Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới của viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.21 KB, 123 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,
Viện kiểm sát nhân dân có vai trị rất quan trọng trong hàng loạt các hoạt động
từ việc phát hiện, phân loại xử lý thông tin tội phạm cho đến quá trình điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Thực hiện những nhiệm vụ trên đây,
trong những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân không ngừng nâng cao hiệu
quả hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và đấu tranh
phịng, chống bn lậu, vận chuyển hàng hố trái phép hàng hố qua biên giới
nói riêng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
Quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới, cơ chế thị trường
đã đưa đến những tác động tiêu cực. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh
vực kinh tế tồn tại những bất cập. Một số đối tượng lợi dụng chính sách mở
cửa trong thương mại để bn lậu, vận chuyển hàng hố trái phép qua biên
giới khơng chỉ gây thất thốt thuế xuất nhập khẩu cho Nhà nước, mà còn làm
ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự quản lý kinh tế ở tầm vĩ mơ do Nhà nước
khơng kiểm sốt được hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là nhóm tội phạm
xuất phát từ việc săn tìm lợi nhuận cao, đối tượng được nhằm tới là hàng hoá,
tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử,
văn hố và hàng cấm…Nhóm tội phạm này cũng liên quan đến nhiều mảng
hoạt động kinh doanh khác và mang tính chất chuyển hố, biến động khơng
ngừng theo nhu cầu của xã hội.
Trên thực tế, việc áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm buôn lậu, vận
chuyển hàng hoá trái phép hàng hoá qua biên giới cũng như các tội phạm
khác về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khác đều gặp khơng ít khó khăn do
ln phải đối mặt với sự biến động của các dòng nhu cầu tiêu dùng trên thị
trường, với sức thu hút của cán cân lợi nhuận so với những mặt hàng khác



2
thông thường khác, các đối tượng phạm tội dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, lợi
dụng kẽ hở của pháp luật để phạm tội, thậm chí đối với cả những tiêu cực
phát sinh từ chính những người có trách nhiệm trong việc quản lý thị trường,
xuất nhập khẩu, hàng hoá... Trong khi hệ thống các văn bản pháp luật nhất là
Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS để điều chỉnh tội phạm nói chung và cụ thể là
các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm thuộc nhóm này cịn nhiều bất cập,
phụ thuộc vào các văn bản dưới luật, thường xuyên có sự điều chỉnh và thay
đổi để phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế. Do đó dẫn đến vướng
mắc, khó khăn trong q trình áp dụng pháp luật, mà hai biểu hiện bất cập rõ
nhất là thiếu các qui định cụ thể, hoặc một số qui định chồng chéo. Thực tế đó
đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các cơ quan chức năng, trong đó
có cơ quan Viện kiểm sát, phải làm sao áp dụng pháp luật một cách đúng đắn,
chính xác để kịp thời phát hiện, xử lý đối với các dạng tội phạm này, bảo đảm
việc xử lý đúng người, đúng hành vi, đúng pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân Quảng Ninh thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát tư pháp trên địa bàn một tỉnh thuộc vùng trọng điểm
kinh tế phía Bắc, nằm trọn vẹn trong chương trình “hai hành lang, một vành đai
kinh tế” giữa Việt Nam và Trung Quốc. Với những thuận lợi từ kết quả đạt
được sau hơn hai mươi năm đổi mới, Quảng Ninh đã cơ bản thay đổi diện mạo
trên mọi lĩnh vực, chính trị ổn định, quốc phịng an ninh được bảo đảm, trật tự,
kỷ cương, an toàn xã hội được giữ vững, đời sống của đông đảo nhân dân các
dân tộc trong tỉnh ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố
tích cực, tiến trình xây dựng và phát triển ở Quảng Ninh đã và đang gặp phải
khơng ít khó khăn. Một trong những khó khăn đó là tình hình tội phạm trên địa
bàn tồn tỉnh có chiều hướng gia tăng. Trong đó tội phạm bn lậu, vận chuyển
hàng hoá trái phép hàng hoá qua biên giới ngày càng xuất hiện nhiều với những
phương thức mới, với tính chất ngày càng nghiêm trọng và phức tạp, làm ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả các hoạt động quản lý nhà nước trong



3
các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính sách hợp tác kinh tế giữa hai nước Việt Trung. Trước tình hình đó, ngành Kiểm sát tỉnh Quảng Ninh dưới sự lãnh đạo
của các cấp uỷ Đảng và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã không ngừng chủ
động đổi mới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị với mục tiêu thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08, Nghị
quyết 48 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới và Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Do đó, nghiên cứu thực trạng q trình áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố giai đoạn điều tra các vụ án về tội bn lậu, vận chuyển
hàng hố trái phép qua biên giới trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để tìm ra cách
thức áp dụng pháp luật một cách hiệu quả nhất thực chất là góp phần tăng
cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực quản lý kinh tế, giúp cho hoạt động
quản lý kinh tế trên cả nước nói chung và Quảng Ninh nói riêng theo đúng
chính sách của Nhà nước, kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm, tội
phạm, tạo sự bình ổn, trận tự cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế và hội
nhập, đáp ứng yêu cầu đổi mới giai đoạn hiện nay.
Với mục đích đó, đề tài luận văn Thạc sỹ “Áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh
Quảng Ninh” mong muốn góp phần đánh giá đúng thực trạng hoạt động áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án
bn lậu, vận chuyển hàng hố trái phép hàng hoá qua biên giới của ngành
kiểm sát Quảng Ninh, đồng thời nêu lên những điểm còn bất cập, hạn chế đề
xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật đúng đắn
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án bn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hố qua biên giới của VKSND ở tỉnh Quảng Ninh đáp



