, một sự biến có hiệu quả xã
hội, tức là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội, đối với
sự phát triển của lĩnh vực đó...[39].
Như vậy, “hiệu quả” là một phạm trù phản ánh yêu cầu của quy luật tiết
kiệm, đặc biệt là vấn đề tiết kiệm thời gian và nguồn lực xã hội. Quy luật này
hoạt động trong nhiều phương thức sản xuất, vì vậy, phạm trù hiệu quả cũng
tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Bất kỳ ở đâu, lúc nào, mọi cá nhân
và tổ chức đều muốn hoạt động một cách hiệu quả nhất.
- Trong hoạt động kinh tế có khái niệm “hiệu quả kinh tế”. Ở Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây cho rằng hiệu quả kinh tế
là kết quả của hoạt động kinh tế, là doanh thu trong tiêu thụ hàng hóa. Có
quan niệm cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bằng tốc độ tăng tổng sản
phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân. Những quan điểm này khơng tính đến
chi phí bỏ ra để có kết quả đó và lợi nhuận đạt được sau một kỳ hoạt động.
P.A. Samuelson, nhà kinh tế học người Mỹ thì cho rằng tính cấp thiết
của kinh tế học là nhận thức được thực tế của sự khan hiếm, và sau đó dự kiến
tổ chức xã hội như thế nào để sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả
nhất. Theo ơng, hiệu quả kinh tế có nghĩa là khơng lãng phí, “là sử dụng một
cách hữu hiệu nhất các nguồn lực của nền kinh tế để thỏa mãn các nhu cầu và
mong muốn của con người...” và “một nền kinh tế sản xuất có hiệu quả là khi
nền kinh tế đó khơng thể sản xuất thêm một mặt hàng nào đó mà khơng phải
giảm sản xuất các hàng hố khác” [16, tr.133-134]. Ơng cho rằng, hiệu quả
của một nền kinh tế là khi sản xuất đạt tới mức sản lượng tiềm năng. Quan
niệm này chỉ có ý nghĩa khi đánh giá hiệu quả trên phạm vi tồn bộ nền kinh
tế, nhưng khơng thể áp dụng cho phạm vi ngành, lĩnh vực kinh tế, không tạo
ra được mối liên hệ giữa hiệu quả toàn bộ và hiệu quả bộ phận.
Theo quan niệm của C.Mác, bản chất của hiệu quả kinh tế là sự thực
hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, biểu hiện trình độ sử dụng các
20
nguồn lực sản xuất. Ông cho rằng: “những thời đại kinh tế khác nhau không
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách
nào, với những tư liệu lao động nào” [18, tr.269]. Đây là quy luật có tầm quan
trọng đặc biệt, tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Mọi hoạt động của
con người đều tuân theo quy luật đó. C.Mác đã nhận định:
Với tư cách là những giá trị, thì tất cả mọi hàng hóa đều chỉ là
những lượng thời gian lao động nhất định đã kết đọng lại... Nhưng
thời gian lao động này lại thay đổi theo mỗi một sự thay đổi trong
sức sản xuất của lao động. Sức sản xuất của lao động được quyết
định bởi rất nhiều tình hình, trong đó có: trình độ khéo léo trung
bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học và trình
độ áp dụng khoa học vào quy trình cơng nghệ, sự kết hợp xã hội của
q trình sản xuất, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, và các
điều kiện thiên nhiên [18, tr.68-69].
Hiệu quả kinh tế quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất,
tạo điều kiện phát triển văn minh nhân loại và nâng cao đời sống con người
qua mọi thời đại. Tuy vậy, nó khơng phải là mục tiêu cuối cùng, mà chỉ là
phương tiện xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế.
