Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Ths luat học thực hiện pháp luật về bình đẳng giớiở tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.05 KB, 146 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền bình đẳng, trong đó có bình đẳng giới (hay bình đẳng nam - nữ)
không chỉ là vấn đề thuộc phạm vi của mỗi quốc gia, mà cịn là vấn đề có tính
tồn cầu mà nhân loại đang nỗ lực hướng tới. Quyền bình đẳng nam nữ là một
trong những quyền cơ bản của con người do đó được coi là một trong những tiêu
chí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một xã hội. Nói cách khác, chỉ
trong một xã hội dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ mới được coi trọng.
Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề ra ngay từ khi Đảng
Cộng sản ra đời, thể hiện rõ nhất là trong bản Luận cương chính trị năm 1930
của Đảng đã nêu khẩu hiệu: “Người cày có ruộng” cùng với “nam nữ bình
đẳng”. Chính sách bình đẳng giới thật sự đã là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chính
sách phụ vận qua các thời kỳ cách mạng của Việt Nam.
Đảng ta luôn nhất quán quan điểm về tơn trọng và bảo đảm bình đẳng
giới trong các văn kiện qua các kỳ Đại hội. Trong sự nghiệp cách mạng, nhất
là công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta xác định bình đẳng giới là một trong
những nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát huy nhân tố con người.
Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
Đối với phụ nữ nâng cao trình độ về mọi mặt và đời sống vật chất,
tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để người phụ nữ
thực hiện tốt vai trị người cơng dân, người lao động, người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo người phụ nữ
để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các
cơ quan lãnh đạo quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao
động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên
quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm
hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ 22, tr.120.



2
Thực hiện chủ trương này, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết đặt ra mục tiêu phấn đấu
đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học
vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rét về đời sống vất
chất, văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn cơng việc xã hội, bình
đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp nhiều hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để
nước ta là một trong những quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của
khu vực. Thể chế hoá quan điểm của Đảng, bình đẳng giới đã được hiến định
ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm
1946. Hiến pháp đã khẳng định tại Điều 6: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang
quyền về mọi phương diện: “chính trị kinh tế, văn hố”, Điều 9: “Đàn bà ngang
quyền với đàn ông về mọi phương diện” 34, tr.26].
Hiến Pháp năm 1959, tiếp tục khẳng định:
Công dân nam và nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị,
kinh tế, văn hố xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân
biệt đối xử đối với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ…Nhà nước
và xã hội tạo mọi điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ về mọi mặt,
khơng ngừng phát huy vai trị của mình trong xã hội (Điều 63) 35].
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền bình đẳng giới trong gia đình và ngồi xã hội,
tiêu biểu như: Bộ luật hình sự năm 1999, Luật hơn nhân và gia đình năm 2000,
Bộ luật lao động năm 2004, đặc biệt là Luật bình đẳng giới năm 2006.
Những văn bản pháp luật trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
thực hiện bảo vệ quyền bình đẳng giới ở Việt Nam. Do đó, vị thế xã hội và
chính trị của người phụ nữ Việt Nam được từng bước nâng lên. Tài năng và



3
nhân phẩm của họ được tôn trọng và phát huy nên Phụ nữ Việt Nam ngày
càng góp phần quan trọng vào cơng cuộc đổi mới đất nước, đồng thời góp
phần vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ và quyền bình đẳng của phụ nữ trên
tồn thế giới.
Tuy nhiên, để pháp luật bình đẳng giới phát huy được vai trị trong thực
tiễn, cần phải chú trọng công tác tổ chức thực hiện, đưa pháp luật vào cuộc
sống để đảm bảo ngày càng tốt hơn vấn đề bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây, công tác tổ chức thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới ở Việt Nam đã có những biến đổi tích cực, góp phần
nâng cao nhận thức chung cho tồn xã hội về bình đẳng giới, sự phân biệt đối
xử dựa trên yếu tố giới do đó cũng được hạn chế. Bên cạnh đó, ở nhiều địa
phương, việc thực hiện pháp luật cịn chưa nghiêm: tình trạng phân biệt đối
xử về giới, nạn bạo lực gia đình có những diễn biến phức tạp... Điều đó địi
hỏi phải có cơ chế đồng bộ để thực hiện pháp luật về bình đẳng giới một cách
hiệu quả.
Nam Định là một tỉnh ven biển phía đơng nam đồng bằng châu thổ
sơng Hồng. Diện tích tự nhiên của Nam Định là 1.637,4 km 2, chiếm khoảng
0,5 diện tích tự nhiên cả nước; quy mô dân số xếp thứ 8 trong 63 tỉnh, thành
phố của cả nước. Theo kết quả điều tra dân số năm 2010, Nam Định có
1.830.023 người (trong đó nam có 895.499 người, nữ có 943.524 người;
thành thị có 326.207 người, nơng thơn có 1.503.816 người) [63, tr.4].
Tỉnh Nam Định là tỉnh có truyền thống cách mạng, hiếu học, cần cù,
sáng tạo trong lao động sản xuất. Cùng với sự phát triển kinh tế, các hoạt động
văn hóa xã hội của tỉnh có những phát triển khá đồng bộ đã tạo tiền đề cho việc
thực hiện các chính sách xã hội, trong đó có việc thực hiện bình đẳng giới.
Trong những năm qua, cơng tác bảo đảm bình đẳng giới ở Tỉnh Nam
Định đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Hoạt động vì sự tiến bộ của
phụ nữ đạt kết quả khá tích cực, nhất là trong lĩnh vực tạo việc làm, giáo dục