4
ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
nhân dân đối với các vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra là mảng đề tài phong
phú và được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Một số cơng trình, đề tài
nghiên cứu có liên quan đến quyền công tố trong giai đoạn điều tra như:
- “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thực
hành quyền cơng tố và kiểm sốt tư pháp”, đề tài khoa học do Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hiện năm 1998.
- “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố
ở Việt Nam từ 1945 đến nay”, đề tài khoa học do Viện kiểm sát nhân dân tối
cao thực hiện năm 1999.
- “Thực hành QCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra” do Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên Nxb Tư pháp năm 2008.
- “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các
vụ án hình sự", đề tài khoa học do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện
năm 2008.
- “Quyền công tố ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ khoa học Luật học năm
2002 của Lê Thị Tuyết Hoa.
- “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp”, chuyên đề khoa học 2002 của
tác giả Hà Mạnh Trí.
- “Tài liệu tập huấn Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra - kiểm sát xét xử án sơ
thẩm án hình sự của Viện kiểm sát” của tác giả Trần Thu.
- “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Chí Dũng.


5
- “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều
tra của Viện kiểm sát Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Luật
học của Trịnh Duy Tám.
- “Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án ma tuý theo yêu
cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sỹ luật học năm
2007 của Bùi Mạnh Cường.
- “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá”, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008 của Vũ
Xuân Thoan.
- “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều
tra các tội phạm ma tuý của Viện kiểm sát nhân dân các cấp tỉnh Nghệ An”,
Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2009 của Trần Xuân Trường.
Một số bài viết về các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp của các tác giả trong ngành kiểm sát như:
- Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, của tác giả Hà Mạnh Trí, trên
tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/2003.
- Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng thực hành
quyền cơng tố và kiểm sốt hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát theo yêu cầu
cải cách tư pháp, của tác giả Nguyễn Duy Giảng, trên tạp chí Kiểm sát số 14
và 16 năm 2008.
Ngồi ra có một số luận văn cao cấp, luận văn cử nhân chính trị nghiên
cứu về tăng cường pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp của một số học viên thực hiện trong quá trình
được đào tạo tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và

một số bài viết trên các báo và tạp chí có liên quan.
Tuy nhiên cho đến nay việc nghiên cứu một cách có hệ thống đối với
việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các


6
tội phạm về trật tự quản lý kinh tế còn rất hạn chế. Đặc biệt là việc nghiên cứu
và áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra đối
với các vụ án buôn lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép hàng hoá qua biên giới
gắn với địa bàn tỉnh Quảng Ninh chưa từng được thực hiện. Xuất phát từ các
lý do trên, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh
Quảng Ninh” cho luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án bn
lậu, vận chuyển hàng hố trái phép hàng hố qua biên giới ở tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án buôn lậu, vận
chuyển hàng hoá trái phép hàng hoá qua biên giới của Viện kiểm sát nhân
dân. Trong đó tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, quy trình và các yếu tố
bảo đảm việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trong các vụ án về buôn lậu, vận chuyển
hàng hoá trái phép hàng hoá qua biên giới.
- Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra các vụ án bn lậu, vận chuyển hàng hố trái phép hàng
hố qua biên giới của Viện kiểm sát hai cấp của tỉnh Quảng Ninh, trọng tâm là

phân tích làm rõ những ưu điểm cũng như những hạn chế, tồn tại và ngun
nhân của những hạn chế, tồn tại đó.
- Phân tích làm rõ yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra về các tội buôn


7
lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép hàng hoá qua biên giới của Viện kiểm sát
nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh, đồng thời đề xuất các quan điểm và giải pháp và
kiến nghị nhằm bảo đảm hoạt động công tố góp phần quan trọng vào cuộc đấu
tranh chống bn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các
vụ án buôn lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép hàng hoá qua biên giới của
Viện kiểm sát hai cấp của tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn
điều tra các vụ án bn lậu, vận chuyển hàng hố trái phép hàng hố qua biên
giới của Viện kiểm sát ở tỉnh Quảng Ninh từ năm 2006 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Về cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tường Hồ Chí Minh về việc xây dựng pháp chế XHCN, đề cao pháp luật trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm hoạt động giám sát của cơ quan
Viện kiểm sát, đặc biệt là quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, qui định
của Hiến pháp, pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, có liên quan đến hoạt động
thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin. Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp,
phương pháp lơgic lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện vấn đề áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố giai đoạn


