Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật về đào tạo nghề - thực trạng trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.2 KB, 97 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





VŨ THỊ HƯƠNG




PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ - THỰC TRẠNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2013



2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





VŨ THỊ HƯƠNG



PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ - THỰC TRẠNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60. 38. 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ HOÀI THU



HÀ NỘI - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận lăn là trung thực,
chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong công trình khoa học nào khác.

Tác giả luận văn


Vũ Thị Hương


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ 7
1.1. Quan niệm về đào tạo nghề 7
1.2. Pháp luật về đào tạo nghề 11
1.2.1. Nguyên tắc về đào tạo nghề 11
1.2.2. Nội dung pháp luật về đào tạo nghề 15
1.2.3. Ý nghĩa của đào tạo nghề 16
1.3. Pháp luật về đào tạo nghề ở một số nước trên thế giới và bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam 22
1.3.1. Pháp luật về đào tạo nghề ở một số nước trên thế giới 22
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 29
2.1. Pháp luật về đào tạo nghề cho người lao động để làm việc cho
doanh nghiệp theo thời hạn đã cam kết 29
2.1.1 Điều kiện đối với cơ sở thực hiện đào tạo nghề 29
2.1.2. Về chi phí đào tạo nghề và thời hạn người lao động phải làm việc
cho doanh nghiệp 32
2.1.3. Về bồi thường chi phí đào tạo nghề trong trường hợp người lao
động vi phạm cam kết thời hạn làm việc 36
2.2. Pháp luật về đào tạo lại nghề cho người lao động 41
2.3. Pháp luật về đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ 43
2.4. Giải quyết tranh chấp về đào tạo nghề 50
2.5. Thực tiễn thực hiện pháp luật đào tạo nghề trong các doanh
nghiệp tại Tỉnh Nam Định. 55
2.5.1. Nhu cầu đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định 55
2.5.2. Tình hình thực hiện pháp luật về đào tạo nghề trong các doanh
nghiệp tại Tỉnh Nam Định 60
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 71
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề 71
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề 77
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
đào tạo nghề trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định 82
KẾT LUẬN 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLLĐ: Bộ Luật lao động
2. CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3. HĐLĐ: Hợp đồng lao động
4. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đứng trước những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực,
vấn đề đào tạo công nhân lành nghề đáp ứng nhu cầu của xã hội đang trở
thành vấn đề quan trọng và cấp bách của các cơ sở dạy nghề và của các
doanh nghiệp. Nhằm góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ 10 là:
“Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa đất nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
Ngoài ra mục tiêu phát triển giáo dục nghề nghiệp 2001 – 2010 đã chỉ rõ: Đặc
biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề với nâng cao ý thức kỷ luật lao
động, tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, gắn việc
làm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, con người là nguồn nhân lực
quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cần tạo sự chuyển biến cơ bản toàn diện về giáo dục trong đó ưu tiên
nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực.
Giáo dục đào tạo giữ vai trò then chốt trong phát huy nguồn lực của

con người, cần phải đảm đương sứ mệnh đào tạo ra những người lao động có
khả năng thích ứng với những thay đổi công nghệ, những biến động của việc
làm, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Nhận thức vấn đề này vài năm trở lại đây
Việt Nam đã xây dựng và phát triển mạnh hệ thống các trường nghề, các
trường kỹ thuật với mong muốn nhanh chóng đạt chuẩn khu vực và thế giới
để không ngừng tăng cường nguồn nhân lực cho thị trường trong nước và hội
nhập với nền kinh tế toàn cầu.

2
Theo Điều 6 Luật Dạy nghề 2006, dạy nghề gồm có ba cấp: Sơ cấp
nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Mỗi năm hệ thống dạy nghề trong cả
nước đào tạo ra hàng triệu người lao động. Tuy nhiên thời gian học nghề
trong các trường đó là dài hơn, tốn kém hơn, việc được thực hành ít hơn, sản
phẩm trong quá trình học làm ra về không được trả công, học xong người học
lại phải tự tìm việc làm Trong khi đó "doanh nghiệp tuyển người vào học
nghề, tập nghề theo thời hạn cam kết trong hợp đồng thì không phải đăng ký
và không thu học phí. Thời gian học nghề, tập nghề được tính vào thâm niên
làm việc tại doanh nghiệp. Trong thời gian học nghề, tập nghề nếu trực tiếp
hoặc tham gia làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp thì được trả công theo thỏa
thuận". Như vậy về mặt số lượng người học nghề trong các hệ thống trường là
khá khá dồi dào nhưng năng lực của người lao động chưa đáp ứng được yêu
cầu công việc, dẫn đến lãng phí nguồn ngân sách của nhà nước, cơ hội tìm
được việc làm phù hợp với trình độ còn thấp. Trong khi đó việc nhiều doanh
nghiệp để có nguồn nhân lực như mong muốn, sau khi tuyển lao động về phải
đào tạo lại nghề cho công nhân của mình, người học nghề trong doanh nghiệp
sẽ gần với thực tế nhu cầu công việc của doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Nhà nước và xã hội
công tác đào tạo nghề đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên so với đồi
hỏi thực tế của thị trường lao động thì công tác đào tạo nghề ở Việt Nam hiện
nay vẫn chưa đáp ứng được. Trên thực tế ngoài việc tuyển dụng lao động đã

qua đào tạo nghề thì các doanh nghiệp cũng tự tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao tay nghề cho người lao động.
Ở Việt Nam trong nhiều năm qua các doanh nghiệp đã khá tích cực
tham gia vào hoạt động đào tạo nghề dưới các hình thức khác nhau như đào
tạo tại doanh nghiệp hoặc liên kết với các cơ sở đào tạo nghề. Cách thức tổ
chức đào tạo nghề như vậy rất có lợi cho người học nghề, vì họ không phải lo