4
đào tạo, về sức khoẻ, chăm sóc phụ nữ và trẻ em....Do đó, quyền bình đẳng
của phụ nữ được chú trọng hơn, góp phần nâng cao địa vị của phụ nữ trong trong
từng gia đình và xã hội, thể hiện ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội (xem Phụ lục số I).
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, công tác bảo đảm bình đẳng
giới ở Tỉnh Nam Định cịn tồn tại một số hạn chế. Nhận thức về bình đẳng giới
trong các cấp uỷ Đảng, chính quyền ở nhiều nơi chưa thực sự đầy đủ, nhất là ở
cấp cơ sở. Mục tiêu phụ nữ tham gia vào lãnh đạo và quản lý tuy có chuyển biến
tích cực, nhưng so với thực tiễn đề ra vẫn còn khoảng cách lớn. Đến nay, vẫn
còn tới 10/38 chỉ tiêu nằm trong 5 mục tiêu của chương trình chưa đạt kế hoạch
đề ra như các chỉ tiêu: lao động nữ trong tổng số lao động được tạo việc làm,
giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, nguồn kinh phí cho hoạt động
cịn hạn hẹp. Cơng tác tuyền truyền về kế hoạch hóa gia đình của một số ngành,
địa phương chưa thực sự hiệu quả, hầu như mới chỉ quan tâm phát triển theo bề
rộng mà chưa chú ý nhiều đến phát triển theo chiều sâu; nội dung và hình thức
tuyên truyền cịn đơn điệu. Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận
thức về giới cho các cấp, ngành, địa phương chưa thường xuyên. Bộ máy kiêm
nhiệm, kế hoạch lồng ghép, chỉ đạo thiếu tập trung, nguồn lực ít; cơng tác kiểm
tra, giám sát, sơ kết, rút kinh nghiệm chưa thực sự được chú trọng...
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều song chủ yếu vẫn là do việc
thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Tỉnh Nam Định chưa thật sự hiệu quả.
Là một cán bộ công tác và sinh sống trên địa bàn tỉnh Nam Định, bản thân
tơi nhận thấy có nhiều bất cập, thách thức và luôn trăn trở với các câu hỏi: làm thế
nào để thực hiện tốt pháp luật về bình đẳng giới? Liệu có giải pháp nào để thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới có hiệu quả hơn ở tỉnh Nam Định?
Với các lý do trên, tôi chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới ở Tỉnh Nam Định” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Luật học.

Đây là đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, nhất là khi Nam


5
Định cùng với cả nước đang trong quá trình phát triển vì một xã hội dân giàu,
nước mạnh, cơng bằng, dân chủ và văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, việc thực hiện bình đẳng
giới, chú trọng cơng tác cán bộ nữ, coi việc tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế- xã hội, nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ là
điều kiện quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ cho nữ giới, là
điều kiện để phát huy tiềm năng và nâng cao địa vị cho giới nữ. Chính vì vậy,
vấn đề bình đẳng giới ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình đổi
mới của đất nước. Cho nên, bình đẳng giới ln là đề tài được nhiều nhà khoa
học quan tâm, đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng định địa vị người phụ nữ trong
gia đình và ngồi xã hội, góp vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Do đó, hiện nay Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan
đến giới và pháp luật về bình đẳng giới đã được cơng bố, tiêu biểu phải kể
đến các cơng trình của Lê Ngọc Hùng (2000), Xã hội học về giới và phát
triển; Đỗ Thị Thạch (2005), Nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị quốc gia, 2005; Lê Ngọc Văn
(chủ biên) (2006), nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới,
Nxb khoa học xã hội; Trịnh Đình Thể (2007), suy nghĩ về bình đẳng giới
dưới góc nhìn pháp luật, Nxb Tư pháp, 2007; TS Dương Thị Minh (2004),
Gia đình Việt nam và vai trò người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia; Dương Thị Ngọc Lan (2000), Hồn thiện pháp luật về
quyền lao động nữ ở Việt Nam hiện nay Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh; Đỗ Thị Thơm (2004), Hồn thiện pháp luật về
quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh; Cao Quốc Việt (2006), Hồn thiện pháp luật phòng,

chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Chu Thị Thoa (2002), Bình đẳng giới
ở đồng bằng sông Hồng hiện nay, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành chủ


6
nghĩa xã hội, khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Lê Thị
Quý, Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, HN,
1997; Lê Thị Q, Phịng chống bn bán phụ nữ các tỉnh phía Bắc Việt
Nam, Nxb phụ nữ, HN- 1999; Lê Thị Quý, Về quyền trẻ em và sự bình
đẳng của phụ nữ, Học viện Chính trị Hành Chính quốc gia HCM, Trung
Tâm thông tin khoa học và Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, HN
tháng 12/1999; Lê Thị Quý, Nghiên cứu và đào tạo giới ở Việt Nam, Trung
tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, Nxb KHXH, HN, 2000; Lê
Thị Q, Bình đẳng, góp phần vào phát triển của nữ thanh niên trong thế
kỷ 21, Nxb Thanh niên, HN, 2001; Lê Thị Quý (2003-2005), Hệ giải p háp
và điều kiện thực hiện những giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam phù hợp
với yêu cầu của giai đoạn hiện nay; Lê Thị Quý (2004-2005), Bình đẳng và
hồ nhập giới trong gia đình Việt Nam trong các chương trình dân số và sức
khoẻ sinh sản - phịng chống bạo lực gia đình; Lê Thị Q, Phịng chống
bn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, Nxb Phụ nữ, HN, 2005.
Các cơng trình khoa học nói trên đã được các tác giả nghiên cứu tương
đối sâu sắc và toàn diện trên phạm vi cả nước, hoặc gắn với một số khu vực
cụ thể nhưng chỉ đề cập đến một khía cạnh này hay khía cạnh khác liên quan
đến bình đẳng giới và pháp luật về quyền của phụ nữ. Song đến nay, chưa có
cơng trình nào đề cập về lĩnh vực thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở cấp
tỉnh nói chung và ở Nam Định nói riêng. Vì vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu
đề tài “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Tỉnh Nam Định ” làm luận
văn thạc sĩ luật học là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định để nêu
lên quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả pháp luật về
bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định hiện nay.