Theo Từ điển Việt Nam:
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của hoạt động sản
xuất, nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh, phản ánh
tương quan giữa kết quả đạt được so với hao phí lao động, vật tư, tài
chính. Là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu
tố của sản xuất - kinh doanh, nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa
với chi phí tối thiểu. Tùy theo mục đích đánh giá, có thể đánh giá
hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như
năng suất lao động
hiệu suất sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản phẩm,
lợi nhuận
,
so
với vốn, thời gian thu hồi vốn v.v… Chỉ tiêu tổng hợp thường dùng
21
nhất là doanh lợi thu được so với tổng số vốn bỏ ra. Trong phạm vi nền
kinh tế quốc dân, chỉ tiêu hiệu quả kinh tế là tỉ trọng
thu nhập quốc dân
trong tổng sản phẩm xã hội…[39].
Khái niệm hiệu quả kinh tế có phạm vi rộng, bao gồm hiệu quả của
toàn bộ nền kinh tế, của từng bộ phận nền kinh tế như hiệu quả của từng
ngành, từng địa phương, trong đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế của đơn vị, của
dự án đầu tư cụ thể. Khi xem xét hiệu quả kinh tế của một đơn vị cụ thể,
người ta chỉ xem xét đến những gì mà đơn vị đó thực sự phải chi ra và đã
nhận được, mà khơng xem xét đến những chi phí hay kết quả của chủ thể
khác. Hiệu quả kinh tế của một đơn vị được xem xét ở hai khía cạnh:
Một là, hiệu quả kinh tế tuyệt đối, là phần thu được từ hoạt động đầu
tư, hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên kết quả đạt được sau khi trừ đi các
chi phí phải bỏ ra để có được kết quả đó. Trong kinh tế học hiện đại, hiệu quả
kinh tế tuyệt đối được hiểu là mức lợi nhuận (p) mà nhà đầu tư thu được từ
hoạt động của mình, được xác định bằng công thức:
p = TR - TC, với: TR là tổng doanh thu và TC là tổng chi phí.
Ở đây, tổng doanh thu là tổng số tiền mà một đơn vị kinh tế thu được do
bán sản phẩm (dịch vụ) được tính bằng giá mỗi đơn vị sản phẩm (dịch vụ) nhân
với tổng số lượng sản phẩm (dịch vụ) trong một kỳ thống kê. Tổng chi phí là
chi phí của tất cả các
yếu tố sản xuất
để sản xuất ra một lượng sản phẩm (dịch vụ)
nhất định và cũng được tính theo một kỳ thống kê tương ứng.
Đây là hiệu quả có thể đo được. Khối lượng lợi nhuận càng nhiều thì
hiệu quả kinh doanh càng lớn. Nếu lợi nhuận bằng hoặc nhỏ hơn 0, thì hoạt
động kinh doanh khơng hiệu quả, bị lỗ vốn và có nguy cơ phá sản. Trong nền
kinh tế thị trường, nguyên tắc hoạt động của một doanh nghiệp nói chung và
hoạt động đầu tư nói riêng là phải thu được lợi ích lớn nhất với một chi phí bỏ
ra nhỏ nhất. P.A. Samuelson cho rằng: “cũng giống như người nông dân sử
dụng củ rà rốt và cây gậy để nhử con lừa đi tới, hệ thống thị trường lấy lợi
22
nhuận và thua lỗ để hướng các nhà kinh doanh vào sản xuất các hàng hóa một
cách có hiệu quả” [37, tr.74], chỉ có lợi nhuận là phần thưởng hay hình phạt,
nó là kim chỉ nam cho cơ chế thị trường. Riêng đối với nhà xuất bản hoạt động
kinh doanh không hiệu quả, nghĩa là gánh nặng kinh tế sẽ đè lên ngân sách nhà
nước. Nhà nước sẽ phải bao cấp một phần chi phí để duy trì sự tồn tại của nhà
xuất bản, làm ảnh hưởng ít nhiều đến nguồn lực của xã hội, của nền kinh tế.
Hai là, hiệu quả kinh tế tương đối, là chỉ số so sánh giữa đầu ra và đầu
vào, là kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh với các chi phí đã
bỏ ra để có kết quả đó hoặc chỉ số của phần lợi nhuận thu được chia cho tổng
chi phí tạo ra lợi nhuận đó. Cũng có cách đánh giá khác như chỉ số tổng lợi
nhuận trên tổng doanh thu hoặc tổng lợi nhuận trên tổng số vốn đầu tư hay
vốn chủ sở hữu. Các chỉ số này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực vào
việc tạo ra các lợi ích nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế.