3
tìm việc sau khi học nghề xong. Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp lại
rất lo ngại việc đào tạo nghề, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động vì
lợi ích thu được từ khoản đầu tư này khó thu lại được, và còn lo ngại sau khi
đào tạo xong người lao động không tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp.
Nhưng cũng phải nói trên thực tế doanh nghiệp nào chú trọng đến việc đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho lao động trong doanh nghiệp mình thì
dù trước mắt có thể thấy là chưa có lợi, lại dễ có thể bị mất đi số lao động
nhất định đã qua đào tạo, nhưng nhìn cách tổng thể chất lượng nguồn nhân
lực của doanh nghiệp vẫn tăng và quan trọng hơn là doanh nghiệp tạo được sự
yên tâm cho người lao động trong doanh nghiệp của mình.
Với những ưu thế như vậy thì đào tạo nghề cần được chú trọng phát
triển hơn trong thời gian tới. Nhà nước cũng có những chính sách kịp thời, cụ
thể để đảo bảo phát triển đào tạo nghề đạt hiệu quả, thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước tới công tác đào tạo nghề. Các chính sách, các quy định
của pháp luật Việt Nam cần có thêm những khuyến khích, ưu đãi, đồng thời
khắc phục những quy định chưa phù hợp với thực tế để thu hút được doanh
nghiệp đầu tư hơn nữa vào việc đào tạo nghề.
Chính vì lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về đào tạo
nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp tại Tỉnh Nam Định” làm luận
văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề

đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề trong doanh nghiệp nói riêng.
Pháp luật về đào tạo nghề đã được đề cập đến trong luận văn “Chế độ
dạy và học nghề theo pháp luật lao động Việt Nam” của Đào Mộng Điệp.
Nhưng luận văn đó hoàn thành khi chưa có Luật Dạy nghề và mới chỉ nghiên
cứu việc dạy và học nghề theo quy định của Luật Lao động. Khóa luận tốt

4
nghiệp “Đào tạo nghề - thực trạng và một số kiến nghị” của Lê Thị Thanh
Nhàn, Trường Đại Học Luật Hà Nội năm 2010. Ở đề tại này tác giả mới đi
phân tích và đưa ra được các thực trạng của pháp luật Việt Nam về thực trạng
đào tạo nghề và một số kiến nghị. Luận văn “Hợp đồng học nghề theo luật
dạy nghề ở Việt Nam” của Trần Thị Thoa, Khoa Luật Trường Đại học Quốc
Gia Hà nội năm 2012. trong luận văn cũng có đề cạp tới đào tạo nghề nhưng
chỉ là những quy định về hợp đồng học nghề theo Luật Dạy nghề là chủ yếu
mà chưa đi sâu, phân tích cụ thể về các quy định của pháp luật Việt Nam về
đào tạo nghề nói chung. Ngoài các đề tài và luận văn trên còn phải kể tới các
bài viết như: “Quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp trong việc đào
tạo nghề, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người
lao động” của Ths Đỗ Thị Dung, đăng trên tạp chí Luật học số 7/ 2009. Bài
viết “Tình hình dạy nghề và một số vấn đề về giới trong dạy nghề tại doanh
nghiệp” của PGS.TS Cao Văn Sâm – Phó Tổng cục trưởng – Tổng cục dạy
nghề đăng trên báo Lao động và công đoàn số 448 kỳ 2 tháng 3 – 2010. Bài
viết “chế độ đào tạo nghề cho các lao động đặc thù” của TS Nguyễn Xuân
Thu đăng trên website: ngày 21 tháng 01 năm 2009.
Các đề tài, bài viết trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các nội dung
riêng lẻ về đào tạo nghề và đào tạo nghề trong doanh nghiệp mà chưa nghiên
cứu đầy đủ các quy định hiện hành của pháp luật về đào tạo nghề.
Để xây dựng được một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh về đào tạo nghề,
điều cần thiết là phải chỉ ra được những vướng mắc, những điểm không phù
hợp với thực tế và bổ sung những quy định cho hợp lý. Từ đó, ta mới có cơ sở

để thảo luận đánh giá, đề ra phương hướng và phương pháp giải quyết các
vướng mắc chính xác và có hiệu quả cao.
Cùng với sự ra đời của Bộ Luật Lao động năm 2002 và Luật Dạy nghề
năm 2007, các quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực này cũng đã