7
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, phân tích để làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật
về bình đẳng giới.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới ở tỉnh Nam Định hiện nay.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số quan
điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới ở tỉnh Nam Định hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở
tỉnh Nam Định, những thành tựu và hạn chế để có cơ sở đề xuất một số quan
điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở
tỉnh Nam Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật
về bình đẳng giới, thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh
Nam Định từ năm 2005- 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà

nước ta về Nhà nước và pháp luật, về bình đẳng giới, tôn trọng phẩm giá và
các quyền cơ bản của con người.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng tư tưởng, lý luận để nghiên cứu
vấn đề thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


8
Luận văn được thực hiện bởi các phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chú trọng các phương pháp thống
kê, tổng hợp, để phân tích so sánh số liệu tại địa bàn nghiên cứu nhằm phát
hiện ra những bất cập, thách thức trong việc thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới ở tỉnh Nam Định. Từ đó, rút ra những kết luận cần thiết, đưa ra
những đánh giá và những luận chứng làm cơ sở cho việc đề xuất các
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: thu thập và
phân tích các tài liệu sẵn có như: các báo cáo, thống kê, cơng trình nghiên cứu
có liên quan đến những nội dung của đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình chun khảo đầu tiên nghiên cứu, đánh giá về
việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định, nên có những
đóng góp khoa học như sau:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, tính
khả thi cũng như thách thức trong việc thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới ở địa phương;
- Luận văn nghiên cứu xác định đặc điểm về việc thực hiện pháp luật
về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định; đánh giá hệ thống và cụ thể thực trạng
việc triển khai thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở địa phương;
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực

hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định, đưa pháp luật về bình đẳng
giới vào cuộc sống, từ đó góp phần nâng cao nhận thức tiến tới thay đổi hành
vi của cộng đồng để ngăn ngừa và xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng giới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới ở một địa bàn cụ thể;


9
- Các quan điểm và giải pháp có tính khoa học, thực tiễn có thể góp
phần chỉ đạo thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở các địa phương nói
chung và ở tỉnh Nam Định nói riêng;
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ
quan có chức năng triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia (giai
đoạn 2011 - 2015) ở tỉnh Nam Định.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRỊ, HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

1.1.1. Khái niệm giới, bình đẳng giới và pháp luật về bình đẳng giới
* Giới: Là một khoa học nghiên cứu sự khác biệt về sinh học và quan

hệ giữa nam và nữ, những nguyên nhân đưa đến sự thay đổi của mối quan hệ
đó trong từng nền văn hố, từng thời đại lịch sử, những điều kiện xã hội tạo
nên và duy trì lâu dài sự bất bình đẳng nam- nữ và những điều kiện, giải pháp
xố bỏ sự bất bình đẳng đó, cụ thể là:
- Sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ là sự khác biệt tự nhiên, khi
sinh ra con người đã có.
- Mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ là mối quan hệ về vị thế xã hội
trong gia đình và xã hội, quyền lực xã hội, mức độ thu nhập, tổ chức công
việc, vị trí trong gia đình…
- Ngun nhân về sự bất bình đẳng giới trong các nền văn hố, trong
các giai đoạn lịch sử (khách quan, chủ quan, nguyên nhân kinh tế, chính trị,
văn hố, xã hội….).
- Nghiên cứu những điều kiện, giải pháp xóa bỏ sự bất bình đẳng (kinh
tế, chính trị, văn hố, xã hội…)
Giới và giới tính là hai khái niệm cặp đôi, liên quan chặt chẽ với nhau.
Trong tiếng Anh giới là Gender và giới tính là Sex. Do đó, để hiểu khái niệm
giới, trước hết cần tìm hiểu khái niệm giới tính.
Giới tính là một khái niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học, chỉ sự
khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan
đến quá trình tái sản xuất con người, di truyền nịi giống. Con người sinh ra
đã có những đặc điểm về giới tính. Ví dụ: chỉ phụ nữ mới có khả năng mang


11
thai và sinh con, hoặc chỉ nam giới mới có khả năng sản xuất tinh trùng cho
quá trình thụ thai.
Về mặt sinh học, những đặc điểm về giới tính (giống cái và giống đực)
là tự nhiên, sự phân biệt người đàn ơng và đàn bà là rõ ràng như: hình dáng cơ
thể, cơ quan sinh dục và chức năng của nó…những đặc điểm này là bẩm sinh
và khơng thể thay đổi được.

Những đặc điểm về cơ thể là chung cho mọi người đàn ông hay
chung cho mọi người đàn bà, ở bất kỳ dân tộc, chủng tộc nào, hay địa
phương nào họ cư trú trên trái đất này. Chúng rất ít thay đổi theo không
gian và thời gian. Con người qua bao nhiêu thế kỷ, ngày nay có những biến
đổi về chiều cao, cân nặng, tầm vóc cơ thể, kể cả vẻ đẹp ngoại hình so với
tổ tiên của họ. Ở mỗi dân tộc, địa phương cư trú, con người cũng khác, có
sự khác nhau về màu da, màu tóc và mắt, chiều cao của sống mũi, bề dày
của đôi mơi, hình dáng của đơi mắt…nhưng con người trên thế giới này
đều giống nhau về những nét cơ bản.
Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên
qui định. Nó ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả
về mặt không gian và thời gian. Chẳng hạn phụ nữ trong mọi thời đại, mọi
chế độ chính trị, mọi nền văn hoá đều giống nhau ở khả năng mang thai và
sinh con; nam giới ở mọi nơi, mọi thời đại đều giống nhau ở chức năng sinh
sản là làm cho phụ nữ mang thai. Cịn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội,
thái độ và hành vi ứng xử giữa nam giới và phụ nữ do hồn cảnh, điều kiện xã
hội, văn hố… tạo nên. Địa vị thái độ và hành vi đó khơng bất biến mà thay
đổi do sự thay đổi của hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hố. Ví dụ: so với
cách đây 50 năm về trước, đặc điểm về giới tính của phụ nữ nước ta hiện nay
khơng có sự thay đổi, thế nhưng đặc điểm về giới - tức là địa vị xã hội, tương
quan về mặt xã hội so với nam giới - đã có sự thay đổi căn bản, bởi vì kể từ
cách mạng tháng tám 1945 đến nay, hồn cảnh, điều kiện xã hội, văn hố
nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu sắc.