Ngồi ra, cách tính tốn hiệu quả kinh tế còn được biểu hiện qua:
Chỉ tiêu năng suất lao động. Chỉ tiêu này được đo bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí
để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Cơng thức tính:
P = Q: t (1) hoặc P = t: Q (2), Với:
P là năng suất lao động.
Q là số lượng sản phẩm được sản xuất ra.
t là lượng thời gian làm ra khối lượng sản phẩm đó.
Đây là chỉ tiêu vật chất trong xác định hiệu quả kinh tế. Hoạt động của
một doanh nghiệp có hiệu quả khi năng suất lao động được tăng lên, tức là số
lượng sản phẩm Q được tạo ra trong một đơn vị thời gian tăng lên theo công
thức (1) hoặc số lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm
xuống theo công thức (2).
Tỉ suất lợi nhuận của doanh nghiệp trong một kỳ hoạt động p’ (thường
là một năm). Đây là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn tính theo lợi nhuận.
23
Cơng thức tính: p’ = (P: K) x 100%, với:
P là tổng lợi nhuận trong kỳ (thường là năm).
K là tổng vốn đầu tư trong kỳ (thường là năm).
Đây là chỉ tiêu về giá trị trong xác định hiệu quả kinh tế. Một doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả kinh tế cao khi đạt được tỉ suất lợi nhuận cao.
Mức tỉ suất lợi nhuận cao nhất khi mức lợi nhuận thu được đạt tối đa (Pmax).
Có trường hợp K được thay bằng tổng chi phí bỏ ra để tạo ra tổng sản
phẩm (dịch vụ) cần thiết hoặc là tổng nguồn vốn chủ sở hữu hay tổng các
nguồn vốn, quỹ được sử dụng nhằm tạo ra lợi nhuận trong năm.
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn tính theo doanh thu (H). Chỉ tiêu này
được xác định trên cơ sở lấy tổng doanh thu chia cho tổng vốn đầu tư trong
năm (hoặc tổng vốn chủ sở hữu) để có doanh thu đó, tính theo tỉ lệ phần trăm.
Cơng thức tính: H = (TR: K) x 100%, với:
TR là doanh thu, được tính bằng công thức TR = p x Q, với p là giá cả
(bình quân) của một đơn vị sản phẩm và Q là tổng sản phẩm được bán ra.
K là tồn bộ nguồn vốn bỏ ra để có doanh thu đó.
Theo quan niệm này, để nâng cao hiệu quả kinh tế, cần phải gia tăng
mức kết quả đạt được với chi phí giữ nguyên hay giảm xuống hoặc mức gia
tăng kết quả nhanh hơn mức gia tăng chi phí.
Ngồi ra, cịn có các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định, hiệu quả sử
dụng vốn lưu động.
- Trong nhiều trường hợp, để phân tích các vấn đề kinh tế có quan
hệ chặt chẽ với các vấn đề xã hội, khi tính hiệu quả kinh tế, phải coi trọng
hiệu quả xã hội như tạo thêm việc làm và giảm thất nghiệp; giáo dục
truyền thống, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng; nâng cao dân trí, giữ
gìn và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân; giáo dục đạo
đức, lối sống, tăng cường an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố
24
khối đại đồn kết, đảm bảo cơng bằng xã hội, từ đó có khái niệm hiệu quả
kinh tế - xã hội.
Theo Từ điển Việt Nam:
Hiệu quả kinh tế - xã hội là chỉ tiêu biểu hiện quan hệ giữa kết
quả của nền sản xuất xã hội (xét trên cả hai mặt kinh tế và xã hội) và
các nguồn phương tiện tạo ra nó; được đánh giá thơng qua thước đo
thực hiện mục tiêu của một
phương thức sản xuất
nhất định và những
nhiệm vụ kinh tế và xã hội của từng thời kỳ, từng kế hoạch dài hạn
và kế hoạch hằng năm. Các tiêu chuẩn và chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội của các phương thức sản xuất khác nhau thì khơng giống
nhau. Khi xét hiệu quả của nền sản xuất xã hội, cần phân biệt và xét
cả hai mặt: kinh tế và xã hội- hai mặt gắn bó, tác động qua lại và
thống nhất với nhau. Cần phải xét các mối quan hệ xã hội trong
xuất
và
sản
, gắn với bản chất và mục đích của phương thức sản
phân phối
xuất; ở Việt Nam là gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, nhằm mục tiêu chung: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh [39].