5
được xây dựng và bổ sung kịp thời đáp ứng nhu cầu của hoạt động thực tiễn
phát sinh. Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo đánh giá kết quả đạt được của
việc thực hiện luật này, cũng như những điểm còn hạn chế cần phải khắc phục
trong thời gian tới cho phù hợp.
Dựa trên những cơ sở đó, người viết lựa chọn đề tài “Pháp luật về đào
tạo nghề - Thực trạng trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định” làm luận
văn với suy nghĩ có thể tìm hiểu rõ hơn về đào tạo nghề và đào tạo nghề trong
doanh nghiệp, các vấn đề pháp lý hiện hành về đào tạo nghề, những vướng
mắc, bất cập trong các quy định pháp luật, đồng thời đưa ra các đề xuất nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật về đào tạo nghề.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về việc dạy
và học nghề, các quy định của pháp luật về đào tạo nghề, thực tế dạy và học
nghề trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định. Luận văn nhằm mục đích
làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho các quy định của pháp luật về đào
tạo nghề, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện về việc đào tạo
nghề trong các doanh nghiệp tại Nam Định.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về đào tạo nghề và
pháp luật về đào tạo nghề. Đây chính là cơ sở cần thiết cho việc nhìn nhận các
cơ sở dạy và học nghề hiện nay.
Thứ hai: Nghiên cứu và phân tích thực trạng pháp luật về đào tạo nghề
và việc dạy và học nghề tại các doanh nghiệp của tỉnh Nam Định.
Thứ ba: Căn cứ vào cơ sở lý luận và các phân tích nêu trên, luận văn sẽ

đưa ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về dạy và
học nghề, đồng thời đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật trong việc dạy và học nghề tại các doanh nghiệp của
Tỉnh Nam Định.

6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một bản luận văn thạc sỹ, với khả năng nghiên cứu và
nguồn tài liệu còn hạn chế, luận văn chưa thể nghiên cứu bao quát các vấn đề
về dạy và học nghề trong các doanh nghiệp tại Việt Nam mà chỉ dừng lại ở
những tiếp cận, đánh giá ban đầu trên cơ sở thực tế của một số doanh nghiệp
tại tỉnh Nam Định.
Luận văn cũng đưa ra đánh giá một cách tổng quát dưới góc độ pháp lý
về các quy định của pháp luật Việt Nam về đào tạo nghề và thực tế của các
doanh nghiệp trong việc dạy và học nghề tại Nam Định.
Trên cơ sở đó luận văn cũng đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện
khung pháp luật về đào tạo nghề.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng,
phát triển đất nước, cải cách hành chính xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu
đề tài còn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê …
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương
cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát chung về đào tạo nghề và pháp luật về đào tạo nghề
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đào tạo nghề và thực tiễn thực hiện

trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đào tạo nghề trong các doanh
nghiệp tại tỉnh Nam Định

7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ

1.1. Quan niệm về đào tạo nghề
Hiện nay khái niệm Đào tạo nghề đã được nhiều nước đề cập đến trong
đó phải nói tới luật của một số nước sau:
Theo Luật Dạy nghề của Đài Loan: “Dạy nghề là bao gồm việc đào tạo
trước khi tham gia quan hệ lao động cho những người chưa có việc làm và
đào tạo trong công việc cho những người đang có việc làm” [14,Điều 3]. Như
vậy theo quy định trên thì việc dạy nghề của Đài Loan là đào tạo trước và
trong quá trình người lao động làm việc.
Cũng quy định về đào tạo nghề nhưng Luật Dạy nghề của Hàn Quốc
chỉ quan tâm tới đào tạo nghề đối với những người lao động đang làm việc
với mục đích nhằm nâng cao tay nghề của họ: “Đào tạo nghề là hoạt động
đào tạo được thực hiện đối với người lao động nhằm nâng cao khả năng thực
hiện công việc của họ” [16,Điều 2].
Còn theo Bộ Luật Lao động của Pháp thì đào tạo nghề có ý nghĩa rộng hơn:
Đào tạo nghề là nghĩa vụ quốc gia, mục đích giúp người lao động thích
ứng với những thay đổi kỹ thuật và điều kiện lao động, giúp cho người lao
động tiếp cận những trình độ văn hoá, trình độ nghề nghiệp khác nhau và giúp
cho sự đóng góp tích cực của người lao động vào sự phát triển kinh tế, văn
hoá xã hội” [38,Điều 9]
Trong khi đó Trung Quốc thì cho rằng giáo dục dạy nghề là bộ phận

quan trọng của nến giáo dục quốc gia và cũng là con đường quan trọng cho
việc đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội và tạo việc làm:
Thông qua việc giáo dục dạy nghề thì các quy định Nhà nước sẽ được

