Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học-đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh ủy trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh vĩnh phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.23 KB, 115 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI đã thơng qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011). Cương lĩnh đã xác định:
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [20, tr.85].
Như vậy, vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền bảo đảm quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng lãnh đạo việc tổ chức phân cơng,
phối hợp, kiểm sốt việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là
vấn đề cực kỳ quan trọng và mang ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn. Vấn
đề Đảng lãnh đạo thực hiện quyền lực Nhà nước nói chung và thực hiện
quyền tư pháp nói riêng khơng chỉ là vấn đề chính trị mà cịn là vấn đề pháp
lý. Đổi mới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ trong thực hiện cải cách tư pháp ở Vĩnh
Phúc là một vấn đề có ý nghĩa to lớn nêu trên.
Sự lãnh đạo tồn diện và chặt chẽ của Đảng đối với công tác cải cách
tư pháp là yêu cầu khách quan và cần thiết để đảm bảo cho công tác tư pháp
thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, đảm bảo hoạt động của các cơ quan tư pháp thực
hiện đúng quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hạn chế các sai
sót có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08NQ/TW, về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới,
Nghị quyết chỉ rõ:



2
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức
và cán bộ, đảm bảo hoạt động tư pháp thực hiện đúng quan điểm
của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc
phục tình trạng cấp uỷ bng lỏng lãnh đạo hoặc cấp uỷ viên can
thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp [4, tr.9].
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, trong đó có nội dung: “Đổi mới và khơng
ngừng hồn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, đảm bảo hoạt động của
Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội” [5, tr.4].
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định: “Hồn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. Đảng lãnh đạo chặt chẽ
hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ,
khắc phục tình trạng cấp uỷ đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không
đúng vào hoạt động tư pháp” [6, tr.8].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011), Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục xác định: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh,
bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người...” [20, tr.250].
Để đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách tư pháp,
ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã thành lập Ban chỉ đạo cải cách tư pháp
Trung ương do đồng chí Trần Đức Lương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch
nước Cộng hồ XHCN Việt Nam (sau đó là đồng chí Nguyễn Minh Triết,
Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hồ XHCN Việt Nam) làm
Trưởng ban, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp có nhiệm vụ là xây dựng chương



3
trình, kế hoạch, chỉ đạo tập trung thống nhất việc tổ chức thực hiện những
nhiệm vụ cải cách tư pháp; việc xây dựng nghiên cứu những đề án cụ thể về
lĩnh vực tư pháp để trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định; giải quyết những
khó khăn, vướng mắc trong việc tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cải cách
tư pháp. Ngoài ra, để cụ thể hơn sự lãnh đạo của Đảng về cải cách tư pháp,
Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác
bảo vệ Đảng (số 15, ngày 07/7/2007), Ban Bí thư ban hành Hướng dẫn thực
hiện một số nội dung thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW (số 01, ngày 18/11/2010).
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được triển khai một cách tích cực
trên các nội dung: Hồn thiện chính sách pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và
thủ tục tố tụng tư pháp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn
thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp,
đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp, hồn thiện cơ chế Đảng lãnh
đạo đối với cơng tác cải cách tư pháp... Đây là một quá trình được tiến hành
từng bước dưới sự lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến địa phương.
Để tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và
hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Nghị quyết về
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị. Trong lĩnh vực cải cách tư pháp, Nghị quyết Hội Nghị Trung
ương 5 xác định:
Kiện toàn Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Ban cán sự
đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, xác định chức năng, nhiệm vụ,
quy chế làm việc, quy định quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ chính
trị, Ban Bí thư đối với Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao,
Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao... [19, tr.124].
Đối với các cấp uỷ địa phương, Nghị quyết trung ương 5 (khóa X)