Như vậy, hiệu quả kinh tế - xã hội được hiểu là hiệu quả vừa xét trên
bình diện kinh tế, vừa xét trong mối quan hệ và gắn liền với nhiệm vụ kinh
tế - xã hội của đất nước, của ngành, địa phương, đơn vị. Thông thường, khi
xác định hiệu quả kinh tế - xã hội, người ta chỉ xét đơn thuần từ khía cạnh
kinh tế và khía cạnh xã hội. Khía cạnh xã hội thường được hiểu là những
vấn đề về tác động đến chính trị, quốc phịng, an ninh, trật tự, mơi
trường… Cách hiểu này chưa đầy đủ, bởi trong thực tế rất khó phân biệt
rạch rịi giữa hai khía cạnh này. Ví dụ, việc làm, lương của người lao động
vừa là vấn đề kinh tế (chi phí nhân cơng), vừa là vấn đề xã hội quan trọng
mà Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Ngược lại, vấn đề ô nhiễm môi trường,
an ninh trật tự vừa là vấn đề xã hội nhưng cũng là vấn đề kinh tế vì khi mơi
25
trường suy thối, an ninh khơng đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến hoạt động đầu
tư, sản xuất kinh doanh.
1.2.2. Hiệu quả kinh tế-xã hội của nhà xuất bản và tiêu chí đánh giá
- Đối với nhà xuất bản, “hiệu quả kinh tế - xã hội” là một phạm trù có
tính bao quát và tổng hợp hơn so với “hiệu quả kinh tế”. Đó là hiệu quả kinh
tế kéo theo và gắn liền với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, cơ
cấu phát triển ngành của Đảng và Nhà nước; với việc tạo ra nguồn nhân lực
chất lượng cao, tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao đời sống của đội ngũ
viên chức và người lao động (từ sau đây gọi chung là người lao động); với
việc tạo ra những xuất bản phẩm có chất lượng cao góp phần thực hiện định
hướng tư tưởng, mục tiêu nâng cao trình độ dân trí của Đảng và thỏa mãn nhu
cầu, đời sống tinh thần của nhân dân; với việc bảo vệ mơi trường văn hóa lành
mạnh, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Khi xem xét, đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội hoặc khi đánh giá chi
phí sản xuất cần phải tính đầy đủ chi phí của tất cả các chủ thể tham gia vào
hoạt động của nhà xuất bản như chi phí đầu tư của Nhà nước, của cơ quan chủ
quản, tài trợ của các tổ chức, doanh nghiệp. Mặt khác, phải tính đến các yếu
tố như chất lượng, hàm lượng thông tin, tri thức trong xuất bản phẩm; mảng
sách mà nhà xuất bản phát hành có tác động thế nào đến nhận thức xã hội, đến
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chiều hướng tích cực hay
tiêu cực; bạn đọc có lợi gì, nhiều hay ít, chính đáng hay khơng khi sử dụng
sản phẩm đó; những tác động tiêu cực có hay khơng, ít hay nhiều; việc làm,
đời sống, thu nhập của người lao động và đội ngũ cộng tác viên như thế nào.
Hiện nay, người ta thường xếp các yếu tố hay các vấn đề khơng thể
hoặc khó lượng hóa được vào khía cạnh xã hội. Những vấn đề này thường
được phân tích một cách riêng lẻ và mang tính định tính, nên đơi khi khơng
cho ta cái nhìn tổng thể về hiệu quả kinh tế - xã hội được. Ví dụ, Nhà xuất bản
X xuất bản 100 đầu sách/năm, trong đó hơn 90% là sách liên kết, tạo ra 20