12
Giới: là một phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ giữa phụ nữ và nam
giới. Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam
giới và phụ nữ, liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc thể chế và xã hội, chứ
không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay một phụ nữ nào đó.

Mặc dù có nội hàm khác nhau nhưng giới tính và giới có quan hệ với
nhau. Giới tính là tiền đề sinh học của giới. Nó là dấu hiệu đầu tiên và lâu dài
để phân biệt nam và nữ. Không nên và không thể làm mất đi sự khác biệt về
giới tính. Hơn nữa cần tìm hiểu những đặc điểm giới tính vì điều đó cho phép
người ta hiểu năng lực, sở trường, nhu cầu riêng của nam và nữ để từ đó có sự
phân cơng lao động phù hợp nhằm phát huy nhiều hơn năng lực và đáp ứng
đúng hơn nhu cầu riêng của nam và nữ
Từ những đặc điểm trên ta có thể hiểu: Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò
của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội
* Bình đẳng giới:
Bình đẳng giới là vấn đề trung tâm của phát triển, là một mục tiêu của
phát triển
Trong những thập kỷ qua, loài người đã đạt được những tiến bộ vượt
bậc về sự bình đẳng giới, quyền bình đẳng giới, thực chất là quyền của phụ nữ
đã được đảm bảo tốt hơn một bước, song sự phân biệt giới vẫn phổ biến trong
mọi mặt của đời sống xã hội. Bản chất và mức độ phân biệt đối xử về giới
giữa các nước và các khu vực khác nhau quá lớn. Không một khu vực nào của
các nước đang phát triển, phụ nữ lại có quyền bình đẳng với nam giới trên
thực tế về các quyền chính trị, kinh tế, văn hố, giáo dục, gia đình và xã hội.
Khoảng cách về giới rất sâu rộng trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn
lực trong các cơ hội kinh tế, quyền lực xã hội và tiếng nói chính trị. Phụ nữ
chịu nhiều bất cơng của xã hội (bn bán, lạm dụng tình dục, bạo hành,…).
Họ phải gánh chịu trực tiếp nhất và lớn nhất cái giá của sự bất bình đẳng…
song bi kịch là ở chỗ, thơng qua sự thiệt hại đó mà đã làm tổn hại tới toàn xã
hội, tới tất cả mọi người.


13
Vì thế, bình đẳng giới đã trở thành trung tâm của sự phát triển, bản thân
nó là một mục tiêu phát triển, đồng thời cũng là một yếu tố để nâng cao tăng

trưởng của quốc gia, xóa đói giảm nghèo, quản lý xã hội có hiệu quả, thực hiện
cơng bằng xã hội và phát triển. Chính vì vậy mà nâng cao bình đẳng giới, thực
hiện tốt quyền phụ nữ là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển của
mọi quốc gia, cho phép và tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, đều có
điều kiện và năng lực vận dụng cơ hội để cùng phát triển.
Luật bình đẳng giới đưa ra khái niệm về bình đẳng giới như sau: “Bình
đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo cơ hội phát
huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
hưởng thụ như nhau về thành quả của sự phát triển đó” [50, tr.6].
Để đạt được sự bình đẳng giới, phụ nữ phải được tạo điều kiện, cơ hội
như nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Thế nhưng,
như thế vẫn chưa đủ. Ở đây cần nhấn mạnh đến khía cạnh thứ hai của bình
đẳng giới là đối xử đặc biệt đối với phụ nữ. Khi hoàn cảnh và điều kiện khác
nhau - xuất phát điểm của phụ nữ không ngang bằng nam giới thì đối xử như
nhau chưa đủ, mà phụ nữ cần phải được đối xử đặc biệt mới có thể đạt được
bình đẳng nam - nữ như mong muốn. Khía cạnh thứ hai này, xuất phát từ hoàn
cảnh lịch sử cụ thể liên quan đến vị thế của người phụ nữ trong xã hội, và sự
phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Trong bối cảnh đó,
các biện pháp đặc biệt được xem là cần thiết. Tuy nhiên các biện pháp này chỉ
mang tính nhất thời, nó sẽ chấm dứt khi mục tiêu về bình đẳng nam nữ đã đạt
được. Kéo dài quá mức cần thiết các biện pháp, sẽ khó tránh khỏi hậu quả là
làm tái hiện tình trạng bất bình đẳng.
Bình đẳng là khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn. Bác đã nói:
“chúng ta làm cách mạng để tranh lấy bình quyền, bình đẳng, trai gái đều
ngang như nhau”.
Bình đẳng giới một cách diễn đạt khác của bình đẳng nam nữ - là một
trong những nội dung bình đẳng của xã hội. “Ngang quyền” như cách nói của