xác định: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đối với hoạt


4
động của cơ quan tư pháp ở địa phương. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng xác
định “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt những nguyên tắc
chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng
cấp, từng ngành” [19, tr.114].
Như vậy, vấn đề đặt ra là việc đổi mới sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với
hoạt động của cơ quan tư pháp địa phương cần thực hiện như thế nào để vừa
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong cải cách tư pháp, vừa phải đảm bảo cho
hoạt động của các cơ quan tư pháp được thực hiện đúng pháp luật, khắc
phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với các cơ
quan tư pháp. Vấn đề này cần phải được nghiên cứu về mặt lý luận và thực
tiễn ở các địa phương.
Từ năm 2005 đến nay, sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng trong việc
thực hiện cải cách tư pháp ở Vĩnh Phúc đã đạt được một số kết quả quan
trọng. Song thực tế, phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác
cải cách tư pháp ở địa phương cịn gặp khó khăn, lúng túng, có nơi, có việc
cịn xảy ra tình trạng bng lỏng sự lãnh đạo của Đảng hoặc can thiệp không
đúng vào hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhận thức của một số cấp ủy
đảng địa phương về công tác cải cách tư pháp chưa được đầy đủ, đúng đắn
làm ảnh hưởng đến kết quả cải cách tư pháp...
Những vấn đề trên đòi hỏi phải được nghiên cứu để làm rõ vị trí, vai
trị, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng nói chung trong cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Từ đó làm rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức lãnh đạo của Đảng trong lãnh đạo cải
cách tư pháp đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương với mục tiêu làm
nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng trong lãnh đạo thực hiện cải

cách tư pháp, tránh tình trạng bng lỏng hoặc can thiệp không đúng vào
hoạt động tư pháp.


5
Từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Đổi mới sự lãnh đạo của
Tỉnh uỷ trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” làm
luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và
pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng, hồn thiện Nhà nước
pháp quyền nói chung và đối với cải cách tư pháp nói riêng là lĩnh vực thuộc
đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học như: triết học, chính trị
học, luật học, xây dựng Đảng...Sự lãnh đạo của Đảng dược xem là nhân tố
quan trọng, quyết định đến việc thực hiện thành công mục tiêu xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Trong thực tiễn hiện nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới để xây dựng đất nước, vai trò
lãnh đạo của Đảng cả về lý luận và thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề cần
được giải quyết. Có thể nói đây là vấn đề quan trọng, thu hút được sự nghiên
cứu của nhiều tác giả.
Trong phạm vi đề tài đã được nghiên cứu có liên quan đến đề tài mà
tác giả biết có thể liệt kê sơ bộ như sau:
- Phạm Văn Quang và Nguyễn Viết Thơng (2000): Góp phần tìm hiểu
sự phát triển tư duy của đảng ta trong công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực
chủ yếu, NxbT.P Hồ Chí Minh, T.p Hồ Chí Minh.
- Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (2004): Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
- Ngơ Huy Cương (2005): Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Phùng Văn Tửu (1999): Xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


6
- Lê Minh Quân (2003): Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trần Hậu Thành (2005): Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Nxb lý luận
chính trị. Hà Nội.
- Đức Vượng (2002): Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Dung (chủ biên-2004): Thể chế tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Hoàng Sỹ Hạnh (2007): Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện cải cách tư
pháp ở Bắc Ninh hiện nay, (luận văn thạc sỹ luật học), Hà Nội.
- Nguyễn Văn Mạnh (2010): Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Những cơng trình khoa học trên đây đã tập trung nghiên cứu vào
việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng nhà
nước pháp quyền, nghiên cứu về cải cách tư pháp, có luận văn nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Bắc Ninh khoảng thời gian
nghiên cứu từ năm 2000-2007. Tuy nhiên, ở mỗi địa phương lại có hồn
cảnh, đặc điểm riêng do đó có sự khác nhau, mặt khác, từ năm 2007 đến
nay, Đảng ta có nhiều chủ trương mới về cải cách tư pháp cần phải được
nghiên cứu vận dụng thực hiện ở các địa phương. Đến nay, tại tỉnh Vĩnh

Phúc chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về nội dung Đảng
lãnh đạo cải cách tư pháp. Mặc dù vậy, các cơng trình khoa học trên đây
là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hồn thiện đề tài
luận văn.