8
thực hiện đó là: giáo dục tư tưởng, giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức nghề
nghiệp, kiến thức về dạy nghề sẽ được phổ biến, các kỹ năng nghề nghiệp
được bồi dưỡng và các hướng dẫn về dạy nghề được cung cấp tới người học
cũng như nâng cao chất lượng dạy nghề. [38,Điều 4]
Như vậy các nước khác nhau có quan niệm về đào tạo nghề là khác
nhau, do điều kiện lịch sử và điều kiện thực tế cũng như nhu cầu của xã hội về
lĩnh vực đào tạo nghề.
Còn ở Việt Nam thì để tìm hiểu các quy định của pháp luật về đào tạo
nghề trước tiên phải nói tới quy định của Hiến pháp. Theo Hiến pháp 1992
của Việt Nam thì học nghề được coi là một trong những quyền cơ bản của
công dân: “Công dân có quyền học văn hóa và học nghề dưới nhiều hình
thức” [18,Điều 59]. Và cụ thể từ quy định trên của Hiến Pháp 1992 nhiều bộ
luật ở Việt Nam đã có quy định về vấn đề đào tạo nghề cụ thể:
Luật Giáo dục Việt Nam thì cho rằng đào tạo nghề nằm trong khái
niệm giáo dục nghề nghiệp và được gọi là dạy nghề. Và “Dạy nghề là nhằm
đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực
hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo”. [21,Điều 33 ]. Như vậy có thể
thấy Luật Giáo dục chú trọng tới việc truyền đạt kiến thức cho người học mà
không nhấn mạnh vào trách nhiệm của cơ sở đào tạo nghề
Luật Dạy nghề cũng có quan điểm như Luật Giáo dục coi đào tạo nghề
là dạy nghề: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ
năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được
việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”.[22,Điều 5]
Mục tiêu của dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản
xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có

đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có
sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả

9
năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước [22,Điều 4].
Như vậy Luật Dạy nghề lại quan tâm tới các quy định về quyền và
nghĩa vụ của những người tham gia vào hoạt động đào tạo nghề, đến tổ chức
và hoạt động của đào tạo nghề.
Ngoài ra còn có cách tiếp cận khác “học nghề là quá trình trong đó diễn
ra các hoạt động học tập, làm quen, rèn luyện của người học nhằm đạt được
trình độ nhất định về nghề nghiệp, nắm bắt kỹ năng thực hành một nghề nhất
định, nâng cao trình độ tay nghề…” [36,tr 189].
Như vậy với các cách tiếp cận khác nhau nhưng đào tạo nghề vẫn là tạo
lập một đội ngũ công nhân kỹ thuật, có khả năng tiếp cận với công nghệ sản
xuất tiên tiến, thiết bị kỹ thuật hiện đại, sau khoá học người học nghề được
cung cấp kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cần thiết, có khả năng cạnh
tranh thị trường sức lao động trong nước và quốc tế.
Từ những quan niệm trên về đào tạo nghề ta có thể thấy cùng là quá
trình đào tạo con người nhưng đào tạo nghề có những đặc điểm riêng cụ
thể như sau:
Bên cạnh các hình thức đào tạo khác như: đào tạo đại học, đào tạo
trung học chuyên nghiệp, đào tạo phổ thông thì đào tạo nghề là hình thức đào
tạo cung cấp chính nguồn nhân lực cho xã hội. Bất cứ hình thức đào tạo nào
cũng nhằm mục đích giúp người được đào tạo có khả năng đảm đương được
một hoặc một số công việc nhất định, có những kỹ năng nghề nghiệp nhất
định, tạo cho xã hội nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu
CNH, HĐH đất nước.
Đào tạo nghề gắn liền với quá trình sản xuất. Trong quá trình dạy học,
người học muốn nắm được nội dung nghề nghiệp thì phải trực tiếp nhìn thấy

quá trình sản xuất. Đào tạo nghề là đào tạo thực hành sản xuất. Mục tiêu quan

10
trọng nhất của đào tạo nghề là sau khi được đào tạo người học có thể trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất, vì vậy trong quá trình đào tạo kỹ năng thực
hành nghề phải được đặc biệt quan tâm. Điều này được thể hiện rất rõ trong
nội dung, phương pháp và thời gian đào tạo. Trong nội dung đào tạo có cả lý
thuyết và thực hành nhưng thời gian thực hành bao giờ cũng phải dài hơn
trong quá trình đào tạo người học được tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất nên họ cũng có thể tạo ra sản phẩm hoặc góp phần tạo ra sản phẩm nên
họ phải được trả công tương xứng.
Đào tạo nghề muốn có kết quả cao phải có các điều kiện như: trang
thiết bị máy móc, nguyên vật liệu và thời gian để thực hành, có đội ngũ giáo
viên lý thuyết và thực hành vừa giỏi lý thuyết, vừa thành thạo trong thực hành
và có nghiệp vụ sư phạm tốt. Như vậy trong quá trình đào tạo nghề phải đặc
biệt quan tâm tới yếu tố thực hành.
Đây là điều kiện quyết định để đào tạo nghề đạt hiệu quả cao đó là phải
sử dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, tổ chức học và
sản xuất theo khoa học. Khoa học ngày một phát triển như vũ bão nên phải
liên tục đổi mới công nghệ sản xuất và việc cập nhật các nghề đào tạo mới
cũng là vấn đề hết sức quan trọng của việc đào tạo nghề. Đây là điểm khác
biệt giữa đào tạo nghề với đào tạo phổ thông.
Từ các đặc điểm trên ta có thể thấy những nét khác biệt của đào tạo
nghề với các hình thức đào tạo khác ở mục đích đào tạo, điều kiện đào tạo và
tính chất của quá trình đào tạo.
Như vậy đào tạo nghề là tạo lập một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành
nghề, có chất lượng cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện
đại, tiến tiến, có khả năng cạnh tranh với sức lao động quốc tế. Điều này góp
phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Phải thực sự coi dạy nghề là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển nguồn