14

Bác là nội dung bao trùm của bình đẳng giới nói chung, trong đó có bình đẳng
giới. Ngang quyền trong lĩnh vực giới có thể hiểu là trạng thái khơng phân
biệt đối xử giữa nam và nữ, đó là bình đẳng nam nữ, bình đẳng giới.
Vấn đề bình đẳng nam - nữ thu hút sự quan tâm sâu sắc của các quốc
gia và của cộng đồng quốc tế. Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy, tiến bộ
của xã hội sẽ chậm lại nếu trong xã hội có một bộ phận đông đảo người bị hạn
chế hoặc loại trừ. Tác động tiêu cực đối với bộ phận bị hạn chế hoặc loại trừ
đó sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến tồn xã hội. Vì vậy, tác động tiêu cực của sự
đối xử khơng bình đẳng đối với phụ nữ khơng chỉ làm giảm thiểu sự đóng góp
của phụ nữ cho nền sản xuất của xã hội, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc
sống gia đình và việc chăm sóc, ni dưỡng thế hệ sau.
Bình đẳng giới có các cấp độ khác nhau. Ở đây chủ yếu nói về hai cấp
độ chính là bình đẳng trên văn bản và bình đẳng trên thực tế. Hai cấp độ này
đều có tầm quan trọng riêng và bổ sung cho nhau. Bình đẳng trên văn bản, có
phạm vi tác động rộng đối với đơng đảo các nhóm phụ nữ và thường có ý
nghĩa lâu dài. Bình đẳng trên thực tế, là kết quả đạt được của việc thực hiện
các nguyên tắc bình đẳng, đã được ghi nhận trên văn bản pháp lý. Bình đẳng
trên thực tế là lợi ích thiết thực và người phụ nữ được hưởng trên cơ sở bình
quyền với nam giới. Tuy vậy, những lợi ích thiết thực này thường biến động
do tác động của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là tình hình phát triển kinh tế xã hội và hiệu quả giám sát của việc thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Đây là điều cần quan tâm khi bàn về bình đẳng giới.
Ý nghĩa sâu xa của bình đẳng giới, khơng chỉ là tạo điều kiện cho phụ
nữ hội nhập đầy đủ vào xã hội, vì lợi ích của bản thân họ mà cịn là điều kiện
cho sự phát triển hài hồ của gia đình, vì lợi ích, tiến bộ của xã hội trong đó
có nam giới.
Để đạt được bình đẳng giới thực sự, có hiệu quả, một yếu tố rất quan
trọng cần được đề cập đến đó là sự nỗ lực tự giác vươn lên, xóa bỏ mặc cảm,
tự ti vốn có của phụ nữ, mạnh dạn tham gia các hoạt động của cộng đồng,



15
phấn đấu học hỏi. Chỉ khi nào người phụ nữ nhận thức đúng đắn và đầy đủ
giá trị của mình trong gia đình và trong xã hội thì mới có thể thu hẹp khoảng
cách giới, đạt mục tiêu bình đẳng giới.
* Pháp luật bình đẳng giới
Cho đến nay khoa học pháp lý đã chỉ ra rằng: Pháp luật là hệ thống các
quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Theo đó, pháp luật bình đẳng giới là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước ban hành và đảm bảo thực hiện, quy định nguyên tắc bình đẳng giới
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, quy định các biện pháp
bảo đảm bình đẳng giới, đồng thời quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
1.1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
Để đưa ra khái niệm “thực hiện pháp luật về bình đẳng giới”, trước hết
cần hiểu khái niệm thực hiện pháp luật là gì?
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và
đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là cộng cụ hữu hiệu mà nhà
nước sử dụng để quản lý xã hội, quản lý con người [26, tr.401].
Điều 12 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa…” [42, tr.62].
Để quản lý xã hội bằng pháp luật địi hỏi phải có hệ thống pháp luật
hồn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh.
Hoạt động xây dựng pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật là hai mặt
liên quan chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa và tầm quan trọng như nhau. Hiến
pháp và hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành dù có tốt và đầy đủ
đến đâu đi chăng nữa cũng mới chỉ đọng trên giấy, ở trạng thái “tĩnh” mà thôi.



16
Để Hiến pháp và pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những mối quan
hệ pháp lý, thể hiện qua các hành vi pháp luật của cá nhân, tổ chức, đòi hỏi
các quy định của Hiến pháp và pháp luật phải được thực hiện trên thực tế. Thực
hiện nhiệm vụ này là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi chủ thể pháp lý. Do đó thực
hiện pháp luật là một trong những vấn đề lý luận cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong khoa học pháp lý, cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đều có quan niệm chung
là: thực hiện pháp luật là sự tiếp tục ý chí của Nhà nước được thể hiện trong
pháp luật, đó là bộ phận quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi bàn
về pháp chế, Mác và Ăngghen là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu về
pháp chế. Theo các ông, nội dung chính yếu nhất của pháp chế chính là sự
tuân thủ pháp luật, sự thực hiện pháp luật. Sự thực hiện pháp luật là trung tâm
của pháp chế. Phát triển, bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận về pháp luật
và pháp chế xã hội chủ nghĩa, Lênin quan niệm rằng: pháp chế chính là sự
tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh các đạo luật, điều quan trọng không chỉ ở
chỗ là các đạo luật được ban hành nhằm bảo đảm những đòi hỏi của sự phát
triển xã hội, hay nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động, mà điều
chính yếu hơn là pháp luật phải được tuân thủ, thực hiện. Mặt khác, Lênin
cũng chỉ rõ việc thực hiện pháp luật phải có tính thống nhất cao, đó mới là cơ
sở để tăng cường pháp chế.
Từ thực tiễn của Việt Nam và các nước trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng
Việt Nam. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức được vai trị của pháp luật
trong điều hành quản lý xã hội. Ngay từ năm 1919, trong yêu sách của nhân
dân An Nam gửi Hội nghị Véc- Xây có tám điều thì có bốn điều liên quan đến
pháp quyền: “Bảy xin Hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”. Những điều nêu trên trong bản yêu sách đã chứng minh là Người đã

sớm quan tâm đến pháp luật, đến công lý và quyền con người. Đây là tư
tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh, chứng tỏ Người đã thấy rõ tầm quan trọng
của một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.