7
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a. Mục đích
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của
Đảng đối với quá trình cải cách tư pháp nói chung và ở cấp tỉnh nói riêng.
- Đánh giá thực trạng, rút ra những bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó
xác định các giải pháp đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy trong công
tác thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
b. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ hơn về khái niệm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước,
quyền tư pháp, tư pháp, cơ quan tư pháp, cải cách tư pháp theo yêu cầu xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Luận chứng nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với hệ thống chính trị nói chung và lãnh đạo trong thực hiện
cải cách tư pháp nói riêng.
+ Tổng kết (có tính khái quát) thực tiễn kết quả về sự lãnh đạo của
Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2005 đến
năm 2010.
+ Đề ra quan điểm và các giải pháp đổi mới để nâng cao hiệu quả sự
lãnh đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Vĩnh Phúc trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu

Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật, luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
- Sự phân công, phân nhiệm trong thực hành quyền tư pháp và những
yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Những nội dung, quan điểm chủ trương chiến lược của Đảng về cải
cách tư pháp.


8
- Nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác cải
cách tư pháp nói chung và phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với cải
cách tư pháp ở Vĩnh Phúc nói riêng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo
của Đảng đối với cải cách tư pháp. Khơng nghiên cứu tồn diện về sự lãnh
đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung.
- Tư pháp và cải cách tư pháp nói chung được nghiên cứu ở mức độ
nhất định để xác định nó là đối tượng, nội dung, mục tiêu của sự lãnh đạo
của Đảng nhằm vào và đạt được.
- Về cơ sở thực tế của luận văn chỉ đánh giá những văn kiện của
Đảng hiện hành lãnh đạo việc cải cách tư pháp.
- Phạm vi khảo sát hoạt động thực hiện sự lãnh đạo của Đảng được
giới hạn ở tỉnh Vĩnh Phúc trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận văn đựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và cơng tác cải
cách tư pháp nói riêng.
- Quan điểm, phương hướng, nội dung cải cách tư pháp và việc lãnh

đạo tổ chức thực hiện cải cách tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam.
b. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: hệ thống,
phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể; kết hợp với các phương pháp nghiên
cứu khác như: So sánh, khảo sát thực tế, thống kê, lo-gic, lấy ý kiến
chuyên gia...


9
6. Điểm mới khoa học của luận văn
- Khái quát hoá được quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
lãnh đạo cải cách tư pháp.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước, quyền tư pháp, tư pháp, cơ quan tư pháp, cải cách tư pháp.
- Đánh giá một cách hệ thống toàn diện thực trạng, những ưu điểm,
khuyết điểm và nguyên nhân trong việc Tỉnh uỷ lãnh đạo thực hiện cải cách
tư pháp ở Vĩnh Phúc từ năm 2005 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy trong
thực hiện cải cách tư pháp ở Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả luận văn góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận về
Đảng lãnh đạo trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và
trong lĩnh vực cải cách tư pháp nói riêng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho cán bộ
làm công tác Đảng, cán bộ tư pháp, nghiên cứu, giảng dạy trong Trường
chính trị của tỉnh và những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.