8
điều tra về các tội buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới của
Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh, vì vậy có những đóng góp khoa
học sau:
- Luận văn phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố giai đoạn điều tra về các tội buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hoá qua biên giới của Viện kiểm sát nhân dân.
- Luận văn đánh giá thực trạng chất lượng áp dụng pháp luật thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra về các tội buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hoá qua biên giới của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh,
trên cơ sở đó tìm ra ngun nhân và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố công tác kiểm sát lĩnh vực này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố giai đoạn điều tra các tội bn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hố qua biên giới của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh
Quảng Ninh. Do đó, ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
sử dụng làm tư liệu tham khảo, vận dụng trong quá trình giảng dạy và nghiên
cứu về hoạt động của Viện kiểm sát, nhất là những vấn đề có liên quan đến chức
năng thực hành quyền công tố và công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.



9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN BN LẬU, VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HỐ QUA
BIÊN GIỚI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
BN LẬU, VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HỐ QUA BIÊN GIỚI CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra các tội buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua
biên giới của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung do các
cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo một trình tự thể hiện
dưới một hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá
trình xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xét bình
diện chung nhất, pháp luật xã hội chủ nghĩa “là hệ thống quy phạm pháp luật thể
chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [14, tr.143].
Pháp luật nói chung và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng có vai trị
và giá trị xã hội rất quan trọng mà không một công cụ, phương tiện điều chỉnh
nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, vai trị của pháp luật chỉ có thể thực sự phát
huy hiệu quả khi các quy định của pháp luật được các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, công dân thực hiện một cách tự giác, nghiêm minh. Do vậy, vấn đề

đặt ra là không phải chỉ có đủ các các văn bản pháp luật đáp ứng nhu cầu xã hội
mà điều quan trọng là pháp luật cần phải được thực hiện trong thực tế.


10
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có tổ
chức, có mục đích của con người, là những hoạt động, những cách thức, quy
trình làm cho các quy tắc xử sự chung chứa đựng các quy phạm pháp luật trở
thành hành vi, cách xử sự thực tế của chủ thể pháp luật. Khi các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thì các quan hệ xã hội trở thành các
quan hệ pháp luật với các chủ thể mang quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng.
Khi các chủ thể pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình
sẽ làm phát sinh các hành vi pháp luật, hay nói cách khác, thực hiện pháp luật
làm cho các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật được thực hiện trong
đời sống xã hội.
Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã
phân chia thực hiện pháp luật thành những hình thức cụ thể như: Tuân thủ
pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
(ADPL). Tuân thủ pháp luật là hình thức các chủ thể quan hệ pháp luật không
thực hiện hành vi mà pháp luật cấm. Đây là hình thức các chủ thể pháp luật
khơng thực hiện những điều mà pháp luật không cho phép làm. Thi hành pháp
luật là việc các chủ thể quan hệ pháp luật phải thực hiện những hành vi mà
pháp luật quy định được thực hiện trong những hoàn cảnh, những quan hệ
pháp luật mà pháp luật đã dự liệu cụ thể. Sử dụng pháp luật là hình thức các
chủ thể thực hiện pháp luật sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép. ADPL
là một trong những hình thức thực hiện pháp luật có những đặc điểm riêng so
với các hình thức thực hiện pháp luật khác và bao giờ cũng có sự tham gia của
các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có thẩm quyền.
ADPL là hình thức thực hiện pháp luật quan trọng, thơng qua hình thức
này ý chí của nhà nước được trở thành hiện thực, nhà nước được thực hiện

các chức năng tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho
việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các công chức nhà nước
trong khuôn khổ pháp luật.


11
ADPL cần được tiến hành thông qua các trường hợp sau:
Trong trường hợp khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước
hoặc áp dụng chế tài xử lý đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp
luật. Ví dụ một cơng dân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hành vi đã có đầy
đủ các yếu tố thành tội trộm cắp tài sản được qui định trong Bơ luật hình sự,
khơng phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự mặc nhiên phát sinh và người vi
phạm tự giác chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có các
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và những người có thẩm quyền
nhằm điều tra, truy tố, xét xử để đối chiếu với quy định của pháp luật để ấn
định trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi vi phạm và buộc
người này phải chấp hành.
Trong những trường hợp khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể không mặc nhiên, phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can
thiệp của nhà nước. Ví dụ: Hiến pháp 1992 quy định lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân nhưng nhưng quan hệ pháp luật lao động với những
quyền và nghĩa vụ cụ thể giữa công dân với một cơ quan nhà nước chỉ phát
sinh khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng người
đó vào làm việc.
Trong một số quan hệ pháp luật nhà nước thấy cần thiết phải tham gia
để kiểm tra giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó; hoặc
nhà nước xác nhận sự tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.
Như vậy ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực nhà nước
được thực hiện thơng qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức
trách hoặc tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, tiến hành theo một

thủ tục do pháp luật quy định, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật
vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân cụ thể và tổ chức cụ thể. Từ
những phân tích trên đây có thể đi đến kết luận ADPL là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó nhà nước thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm


12
quyền hoặc cán bộ cơng chức có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực
hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào những quy định
của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, hay chấm dứt những
quan hệ pháp luật cụ thể.
1.1.1.2. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
Nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới nói chung và lịch
nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng cho thấy, QCT xuất hiện cùng với
sự ra đời của nhà nước, được phát triển và hoàn thiện cùng với sự phát triển
và hoàn thiện bộ máy và các chức năng của nhà nước. QCT xuất hiện do nhu
cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và nhu cầu duy trì an ninh chung của
xã hội, chống lại các hành vi xâm phạm đến lợi ích chung, lợi ích cơng cộng.
Như vậy, có thể nói rằng QCT là một loại quyền lực nhà nước, được dùng để
buộc tội, yêu cầu trừng trị tội phạm và người phạm tội một cách công khai
qua con đường xét xử.
Ở nước ra, thuật ngữ QCT lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiếp pháp
năm 1980 khi đề cập đến chức năng của VKSND (điều 138). Từ đó đến nay,
khái niệm QCT đã đề cập nhiều trong các tài liệu khoa học pháp lý với các
mức độ khác nhau. Có tác giả nghiên cứu QCT khi đề cập, nghiên cứu các
vấn đề chung của TTHS, một số bài viết có tính chất chun khảo phân tích
có hệ thống về QCT. Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan điểm khác
nhau, có thể tóm tắt thành các nhóm ý kiến như sau:
Thứ nhất: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ
là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

TTHS [16]. Quan điểm này đã đánh đồng QCT với chức năng kiểm sát tuân
theo pháp luật của VKS, coi việc thực hiện QCT chỉ là một quyền năng, một
hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Có thể nói
đây là quan điểm khá phổ biến ở nước ta từ năm 1960 cho đến khi Luật tổ
chức VKSND năm 2002 được ban hành. Đây là quan điểm chịu ảnh hưởng


13
mạnh mẽ của các nhà tố tụng hình sự và quan điểm về TTHS của Liên Xô
trước đây.
Thứ hai: QCT là quyền duy nhất của VKS thay mặt Nhà nước để bảo
vệ lợi ích cơng khi có các vi phạm pháp luật. Vì vậy, VKS thực hành QCT
khơng chỉ có trong TTHS mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như kinh tế, dân
sự và các hoạt động tư pháp khác [28]. Quan điểm này được đưa vào chương
trình giảng dạy chính thức của Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội. Những
người theo quan điểm này cho rằng, QCT xuất hiện từ khi có nhà nước và
pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, TTHS. Sau đó với sự
phát triển của xã hội, của các ngành luật, QCT được mở rộng sang các lĩnh
vực khác như kinh tế, dân sự, lao động mà biểu hiện của nó là VKS có quyền
khởi tố các vụ án hình sự, lao động, kinh tế…[13].
Thứ ba: QCT là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy tố người phạm
tội ra trước Tồ án và thực hiện việc buộc tội đó tại phiên tồ [24]. Quan điểm
này nhấn mạnh vai trị duy nhất của VKS trong việc thực hành QCT và chỉ
thực hiện trong tố tụng hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Điều này cũng có
nghĩa là QCT khơng có trong giai đoạn điều tra và đồng nhất QCT với quyền
buộc tội và bảo vệ việc buộc tội của VKS tại phiên tồ sơ thẩm hình sự.
Thứ tư: QCT là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [27, tr.94],
hoặc đó là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra, VKS, Toà án trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội [30, tr.380]. Theo

quan điểm này thì các cơ quan tiến hành tố tụng đều là chủ thể của QCT,
không có ranh giới rạch rịi giữa các chức năng cơ bản như điều tra, truy tố,
xét xử trong tố tụng hình sự.
Thứ năm: QCT là quyền nhân dân Nhà nước thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về nhà nước,
được nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở Việt Nam là VKSND) để


14
phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Đề làm được điều này, cơ quan chức năng thực hành QCT phải có trách
nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm
và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tồ án và bảo vệ sự
buộc tội đó trước phiên tồ [26, tr.40]. Theo quan điểm này thì QCT là quyền
nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi
phạm pháp luật mà luật hình sự coi là tội phạm. QCT chỉ có trong lĩnh vực
TTHS, ở nước ta, quyền này Nhà nước giao cho VKSND thực hiện.
Như vậy, có thể thấy mối nhóm ý kiến trên đây đều có những cách lý
giải khác nhau về QCT và ở những khía cạnh nhất định có những hạt nhân
hợp lý. Tuy nhiên, theo chúng tơi, các quan điểm trên đây cịn có những bất
cập, hoặc là coi chức năng thực hành QCT vào chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKS, coi thực hành QCT không chỉ thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến xem nhẹ bản
chất của QCT - là một hoạt động độc lập của VKS được nhà nước uỷ quyền,
hoặc đồng nhất QCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, dẫn đến
mở rộng phạm vi QCT sang cả các lĩnh vực tư pháp khác như sân sự, kinh tế, lao
động… hoặc là quá thu hẹp phạm vi QCT, chỉ bó gọn QCT trong giai đoạn truy
tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, hoặc xác định khơng đúng chủ thể của QCT.
Trong số các nhóm ý kiến trên đây về QCT, tác giả cho rằng nhóm ý
kiến thứ năm là hợp lý hơn cả bởi lý do sau đây:

Một là, xuất phát từ lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới nói chung
cũng như lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng, QCT luôn luôn
gắn liền với bản chất nhà nước, là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà
nước. Về vấn đề này C.Mác khẳng định:
Quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa nhà nước với người
phạm tội và mối quan hệ ấy do chính hành vi phạm tội làm phát sinh
ra…; sự trừng phạt là quyền của nhà nước không thể chuyển giao


15
cho tư nhân. Mọi quyền của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng
thời cũng là nghĩa vụ của người đó đối với nhà nước bởi vì bản chất
phạm tội của hành vi không phải là việc xâm phạm đến rừng cây với
tính cách là thứ vật chất mà là việc xâm phạm đến hệ thần kinh của
nhà nước, đến quyền sở hữu [15, tr.218-219].
Hai là, nhóm ý kiến thứ năm về QCT đúng với quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về QCT qua các thời kỳ lịch sử là thực hành QCT là một chức
năng của VKSND và chỉ trong lĩnh vực hình sự. Nội dung này ghi nhận tại:
Điều 138 Hiếp pháp Việt Nam năm 1980, Điều 1, Điều 3 Luật Tổ chức
VKSND năm 1981. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII ngày 04/2/1991 chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp năm
1992 đã kết luận VKSND thực hiện hai chức năng, đó là: kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và thực hành QCT. Kết luận này đã được thể chế hoá tại Điều
137 Hiếp pháp năm 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức VKSND. Kể từ đây, quan
niệm về hai chức năng của VKS, đặc biệt là chức năng thực hành QCT đã trở
nên rõ ràng hơn trong cả nghiên cứu lý luận và trong hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm.Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban pháp luật - Quốc hội
khoá X về Dự án Luật Tổ chức VKSND (sửa đổi) xác định “…hoạt động
công tố chỉ trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến
truy tố bị can và tranh tụng tại phiên toà…” [34].

Gần đây các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã nhấn mạnh:
“Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm khơng
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội…” [11, tr.2];
“...Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [12].


16
Từ những phân tích trên đây có thể hiểu: QCT là quyền của Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội do VKSND thực hiện
nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ để phát hiện, xác định tội phạm và người
phạm tội, trên cơ sở đó truy tố người phạm tội trước Toà án và thực hiện sự
buộc tội.
Từ khái niệm về QCT trên đây chúng ta có thể xác định đối tượng, nội
dung và phạm vi của QCT. Đối tượng của QCT là các hành vi vi phạm pháp
luật; quan điểm coi QCT là quyền của Nhà nước nhân danh xã hội truy cứu
TNHS đối với người có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật liên
quan đến lợi ích chung quan niệm, đối tượng của QCT là tội phạm và những
vụ việc xâm hại lợi ích chung trong lĩnh vực dân sự, hành chính... [35, tr.19].
Với nhận thức về QCT như đã nêu ở phần trên, chúng tôi cho rằng, đối tượng
của QCT chỉ là tội phạm và người phạm tội. Có nhiều quan điểm khác nhau
về nội dung của QCT, tuy nhiên nghiên cứu dưới góc độ bản chất của QCT,
thì quan điểm phù hợp là: "Nội dung của quyền công tố chính là sự buộc tội
đối với người đã thực hiện tội phạm" [13, tr.36]. QCT trong TTHS chính là
quyền đưa vụ án hình sự ra tồ và thực hiện sự buộc tội đối với bị cáo. Ở Việt
Nam, quyền này được giao cho một cơ quan duy nhất thực hiện, đó là
VKSND. QCT là quyền của Nhà nước truy cứu TNHS đối với người phạm

tội, quyền này phát sinh ngay từ khi có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc
khi cơ quan tài phán nhân danh công lý tuyên phạt đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội, do vậy, phạm vi QCT bắt đầu từ khi tội phạm được thực
hiện và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật" [35, tr.23].
Về khái niệm thực hành QCT:
QCT là quyền của Nhà nước, gắn liền với bản chất Nhà nước và chỉ
có trong lĩnh vực TTHS. Phạm vi của QCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra
và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi có một trong những
căn cứ làm triệt tiêu QCT theo quy định của pháp luật. Đối tượng tác động