17
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về thực hiện pháp luật. Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm tới việc
tăng cường pháp chế, coi trọng việc thực hiện pháp luật. Trong các văn kiện
của Đảng, nhất là từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến nay,
các văn kiện của Đảng đều đề cập đến nhiệm vụ xây dựng pháp luật, quản lý
xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật…
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII “Tăng cường pháp
chế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã
hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức”[18, tr.86].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX kế thừa và phát triển ở
một tầm cao mới: “phát huy dân chủ đi đôi với giữ kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn
dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật” [22, tr.68].
Qua sự phát triển của các bản Hiến pháp ở nước ta, từ Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 thì
vấn đề thực hiện pháp luật bao giờ cũng được nhà nước đặc biệt quan tâm,
nhằm cụ thể hoá dường lối, chủ trương, Chính sách của Đảng. Các bản Hiến
pháp đều quy định nghĩa vụ tuân theo hiến pháp, pháp luật của công dân.
Như vậy, có thể nói một trong những vấn đề quan trọng trong quản lý
xã hội là phải đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống, làm cho những
quy định pháp luật trở thành hiện thực trong điều chỉnh các quan hệ xã hội
hay nói cách khác là phải thực hiện pháp luật.

Hiện nay trong khoa học pháp lý Việt Nam còn tồn tại nhiều quan
điểm, nhận thức khác nhau về thực hiện pháp luật.
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Trường
Đại học luật Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục


18
đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [65, tr.454].
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa luật,
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội:
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động)
của con người phù hợp với quy định của pháp luật. Nói cách khác,
tất cả những hành động nào của con người, của tổ chức mà thực
hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì được coi là sự thực hiện
thực tế các quy định của pháp luật [66, tr.254].
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Viện nhà nước
và pháp luật - Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chi Minh đưa ra
định nghĩa: “thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy đinh của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống tạo ra cơ sở
pháp lý cho hoạt động thực tế của chủ thể pháp luật” [26, tr.62].
Nhìn chung các định nghĩa đều có quan điểm tương đối đồng nhất về
nội dung đó là: “Thực hiện pháp luật là việc làm có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống”. Sự khác nhau
trong các định nghĩa chỉ còn ở chỗ thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt
động, là hiện tượng, là quá trình.
Theo tác giả, quá trình hoạt động hay hiện tượng, quá trình đều là
những phạm trù có nội hàm riêng của nó nhưng cũng đều nhằm mục đích làm
cho các quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, đáp ứng
được những yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Do đó, về khái niệm thực hiện pháp luật, chúng tơi đều đồng ý với các định
nghĩa trên.
Tuy nhiên, quan điểm thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong
cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật là hợp lý, chặt chẽ.


19
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là thực hiện pháp luật về một
lĩnh vực xã hội, một nội dung cụ thể của thực hiện pháp luật, nhằm đưa các
quy định của pháp luật bình đẳng giới đi vào thực tế đời sống. Xuất phát từ
những quan điểm đã trình bày ở trên về thực hiện pháp luật bình đẳng giới có
thể hiểu: Thực hiện pháp luật bình đẳng giới là một q trình hoạt động có
mục đích của các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân làm cho những quy
định của pháp luật bình đẳng giới trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra
cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới
là xố bỏ phân biệt về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát
triển kinh tế xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực
chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam và
nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
1.1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là thực hiện pháp luật về một
lĩnh vực cụ thể. Do đó ngồi những đặc điểm chung của thực hiện pháp luật,
cịn có những đặc điểm mang tính đặc thù. Những đặc điểm đặc thù của thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới được quy định bởi vai trò, bản chất của giới
trong đời sống xã hội. Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới cho thấy có một số đặc điểm sau:
Một là, thực hiện pháp luật bình đẳng giới hướng tới bảo đảm nam nữ bình đẳng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
Ngày nay, giới và bình đẳng giới đã trở thành vấn đề mang tính thời đại.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới bởi vì
bình đẳng giới chính là tiêu chí để đánh giá tiến bộ xã hội, đảm bảo bình đẳng
giới là một trong những mục tiêu cơ bản của việc đảm bảo công bằng xã hội.
Thực tiễn cho thấy, phụ nữ được bình đẳng cùng với nam giới tham gia
vào mọi hoạt động của đời sống, đồng thời cùng thừa hưởng mọi thành quả
của tiến bộ xã hội, đó chính là biểu hiện sinh động năng lực làm chủ xã hội


20
của một lực lượng lao động quan trọng, chiếm hơn một nửa nhân loại. Chỉ
trên cơ sở bình đẳng mới đảm bảo cho mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội
thực hiện được. Hơn nữa, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là một nhiệm vụ
khó khăn và phức tạp khơng phải chỉ riêng quốc gia nào vì nó gắn liền với
nhiều bức xúc xã hội.
Ở Việt Nam, bình đẳng giới luôn thể hiện sự quan tâm nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc nam nữ bình đẳng đã trở thành nguyên tắc
hiến định xuyên suốt các Hiến pháp của nhà nước ta, ngay từ bản Hiiến pháp
đầu tiên, Hiến pháp năm 1946. Từ đó ở nhiều cấp độ khác nhau, vấn đề bình
đẳng giới đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật, làm cơ sở để chúng
ta thực hiện và bảo đảm vấn đề bình đẳng giới trong thực tế. Tuy nhiên, để
các quy phạm pháp luật về bình đẳng giới trở thành hiện thực trong đời sống
xã hội là vấn đề không đơn giản. Thực tiễn cho thấy bên cạnh những tác động
tích cực để luật Bình đẳng giới mang tính thực thi cũng cịn khơng ít những
“lực cản” tác động tiêu cực tới việc bảo đảm thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới như định kiến về giới “Định kiến về giới là nhận thức, thái độ và đánh giá
thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ”
mà biểu hiện của “định kiến về giới” đã tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Vì thế vấn đề định kiến về giới đã trở thành vấn đề nổi cộm
tạo ra những “lực cản” trong việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong
thực tiễn cuộc sống.