11
nhân lực, đồng thời coi dạy nghề cũng là bồi dưỡng nhân tài. Phát triển dạy
nghề phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong
từng giai đoạn cụ thể.
Không phải ai cũng có điều kiện để học cao đẳng, đại học hoặc cao hơn
nữa. Nhu cầu học nghề của thanh niên hiện nay ngày một gia tăng. Thực tế
cho thấy đại đa số thanh niên sau khi học hết trung học phổ thông mà không
vào được đại học thì phần lớn trong số họ đã lựa chọn là đến với các cơ sở
dạy nghề để học nghề và để có cơ hội tìm việc làm. Nên quan điểm “phi đại
học bất thành nhân” trong xã hội ngày nay đang dần được thay đổi, đồng thời
góp phần khắc phục được bất cập bấu lâu của xã hội Việt Nam là: “tìm bằng
cấp thì có, tìm tay nghề thì khó”. Như vậy có thể nói đào tạo nghề là một
chiến lược quan trọng, nó đã tạo ra nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, phát
triển kinh tế xã hội.
1.2. Pháp luật về đào tạo nghề
1.2.1. Nguyên tắc về đào tạo nghề
Theo quy định của các Công ước quốc tế về đào tạo nghề và Bộ Luật
Lao động Việt Nam về học nghề thì pháp luật về đào tạo nghề phải tuân theo
các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc được tự do học nghề và dạy nghề. Nguyên tắc này được
quy định cụ thể: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm
và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ ”[19,Điều 5]. Còn theo quy
định của BLLĐ 2012 thì: “Người lao động được lựa chọn nghề, học nghề tại
nơi làm việc phù hợp với nhu cầu việc làm của mình” [20,Điều 59]. Học nghề
và việc làm là những nhu cầu thiết yếu của tất cả mọi người và việc pháp luật
quy định mọi người đều có quyền học nghề để nâng cao trình độ, tự do lựa
chọn nghề để học cũng như hướng tìm việc làm cho mình sau này là rất đúng
đắn và phù hợp với quy luật. “Doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có đủ điều


12
kiện theo quy định của pháp luật thì được mở cơ sở dạy nghề” [19,Khoản
Điều 20]. Pháp luật cũng quy định về điều kiện để được mở cơ sở dạy nghề
khi có đủ điều kiện. Như vậy theo quy định trên trong Bộ Luật Lao động Việt
Nam thì mọi người có quyền tự do lựa chọn nơi dạy nghề. Vì trên thực tế các
cơ sở đào tạo nghề rất nhiều nhưng không phải cơ sở nào cũng có cơ sở vật
chất, đội ngũ giáo viên giảng dạy và các nghề đào tạo là giống nhau.
Nguyên tắc bình đẳng và không bị phân biệt đối xử khi học nghề.
Nguyên tắc này được quy định trong Bộ Luật Lao động cụ thể “ không bị
phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo”.[19,Điều 5]. Để nguyên tắc này đi vào thực tế đòi hỏi mọi cơ sở nghề đều
phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, khi đã là người học học nghề
thì họ được đối xử bình đẳng như nhau về mọi chế độ trong quá trinh học,
không nên có sự phân biệt, kỳ thị giữa các dân tộc, tôn giáo, giới tính cũng như
các thành phần xã hội trong quá trình học nghề tại các cơ sở đào tạo nghề.
Nguyên tắc khuyến khích các hoạt động đào tạo nghề gắn với việc làm.
Để thực hiện được nguyên tắc này Nhà nước phải có những chính sách linh
hoạt để tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề và
nhất là các cơ sở đào tạo nghề có hoạt động đào tạo nghề gắn với giải quyết
việc làm cho người học nghề như đào tạo nghề tại doanh nghiệp. Tùy vào
điều kiện cụ thể của nước mình mà có những quy định tương ứng. Ở Việt
Nam theo quy định tại Điều 6 Nghị Định số 23/CP ngày 18 – 4 – 1996 của
Chính Phủ có chính sách vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia về việc làm
cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, miễn giảm thuế cho
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được quy định ở Điều 7 của Nghị
Định số 23/CP ngày 18 – 4 – 1996 của Chính Phủ hay hỗ trợ kinh phí đào tạo
nghề cho các đối tượng đặc biệt như: thương binh, bệnh binh, người tàn tật,
người dân tộc thiểu số….