17
của QCT là tội phạm và người phạm tội. Để bảo đảm thực hiện QCT, Nhà
nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT;
cơ quan nào được Nhà nước giao thực hiện các quyền năng pháp lý này để phát
hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người phạm tội được gọi là cơ quan có
trách nhiệm thực hành QCT. Ở nước ta, là hệ thống cơ quan VKSND.
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi thống nhất với quan điểm cho
rằng: "Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử" [35, tr.27].
Về phạm vi thực hành QCT:
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, VKS thực hành QCT ở
tất cả các giai đoạn tố tụng, từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Phạm vi thực hành QCT bắt đầu từ khi
có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị. Thực tế, không phải trường hợp nào QCT cũng kéo dài đến khi
bản án có hiệu lực pháp luật mà quyền này có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố
tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật, đó là các trường hợp qui định tại
điều 7, điều 107 BLHS như: khơng có sự kiện phạm tội xảy ra, hành vi không

cấu thành tội. CQĐT ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự được VKS
chấp thuận hoặc CQĐT, VKS đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can... Khi
QCT chấm dứt thì thực hành QCT cũng chấm dứt.
Như vậy, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ
án và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi vụ án được đình
chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự [35, tr.31].
Nội dung thực hành QCT:
Nội dung thực hành QCT là những biện pháp được pháp luật quy định mà
VKS sử dụng để truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Cần chú ý phân biệt,
những quyền năng pháp lý mà VKS trực tiếp quyết định và liên quan đến việc cáo


18
buộc bị can, bị cáo thì đó là những quyền năng thuộc nội dung thực hành QCT;
những quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát hiện và yêu cầu xử lý vi
phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là những
quyền năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [13, tr.45].
Như vậy, VKS có rất nhiều quyền năng pháp lý để thực hành QCT;
trong đó quyền truy tố bị can ra Toà án để xét xử là quyền duy nhất chỉ có ở
VKS, các quyền khác thì CQĐT, Toà án và các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng được thực hiện theo quy định của
pháp luật.
Thực tế vẫn có sự nhầm lẫn giữa quyền năng tố tụng với quyền của cơ
quan cơng tố. Về ngun tắc, chỉ có cơ quan nào sử dụng tất cả các quyền
năng pháp lý cần thiết để truy cứu TNHS đối với người phạm tội mới là cơ
quan thực hành QCT. Ở nước ta chỉ có VKS là cơ quan duy nhất thực hành
QCT, CQĐT chỉ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ VKS đưa vụ án ra toà, Toà án chỉ
xét xử những tội phạm và người phạm tội mà VKS đã truy tố [13, tr.46].
1.1.1.4. Giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án theo qui định của Bộ

luật TTHS từ “việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự. Quá
trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua những giai đoạn khác nhau, mỗi giai
đoạn thể hiện một hướng nhất định của hoạt động tố tụng” [29, tr.9-10].
Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm
vụ riêng mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng.
Có thể được hiểu: “Giai đoạn tố tụng là bước của quá trình tố tụng hình sự
tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng
loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc” [7].
Luật TTHS Việt Nam chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn bao
gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy


19
tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối
với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm khơng phải là các
giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt
động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử,
có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn khơng có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn TTHS, mà
chỉ tập trung vào nghiên cứu giai đoạn điều tra để làm rõ nội dung thực hành
quyền công tố ở giai đoạn này đối với các vụ án hình sự.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố
tụng hình sự được Bộ luật TTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII
đến chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và
kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra
và kéo theo các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ
chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là

thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được Luật TTHS quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần
gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với
tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá
12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 16 tháng kể từ khi các
cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối với
tội xâm phạm an ninh quốc gia ngồi các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện
trưởng VKSND Tối cao có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia
hạn thêm không quy định cụ thể mà tuỳ vào tính chất phức tạp của vụ án,
Viện trưởng VKSND Tối cao ấn định thời gian gia hạn.
Giai đoạn điều tra có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc


20
quyết định truy tố của VKS và xét xử của Toà án. Mọi quyết định của Toà án
về tội phạm và người thực hiện tội phạm đều chủ yếu phải dựa trên cơ sở các
chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai
đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng mà chủ yếu là CQĐT, có quyền áp
dụng mọi biện pháp do Luật TTHS quy định để chứng minh tội phạm và
người phạm tội, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên
nhân và điều kiện phạm tội qua đó kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện
biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn
của tố tụng hình sự trong đó CQĐT, bao gồm: CQĐT trong Công an nhân
dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của VKSND Tối cao và các cơ
quan khác được giao một số hoạt động điều tra, sử dụng các biện pháp do
Luật TTHS quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm
tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử

của Toà án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân
điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp
phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan.
Nội dung thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND:
Nội dung thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố
tụng nhằm đảm bảo phát hiện và xử lý tội phạm, tránh oan, không lọt. Theo
đó nội dung thực hành QCT bao gồm:
Thứ nhất, những hoạt động phát động quyền cơng tố: Đó là khởi tố vụ
án, khởi tố bị can.
+ Khởi tố vụ án, là việc nhà nước chính thức cơng khai trước tồn xã
hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các hoạt động thực hành quyền
truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện tội phạm đó [25, tr.62].
Theo qui định tại khoản 3 Điều 104, khoản 1 Điều 108 Bộ luật TTHS
thì CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động