Hơn nữa, ở Việt Nam, định kiến về giới được hình thành và phát triển
xuất phát từ tư tưởng trọng nam khinh nữ. Từ đó, cái nhìn thiên lệch, bất bình
đẳng về giới nam và giới nữ được hình thành và ăn sâu vào ý thức của mỗi
người dân. Đặc biệt, định kiến giới đã tạo ra cái nhìn bất bình đẳng giữa nam
và nữ, ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo đảm trên thực tế quyền bình đẳng
nam - nữ mà pháp luật thừa nhận. Dưới thời phong kiến, các công việc xã hội
chủ yếu là do ngưòi nam giới đảm nhiệm, người phụ nữ chỉ là người quán
xuyến những công việc gia đình, bếp núc. Vì thế, quan niệm thiên lệch về giới


21
nữ được hình thành và ảnh hưởng tới tận bây giờ. Vì lẽ đó, những định kiến
về năng lực của phụ nữ có thể trở thành những trở ngại đối với phụ nữ trong
việc tiếp cận các cơ hội đào tạo, hoặc khi tìm việc làm, hay tham gia quản lý
và các cơ hội phát triển chuyên môn.
Ở phạm vi rộng hơn, người phụ nữ cũng bị ảnh hưởng bởi chính những
định kiến về năng lực hạn chế việc sắp xếp và phân công công việc.
Cho nên, cuộc đấu tranh để thực hiện quyền bình đẳng nam nữ khơng
chỉ là cuộc đấu tranh chống thói gia trưởng trong đàn ơng mà còn là cuộc đấu
tranh chống tư tưởng tự ti ở người phụ nữ, chống những thói quen dành sự ưu
đãi trong mọi sinh hoạt cho đàn ông. Tất nhiên, phải xác định đây là cuộc đấu
tranh lâu dài và khơng ít khó khăn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng xác định, đấu tranh cho bình đẳng nam nữ là một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam, và để cuộc
cách mạng to lớn này giành được thắng lợi, cần phải đạt được tiến bộ trên mọi
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hố...Vì vậy, việc thực hiện pháp luật bình
đẳng giới hướng tới bảo đảm nam nữ bình đẳng trên mọi lĩnh vực.
Hai là, chủ thể thực hiện pháp luật bình đẳng giới phong phú và đa dạng
Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc cơng bằng xã hội và bình đẳng
giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chủ thể thực hiện bình đẳng giới
khơng chỉ riêng của một chủ thể mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Trước hết

là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, một tổ chức
thành viên của Mặt trận và của hệ thống chính trị, đóng vai trị nổi bật
trong việc thực hiện bình đẳng giới: tổ chức các phong trào hoạt động, các
cuộc vận động...thơng qua đó phụ nữ tham gia hoạt động xã hội và tham
chính với nghĩa là bình đẳng của phụ nữ tham gia cơng tác chính quyền
(quản lý nhà nước), tham gia hoạt động chính trị nói chung. Với tư cách là
một tổ chức thiết chế chính trị, Hội Liện hiệp phụ nữ phải đóng vai trị
nịng cốt, chủ động trong việc làm cho xã hội có nhận thức đúng về phụ nữ


22
và quyền bình đẳng giới, đề xuất những kiến nghị về sửa đổi thể chế, luật
pháp, chính sách trong việc thực hiện bình đẳng giới, đấu tranh thực hiện
quyền bảo vệ phụ nữ một khi quyền đó bị xâm phạm, bị xem nhẹ. Những
trách nhiệm nêu trên phải gắn liền với nhau và mọi tổ chức phải có sự phối
hợp đồng bộ để thực hiện có kết quả. Hơn nữa, chính bản thân phụ nữ cũng
phải tự lực, tự chủ phấn đấu và đấu tranh cho những quyền của mình, của
giới mình được thực hiện.
Mặt khác, cũng cần khẳng định rằng khi nói trách nhiệm của tồn xã
hội trong việc thực hiện bình đẳng giới, phải nói đến trách nhiệm to lớn của
nam giới, của tất cả những người đàn ông. Đó là một thực thể xã hội không
thể bỏ qua, vì nam giới ở Việt Nam vẫn chiếm một tỷ lệ rất lớn. Do đó, nếu
lực lượng nam giới có chuyển biến tích cực về nhận thức, có hành động thực
tế, lời nói đi đơi với việc làm, quan tâm thường xuyên tới cuộc đấu tranh để
thực hiện và bảo vệ quyền phụ nữ thì mục tiêu bình đẳng giới mới được bảo
đảm, và tạo ra bước tiến rõ rệt trong thực tế.
Ba là, thực hiện pháp luật bình đẳng giới vừa mang tính phổ biến, vừa
mang tính đặc thù
Quyền bình đẳng nam nữ là một bộ phận tất yếu của quyền con người.

Như vậy, cả hai giới đều có đầy đủ các quyền con người như quyền được
sống, được tự do, quyền bình đẳng về quyền lợi giữa nam và nữ.
Mở đầu khế ước xã hội, J.J Ruosseau tuyên bố, con người sinh ra đã là tự
do. Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ cũng nêu: tất cả mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm
được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948 có lời mở đầu
“Việc thừa nhận những phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng, khơng thể
chuyển nhượng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do,
cơng bằng và hồ bình trên thế giới”, đồng thời cho rằng, các quyền và tự do cơ
bản của con người “là mục tiêu cao cả nhất của loài người” [25, tr.6].