13

Nguyên tắc cấm cưỡng bức, ngược đãi trong đào tạo nghề. Theo quan
điểm của ILO thì các hoạt động cưỡng bức trong lao động bao gồm bất cứ
công việc nào, được trả công hay không được trả công, phải làm một cách
không tình nguyện hoặc vì bị đe dọa trừng phạt. Ở Việt Nam thì nguyên tắc
này được thể hiện trong BLLĐ và Luật Dạy nghề cụ thể. Theo Luật Dạy nghề
năm 2006 về các hành vi bị cấm trong hoạt động dạy nghề như: “Lợi dụng
dạy nghề để trục lợi, lạm dụng sức lao động. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm,
xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên của cơ sở dạy nghề
và người học nghề”[22,Điều 9]. Ngoài ra còn quy định “Nghiêm cấm mọi
doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân lợi dung danh nghĩa dạy nghề, truyền nghề
để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, tập nghề
vào những hoạt động trái pháp luật”[19, Điều 25]. Các quy định trên đòi hỏi
cả hai bên bên học nghề và bên dạy nghề đều phải tôn trọng nhau và thực hiện
theo quy định của pháp luật về những điều cấm trong đào tạo nghề
Nguyên tắc xã hội hóa trong đào tạo nghề: Để thực hiện được nguyên
tắc này thì Việt Nam phải “Khuyến khích các cá nhân, tổ chức Việt Nam, cá
nhân, tổ chức nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thành lập cơ
sở dạy nghề và tham gia hoạt động dạy nghề… các cơ sở dạy nghề bình đẳng
trong hoạt động dạy nghề và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước theo quy
định của pháp luật”. [22,Điều 7].
Phát triển các cơ sở dạy nghề ngoài công lập bao gồm các cơ sở dạy
nghề tư thục, dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài, cơ sở dạy nghề tại doanh
nghiệp và dạy nghề tại nơi sản xuất. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho
doanh nghiệp thành lập trường nghề, trung tâm dạy nghề; liên kết với trường
nghề trong đào tạo và giải quyết việc làm; nhận học sinh, sinh viên của nhà
trường đến doanh nghiệp thực hành, thực tập. Xây dựng các mô hình, hình
thức và phương thức hợp tác, gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để

14
nâng cao khả năng có việc làm cho người lao động sau khi được đào tạo. Phát

triển mạnh các cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp để đào tạo nghề cho lao động
của doanh nghiệp và cho xã hội; khuyến khích phát triển dạy nghề theo dây
chuyền sản xuất của doanh nghiệp. Huy động doanh nghiệp trực tiếp tham gia
vào quá trình đào tạo nghề, như: xây dựng mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy nghề; xây dựng danh mục nghề, tiêu chuẩn nghề; tham gia giảng dạy và
đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động.
Nguyên tắc kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
trong đào tạo nghề. Theo nguyên tắc này thì các quy định của pháp luật về
đào tạo nghề phải là sự kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội và được thể hiện thành các nội dung như: các ưu đãi về thuế với các
doanh nghiệp có đào tạo nghề, trách nhiệm đào tạo lại nghề cho lao động,
trách nhiệm đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ…để tránh trường hợp
các doanh nghiệp chịu thiệt thòi về kinh tế khi thực hiện các nghĩa vụ mang
tính xã hội.
Nguyên tắc hội nhập quốc tế về đào tạo nghề. Việt Nam nên mở rộng
hợp tác quốc tế để trao đổi và học tập kinh nghiệm của các nước trong phát
triển dạy nghề. Tăng cường hợp tác quốc tế về dạy nghề, lựa chọn các đối tác
chiến lược trong lĩnh vực dạy nghề là những nước thành công trong phát triển
dạy nghề ở khu vực ASEAN và châu Á. Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa
học về dạy nghề, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
dạy nghề tiên tiến để nâng cao chất lượng dạy nghề. Tích cực tham gia các
hoạt động quốc tế về dạy nghề. Khuyến khích các cơ sở dạy nghề trong nước
mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. Tạo
hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài phát triển
các cơ sở dạy nghề chất lượng cao tại Việt Nam.

15
1.2.2. Nội dung pháp luật về đào tạo nghề
Nội dung pháp luật về đào tạo nghề gồm những nội dung sau:
Thứ nhất: Pháp luật điều chỉnh vấn đề đào tạo nghề cho người lao