21
điều tra phải gửi quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khơng khởi
tố vụ án hình sự, quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự kèm theo
hồ sơ tài liệu liên quan đến VKS để kiểm sát việc khởi tố. Quyết định khởi tố
của Hội đồng xét xử phải được gửi cho VKS để xem xét, quyết định việc điều
tra. Yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi cho VKS để xem xét,
quyết định việc khởi tố.
Điều 109 Bộ luật TTHS qui định, khi thực hành quyền công tố VKS có
quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án khơng có căn cứ của
CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra và ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong những trường
hợp sau khi CQĐT xác minh và cho rằng khơng có dấu hiệu tội phạm và ra
quyết định không khởi tố vụ án, nhưng qua thực hành QCT, VKS thấy có dấu
hiệu tội phạm thì VKS phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định không khởi tố

của CQĐT đồng thời trực tiếp ra quyết định khởi tố yêu cầu CQĐT tiến hành
điều tra theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm.
Trường hợp quyết định khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử khơng có căn cứ,
VKS có quyền kháng nghị lên Tồ án cấp trên để xem xét quyết định.
Điều đó được hiểu: Xét đến cùng, việc khởi tố hay khơng khởi tố vụ án
hình sự là do VKS quyết định, các CQĐT, Toà án nói trên khơng hồn tồn
độc lập trong việc khởi tố vụ án. Vì, để truy cứu TNHS thì với tư cách thực
hành QCT, VKS chỉ chấp nhận những quyết định khởi tố có căn cứ đúng pháp
luật, cịn nếu khơng đảm bảo cho việc truy cứu TNHS thì quyết định khởi tố
đó sẽ bị huỷ hoặc đe doạ bị huỷ ngay lập tức.
Tóm lại: Chỉ có VKS mới là cơ quan phát động quyền cơng tố một cách
độc lập, có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận quyết định khởi tố của cơ
quan có thẩm quyền, có quyền yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra thu thập tài
liệu, chứng cứ để làm rõ tội phạm xảy ra cũng như lỗi của người đã thực hiện
tội phạm.


22
+ Khởi tố bị can, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện
hành vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can [23, tr.103]. Điều này
có nghĩa Nhà nước đã tuyên bố chính thức một người là can phạm, bị tình
nghi đã thực hiện hành vi phạm tội, các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng
một số biện pháp theo qui định của Bộ luật TTHS làm hạn chế một số quyền công
dân của người bị khởi tố để phục vụ cho việc điều tra vụ án hình sự.
Theo qui định của Bộ luật TTHS năm 2003, thì quyền chủ động ra
quyết định khởi tố bị can thuộc về CQĐT, VKS chỉ chủ động ra quyết định
khởi tố bị can sau khi đã kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra
đã được chuyển cho VKS (Điều 112 khoản 1, Điều 126 khoản 5 Bộ luật
TTHS). Cịn trong q trình điều tra VKS có quyền yêu cầu CQĐT ra quyết
định khởi tố bị can chứ không chủ động ra quyết định khởi tố bị can. Nhiệm

vụ quyền hạn của VKS theo qui định của Bộ luật TTHS năm 2003 chủ yếu là
xét, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT.
Cần chú ý: Quyết định khởi tố bị can của CQĐT phải ghi rõ thời gian, địa
điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày tháng
năm sinh, nghề nghiệp hoàn cảnh của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo
điều khoản nào của Bộ luật hình sự; thời gian địa điểm phạm tội và những
tình tiết khác của tội phạm. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định
khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên
quan đến việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi
tố (Điều 126 khoản 1, 4 Bộ luật TTHS).
Với việc qui định thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê
chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT là
một đảm bảo quan trọng các quyền dân chủ của cơng dân trong tố tụng hình
sự. Quyết định khởi tố bị can có ý nghĩa hồn tồn khác với quyết định khởi
tố vụ án; quyết định khởi tố vụ án là hoạt động khởi động để CQĐT tìm kiếm
dấu vết thu thập chứng cứ, chưa can thiệp sâu vào quyền cơ bản của công


23
dân; quyết định khởi tố bị can có ảnh hưởng sâu sắc tới sinh mạng chính trị,
tới hình ảnh của bị can trong đời sống xã hội, tới tâm lý, tình cảm của người
bị khởi tố. Do đó "pháp luật đã giao quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can cho VKS và đó cũng là giao quyền quyết định cuối cùng cho VKS đối với
việc có khởi tố hay không khởi tố một công dân" [36, tr.82]. Mặc dù pháp luật
thực định qui định quyền khởi tố bị can của CQĐT, nhưng quyết định khởi tố
đó chỉ có hiệu lực khi có sự phê chuẩn của cơ quan thực hành quyền công tố
là VKS. Nhằm đảm bảo việc khởi tố bị can của CQĐT đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Thứ hai, theo qui định Điều 112 Bộ luật TTHS khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền:

+ Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can.
+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra. Q trình
thực hành quyền cơng tố đối với vụ án, Kiểm sát viên phải thường xuyên đề
ra các yêu cầu điều tra để định hướng điều tra, nhanh chóng kết thúc điều tra
vụ án. Bảo đảm đủ tài liệu chứng cứ phục vụ cho quyết định truy tố và buộc
tội ở giai đoạn xét xử. Tuy nhiên trên thực tế công tác không phải Kiểm sát
viên nào cũng làm được điều này.
+ Khi xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra theo qui định của bộ luật TTHS. Như trực tiếp hỏi cung bị can,
lấy lời khai người làm chứng, xem xét đồ vật tài liệu, dấu vết nhằm củng cố
tài liệu hoặc kiểm tra độ tin cậy của nguồn tài liệu do CQĐT thu thập. Có như
vậy mới hạn chế được mức thấp nhất những sai lầm có thể xảy ra ở giai đoạn
tố tụng sau.
+ Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên nếu có
căn cứ cho rằng Điều tra viên có thể khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ; nếu
hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.


24
+ Quyết định áp dụng, thay đổi huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác. Biện pháp ngăn chặn không phải là
biện pháp điều tra, chỉ được áp dụng khi thật cần thiết và khi có đủ các điều
kiện theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự như: Để kịp thời ngăn chặn
tội phạm; khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử; khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội;
khi cần đảm bảo thi hành án.
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định
của CQĐT theo qui định của Bộ luật TTHS. Huỷ bỏ các quyết định khơng có
căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu CQĐT truy nã bị can.

+ Quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án. Cơ quan điều tra cũng có quyền đình chỉ điều tra vụ án nhưng phải ln
đặt dưới sự kiểm sát của VKS. Nếu VKS phát hiện việc đình chỉ của CQĐT
khơng có căn cứ hoặc trái pháp luật thì VKS yêu cầu Cơ quan điều tra huỷ bỏ
để phục hồi điều tra hoặc VKS trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ quyết định đình
chỉ điều tra của Cơ quan điều tra và ra quyết định truy tố.
Như vậy: Thực hành QCT ở giai đoạn điều tra của VKSND là việc
Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, được thực
hiện từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra
trước Toà án để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp
luật TTHS.
1.1.1.5. Khái niệm tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hố
qua biên giới
Khái niệm bn lậu được tổ chức Hải quan thế giới WCO đề cập tại Hội
nghị quốc tế họp tại Nairobi (Cộng hoà Kênia). Trong Hội nghị các nước
thành viên đã ký Công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính giữa các nước
nhằm ngăn ngừa, điều tra, trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật hải quan.


25
Công ước Nairobi đã xác định rõ buôn lậu là một thủ đoạn chủ yếu của gian
lận thương mại, là trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan để đưa hàng
hoá lén lút qua biên giới. Theo các khái niệm trên, bn lậu chính là hành vi
vi phạm nhằm trốn tránh việc nộp thuế xuất, nhập khẩu và trốn tránh sự kiểm
soát của pháp luật đối với những mặt hàng cấm hoặc chịu sự quản lý bằng các
chính sách hạn chế khác (ví dụ như giấy phép, hạn ngạch...).
Ở nước ta, khái niệm bn lậu cũng có sự khác nhau giữa các thời kỳ
lịch sử. Trước năm 1985, khi Bộ luật Hình sự chưa ban hành tội bn lậu
được quy định trong Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng

giả, kinh doanh trái phép. Theo quy định của pháp lệnh này, hành vi buôn lậu
bao gồm các hành vi kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, đầu cơ tích trữ, bn
bán hàng cấm... Như vậy, bất kể hành vi kinh doanh bn bán đó diễn ra ở
đâu nếu có dấu hiệu “gian lận”, “trốn lậu”, trái với quy định của Nhà nước thì
đều gọi là bn lậu.
Vận chuyển trái phép hàng hố qua biên giới là vận chuyển không đúng
quy định của Nhà nước thể hiện qua hành vi vận chuyển hàng hoá qua biên
giới để trao đổi trái với các quy định của Nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá.
Hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép
hàng hố qua biên giới bao gồm: mọi hành vi khơng kể với mục đích kinh
doanh hay khơng, mang hoặc gửi hàng hố từ trong nước ra và từ nước ngồi
vào một cách trái phép bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường xe lửa,
đường biển, đường hàng không và đường bưu điện quốc tế). Nếu có mục đích
kinh doanh thì đó là bn lậu; nếu khơng có mục đích kinh doanh thì được
coi là vận chuyển trái phép hàng hố qua biên giới.
Dấu hiệu trái phép được thể hiện ở các điểm chính sau đây:
- Bn bán hoặc vận chuyển qua biên giới các loại hàng thuộc diện Nhà
nước cấm;


×