23
Bản tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà đã thừa nhận các quyền cơ bản của con người và khẳng định
rằng: “Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được”.
Như vậy, về mặt bản chất, quyền con người là giá trị xã hội thể hiện
khả năng, lợi ích, nhu cầu, khát vọng và chỉ có ý nghĩa và giá trị khi được xã
hội thừa nhận.
Về đặc điểm, quyền con người, trong đó có quyền bình đẳng giới là
những giá trị vừa mang tính phổ biến, vừa có tính đặc thù.
Tính phổ biến: là chỉ các quyền thuộc về tất cả mọi người và được mọi
người thụ hưởng, đảm bảo cho tất cả mọi người không phân biệt dân tộc,
chủng tộc, giai cấp, tơn giáo, giới tính, địa vị xã hội...Các quyền bình đẳng và
chân lý giá trị mà họ thụ hưởng ở bất cứ đâu và bất kỳ lúc nào. Như vậy, bản
chất của tính phổ biến của quyền con người là sự khẳng định tính chất bình
đẳng về tư cách “con người” của mọi cá nhân.
Tính đặc thù của quyền con người được hiểu là: Tuy quyền con người
là những giá trị phổ biến nhưng việc thực hiện và bảo đảm các quyền con

người phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá mỗi quốc
gia, dân tộc.
Tóm lại, trong khi thừa nhận quyền con người, quyền bình đẳng giới là
những giá trị có tính phổ biến, áp dụng chung cho toàn nhân loại, việc thực
hiện các giá trị chung về quyền con người, phải tính đến các đặc trưng về
truyền thống văn hố, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, và
không được làm tổn hại đến chủ quyền quốc gia.
Bốn là, thực hiện pháp luật bình đẳng giới là hoạt động lồng ghép gắn
bó chặt chẽ với xây dựng, hồn thiện pháp luật về bình đẳng giới
Lồng ghép giới là một phương pháp tiếp cận toàn diện, nhằm thay đổi
tư duy và cách thức hành động để giải quyết triệt để những nguyên nhân
của tình trạng bất bình đẳng giới trong toàn xã hội, ở mọi ngành, mọi cấp.
Phương pháp tiếp cận lồng ghép giới về bản chất liên quan đến công tác


24
quản lý nhà nước, trên cơ sở nhận thức rằng nam giới và phụ nữ có những
thực tế trải nghiệm, nhu cầu và vấn đề ưu tiên khác nhau cũng như chịu sự
tác động khác nhau bởi các chính sách. Để có thể đáp ứng thoả mãn các
nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, các nhà nước cần xem xét và giải
quyết các vấn đề về giới.
Lồng ghép giới, là thay đổi cách thức làm việc của các cơ quan nhà
nước, và các tổ chức sao cho những khía cạnh phức tạp, và khác biệt liên
quan đến thực tế trải nghiệm, xem xét và giải quyết một cách tự giác ngay từ
ban đầu, ở mọi ngành và mọi giai đoạn của chu trình chính sách. Mục tiêu của
lồng ghép bình đẳng giới là nhằm đạt được bình đẳng giới trong xã hội.
Theo luật bình đẳng giới, nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
trong cơng tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được quy định như sau:
- Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phải bảo
đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới. Các nguyên tắc cơ bản về bình

đẳng giới là một căn cứ quan trọng của việc rà soát để sửa đổi, bổ sung văn
bản quy phạm pháp luật.
- Hoạt động lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng quy phạm
pháp luật gồm: xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong lĩnh
vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh; dự báo tác động của các quy
định trong văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành đối với nữ và nam;
xác định trách nhiệm và nguồn lực để giải quyết các vấn đề giới trong phạm
vi văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Trong quá trình soạn thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật có trách nhiệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, chuẩn bị báo cáo
việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật. Hoạt động đánh giá thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật còn phải đánh giá các nội dung về vấn đề
giới, việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới, tính khả thi của
việc giải quyết vấn đề giới được điều chỉnh trong dự án, dự thảo.


25
Để đảm bảo lồng ghép giới được thành công, việc xây dựng cơ sở hay
điều kiện cần thiết cho quá trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây chính
là tiền đề hay xuất phát điểm để tiến hành hoạt động lồng ghép giới. Các điều
kiện này bao gồm: cam kết chính trị của các cấp lãnh đạo, khung chính sách,
cơ chế quản lý, kiến thức và kỹ năng lồng ghép giới, bộ máy hoạt động vì
bình đẳng giới, mơi trường văn hố đổi mới.
Tuy nhiên, lồng ghép giới là một nhiệm vụ phức tạp và khó khăn. Thực
tế ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đã chứng minh nhận định
này. Trong nhiều trường hợp, các tổ chức, cơ quan có thái độ thờ ơ, bởi vì
lồng ghép giới làm thay đổi tư duy, cách nghĩ, thay đổi các giá trị và niềm tin
đã ăn sâu trong tiềm thức của nhiều người. Gần đây, với sự hỗ trợ của Uỷ ban
quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và các tổ chức quốc tế, các cơ quan ở các

Bộ, ngành đã và đang có hoạt động về giới, nhưng có thể nói rằng, mọi hoạt
động lồng ghép giới rất hạn chế, chủ yếu vẫn là những tập huấn giới cơ bản.
Nhiều cơ quan, tổ chức coi việc lồng ghép giới là thêm một gánh nặng.
Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến hiện tượng này. Có tổ chức cho rằng, do đã
q bận với cơng tác chun mơn, do khơng có kinh phí hay thiếu kỹ năng và
kiến thức cần thiết để thực hiện công việc. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận
rằng lồng ghép giới là vấn đề rất mới nên mọi ngưịi chưa có thói quen làm
việc trên tinh thần giới. Chính vì vậy, việc tiến hành các hoạt động lồng ghép
có thể là một nhiệm vụ nặng nề.
Sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chưa chặt chẽ. Giới là vấn đề
mang tính liên ngành, nghĩa là giới cần được lồng ghép vào mọi lĩnh vực, mọi
hoạt động của đời sống xã hội. Muốn làm được điều này, cần thiết phải có sự
hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan tổ chức. Tuy nhiên, trên thực tế sự phối hợp
chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.
Thiếu nguồn lực: là vấn đề thường gặp ở các cơ quan, tổ chức. Cho
nên, trong giai đoạn đầu, khi lồng ghép giới còn là vấn đề mới thì cần phải
được thực hiện nhiều hoạt động, trong đó có vấn đề truyền thơng để làm thay


×