động để làm việc cho doanh nghiệp theo thời hạn đã cam kết.
Đây là trường hợp đào tạo nghề khá đặc biệt vì một bên trong quan hệ
đào tạo nghề bao giờ cũng là doanh nghiệp, sau khi được đào tạo nghề người
được đào tạo sẽ phải làm việc cho doanh nghiệp theo một thời hạn đã cam
kết. Chính vì vậy nên pháp luật về đào tạo nghề cần có những quy định tương
ứng để điều chỉnh quan hệ này cho phù hợp.
Xuất phát từ chủ thể đào tạo là chủ thể đặc thù đó là doanh nghiệp nên
những quy định về điều kiện đối với doanh nghiệp có hoạt động đào tạo nghề
trên cũng phải mềm dẻo và ít khắt khe hơn so với các cơ sở đào tạo nghề
thông thường khác và nhất là các quy định liên quan đến chi phí đào tạo nghề
có nhiều điểm khác.
Thứ hai: Pháp luật điều chỉnh vấn đề đào tạo lại nghề cho người lao động.
Như chúng ta biết do nhu cầu sản xuất, kinh doanh nên các doanh
nghiệp phải thay đổi cơ cấu tổ chức, công nghệ sản xuất và các trang thiết bị
máy móc. Các thay đổi đó có thể dẫn tới một số lao động bị mất chỗ làm việc.
Vì vậy doanh nghiệp phải có trách nhiệm với những người lao động này. Đào
tạo lại nghề cho người lao động bị mất chỗ làm việc trong trường hợp này là
nghĩa vụ bắt buộc của các doanh nghiệp. Để các doanh nghiệp chủ động hơn
trong đào tạo lại nghề cho người lao động, pháp luật về đào tạo lại nghề trong
doanh nghiệp cũng quy định cụ thể trong những trường hợp nào doanh nghiệp
phải đào tạo lại nghề cho người lao động.
Thứ ba: Pháp luật điều chỉnh về đào tạo nghề dự phòng cho lao động
nữ. Mục đích là nhằm tạo cơ hội cho lao động nữ khi họ không thể tiếp tục
công việc cũ và để ràng buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp khi sử dụng

16
lao động nữ. Trong quá trình sử dụng lao động nữ, doanh nghiệp phải đào tạo
dự phòng cho họ khi mà họ làm những công việc họ không thể làm việc liên
tục cho đến khi hết tuổi lao động. Nội dung pháp luật về đào tạo nghề dự
phòng cho lao động nữ trong doanh nghiệp gồm: các trường hợp cần đào tạo

nghề dự phòng, kinh phí cho hoạt động đào tạo nghề dự phòng, chính sách
của Nhà nước đối với doanh nghiệp có đào tạo nghề dự phòng.
Thứ 4: Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong đào tạo nghề. Đây là
nội dung liên quan nhiều nhất đến vấn đề bồi thường chi phí đào tạo nghề
trong trường hợp người lao động vi phạm cam kết thời hạn làm việc với
doanh nghiệp. Theo quy định mức bồi thường chi phí đào tạo thường do hai
bên thỏa thuận. Tuy nhiên trên thực tế lại phát sinh rất nhiều vấn đề và không
phải lúc nào các bên cũng thỏa thuận được nên thường phát sinh tranh chấp.
Như vậy nội dung pháp luật về đào tạo nghề của Việt Nam có nhiều
điểm giống với pháp luật của Trung Quốc: Theo Luật Dạy nghề của Trung
Quốc có các hình thức đào tạo nghề: “đào tạo trước khi tuyển dụng, đào tạo
cho quân nhân chuyển sang làm việc dân sự, đào tạo trong quá trình làm việc,
đào tạo chuyển giao và các đào tạo có tính chất nghề khác…” [40, Điều 14]
Các quy định cụ thể của pháp luật liên quan đến vấn đề này và thực tế
trong các doanh nghiệp tại tỉnh Nam Định sẽ được nêu ra và phân tích cụ thể
trong chương 2 của luận văn.
1.2.3. Ý nghĩa của đào tạo nghề
Con người luôn là yếu tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế, đặc biệt
trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Muốn nâng cao
năng suất lao động, tăng trưởng và phát triển kinh tế mà chỉ có các phương tiện
công nghệ thì chưa đủ, mà còn cần phát triển một cách tương xứng năng lực
của con người sử dụng những phương tiện đó. Vậy con người là yếu tố cơ bản
của tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Để có nguồn nhân lực phù hợp

17
với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng và phát triển kinh tế
phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của
đầu tư phát triển. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các
lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý
nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật.

Theo điều tra xã hội học, nguồn nhân lực của nước ta hiện nay đã cải
thiện hơn so với nhiều năm trước đây. Tuy nhiên, chất lượng của nguồn nhân
lực vốn được xem là khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền kinh tế,
của phát triển xã hội thì vẫn còn nhiều hạn chế hay nói đúng hơn là vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Chính
vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm
2020 nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam với chỉ số ước đạt
55% lao động có tay nghề cao, nhằm đáp ứng trước thách thức của nền kinh tế
thị trường. Thông qua chiến lược này, Chính phủ kỳ vọng người lao động có đủ
trình độ, độ nhạy cảm đối mặt với một thách thức rất lớn là môi trường làm
việc mang tính cạnh tranh. Cạnh tranh với lao động trong nước và cạnh tranh
với lao động nước ngoài, khi tham gia vào quá trình xuất khẩu lao động hay khi
lao động nước ngoài trực tiếp vào làm việc tại Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, công tác dạy nghề nói chung đã từng bước đáp
ứng được nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề cung cấp cho các doanh nghiệp
và thị trường lao động. Trên thực tế, không ít người lao động có nghề đã đảm
nhận được các vị trí công việc chủ chốt trong sản xuất, kể cả những ngành
thuộc lĩnh vực đặc thù, công nghệ cao. Nhưng như vậy chưa đủ, để hội nhập
sâu rộng, để có thể làm chủ công nghệ tiên tiến, hoặc xuất khẩu lao động, các
trường nghề rất cần trang bị cho học viên những kiến thức phù hợp, để học
viên có thể đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động. Song, đó mới chỉ là
những kế hoạch được nêu trong các báo cáo, còn thực chất chất lượng đào tạo

18
nghề hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập. Ngoài việc các trường Đại học, Cao
đẳng ồ ạt mở rộng đào tạo đến cả bậc trung cấp nghề, cao đẳng nghề thì hầu
hết trang thiết bị của các trường nghề đều rơi vào tình trạng lạc hậu. Có những
trường nghề hiện nay còn dùng các loại máy móc những năm 60 - 70 của thế
kỷ 20 được nhập từ các nước Đông Âu thì làm sao đáp ứng được nhu cầu
công nghệ của doanh nghiệp hiện nay. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên cũng

chưa thật sự đủ mạnh để có thể truyền nghề cho học sinh của mình. Từ thực
tiễn công tác đào tạo chúng ta có thể nhận thấy một nghịch lý tồn tại hiển
nhiên "thừa thầy thiếu thợ", chưa kể tâm lý học trung cấp nghề, cao đẳng
nghề rất khó tìm được việc làm, nếu có thu nhập cũng ở mức thấp.
Việt Nam đang bước vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế,
khoa học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ và được ứng dụng rộng
rãi trong sản xuất và đời sống xã hội. Chính vì vậy đào tạo nghề có vai trò quan
trọng hơn bao giờ hết, nó không chỉ có ý nghĩa thiết yếu với bản thân người lao
động mà còn có cả ý nghĩa về phương diện kinh tế xã hội và pháp lý.
Ý nghĩa về kinh tế xã hội: Hiện nay công tác đào tạo nguồn nhân lực
trên cả hai bình diện chất lượng và số lượng, đều tụt hậu khá xa so với nhu
cầu sử dụng, nếu không khắc phục nhanh thì sẽ trở thành nhân tố kìm hãm
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từ một thực tế đáng quan tâm tới cấu trúc đào
tạo hiện nay ở Việt Nam là còn rất thấp so với khu vực và thế giới. Vì vậy
công tác đào tạo nguồn nhân lực đang là thách thức lớn đối với phát triển
kinh tế quốc dân. Mặc dù thiếu lao động có trình độ, nhưng hiện nay ở Việt
Nam tình trạng đào tạo thừa thầy thiếu thợ đã xảy ra trong những năm gần
đây, do nhiều năm qua chúng ta đã duy trì một cơ cấu đào tạo bất hợp lý dẫn
đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường thiếu việc làm nghiêm trọng.
Các ngành sản xuất và chế biến công nghiệp đòi hỏi nhiều công nhân có tay
nghề cao cũng rất thiếu lao động. Kết quả đánh giá các chỉ số nhân lực ở

19
Việt Nam cho thấy, tình trạng thiếu hụt lao động trầm trọng vẫn tiếp tục diễn
ra ở các ngành nghề dệt may, da giày, gỗ, du lịch. Chỉ số cầu nguồn nhân lực
của hầu hết ngành nghề tăng đáng kể và tập trung vào các lĩnh vực đòi hỏi
chuyên môn và trình độ cao.
Vì vậy công tác đào tạo nguồn nhân lực đang là thách thức lớn đối với
phát triển kinh tế quốc dân. Phải thực sự coi đào tạo nghề là nhiệm vụ trọng
tâm trong phát triển nguồn nhân lực, đồng thời phải coi đào tạo nghề là bồi

dưỡng nhân tài cho đất nước, phát triển dạy nghề phải gắn với chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể, phải chuẩn bị
một lực lượng lao động có đủ trình độ để sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu trong
công việc là chìa khóa để rút ngắn khoảng cách giữa cung - cầu nhân lực và
chuẩn bị cho những đòi hỏi của thị trường nhân lực trong tương lai.
Bên cạnh việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước thì đào tạo nghề
còn góp phần giải quyết việc làm, tạo việc làm cho xã hội. Thất nghiệp và
thiếu việc làm đang là vấn đề bức xúc và gay gắt ở Việt Nam, giải quyết việc
làm cho người lao động có nhiều biện pháp trong đó có đào tạo nghề. Qua quá
trình đào tạo sẽ giải quyết việc làm cho người lao động chưa có việc làm, sắp
xếp lại việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp.
Tính đến thời điểm 1/10/2012, cả nước có 53,1 triệu người từ 15 tuổi
trở lên thuộc lực lượng lao động. Trong đó, có 52,1 triệu người có việc
làm, gần 70% lực lượng lao động thuộc khu vực nông thôn. Đối tượng
thanh niên độ tuổi 15-24 đang chiếm 47% tổng số người thất nghiệp. Tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị cao hơn khu vực nông thôn (3,3% so với 1,4% trong
3 quý đầu năm 2012).
Ngoài ra, theo kết quả điều tra, bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong vấn
đề lao động việc làm. Có tới 2,5% phụ nữ không có việc làm trong khi tỷ lệ
này ở nam giới là 1,7%. Tìm việc đồng thời cũng là một vấn đề lớn đối với

×