Chương 1: Cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ trong thực hiện
cải cách tư pháp.
Chương 2: Thực trạng hoạt động lãnh đạo của Tỉnh uỷ trong thực
hiện cải cách tư pháp ở Vĩnh Phúc.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy
trong thực hiện cải cách tư pháp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ
TRONG THỰC HIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1.1. QUAN ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

1.1.1. Quyền tư pháp trong quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
Quyền lực chính trị: Theo Từ điển Bách khoa Triết học Liên Xô xác
định: “ Quyền lực, trong ý nghĩa chung nhất, là năng lực và khả năng thực
hiện ý chí của mình, tác động đến hành động, hành vi của những người khác
nhờ phương tiện nào đó, như uy tín, quyền hành, sự cưỡng bức (kinh tế,
chính trị, nhà nước, gia đình...)”. Tuỳ theo cách phân loại mà người ta phân
chia quyền lực thành các dạng khác nhau, phân chia theo lĩnh vực đời sống
xã hội, người ta phân chia quyền lực thành quyền lực kinh tế, quyền lực
chính trị, quyền lực tư tưởng...
Quyền lực chính trị có thể được hiểu là ý chí chung của một tập đồn
xã hội (có thể là một giai cấp, một dân tộc, một nhóm người...) thể hiện năng
lực thực hiện những lợi ích của tập đồn xã hội đó, trong mối quan hệ tác
động chi phối các tập đoàn xã hội khác. Hay nói cách khác, quyền lực chính
trị được biểu hiện trong một chế độ chính trị - nhà nước. Quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân nhưng khơng phải chế độ chính trị - nhà nước nào cũng

bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ được lợi ích của nhân dân lao
động. Quyền lực chính trị có một số đặc điểm: Ln mang tính giai cấp,
thực chất quyền lực chính trị là lợi ích giai cấp thể hiện thành ý chí giai cấp
ln gắn với một giai cấp nhất định; mang tính thống nhất về cơ bản, vừa lại
có sự khơng thuần nhất do nó mang tính cục bộ về nhận thức, phương thức
thực hiện của các bộ phận khác nhau trong nội bộ một giai cấp; có cơ cấu tổ
chức theo dạng hình tháp, càng lên cao, mật độ quyền lực càng đậm đặc,


11
cường độ quyền lực càng lớn; quyền lực chính trị được thể hiện theo chế độ
đại diện, được hiện thân hố ở những nhóm hoặc cá nhân đại diện của tập
đồn xã hội.
Quyền lực Nhà nước và quyền lực chính trị: Học thuyết Mác - Lê nin
khẳng định xã hội phân chia thành các giai cấp và đấu tranh giai cấp, Nhà
nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Nhà nước, tức là cơ quan bạo
lực có tổ chức, nhất định phải xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến một
trình độ nhất định, lúc mà xã hội đã phân thành giai cấp khơng thể điều hồ,
lúc mà xã hội khơng thể tồn tại nếu khơng có một quyền lực tựa hồ như
đứng lên trên xã hội và tách rời xã hội đến một mức độ nào đó.
Như vậy, xét về bản chất quyền lực nhà nước là một quyền lực chính
trị - quyền lực của giai cấp cầm quyền. Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ
máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác.
Trong hệ thống quyền lực chính trị của xã hội, quyền lực nhà nước ở
vị trí trung tâm, có vai trị trọng yếu nhất. Do đó, khi quyền lực nhà nước
chuyển từ giai cấp này sang giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn đến sự thay đổi
căn bản tính chất chế độ chính trị của xã hội, làm biến đổi hệ thống quyền
lực chính trị của xã hội.
Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp cầm quyền, do vậy nó
là một quyền lực chính trị. Nói cách khác, quyền lực chính trị và quyền lực

nhà nước là hai khái niệm không đồng nhất. Quyền lực chính trị có nội hàm
rộng hơn, phương thức và hình thức thể hiện phong phú hơn, cơ cấu, cấp độ
chủ thể quyền lực đa dạng hơn so với quyền lực nhà nước.
Ở Việt Nam, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Hệ thống chính trị bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thơng qua đại diện của mình là các tổ


12
chức trong hệ thống chính trị và thơng qua hình thức dân chủ trực tiếp.
Trong hệ thống chính trị, “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc” [17, tr.3].
Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mặt trận tổ quốc Việt
Nam là tổ chức liên minh chính trị của các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc,
các tôn giáo và nhân dân lao động nói chung, Mặt trận Tổ quốc là cơ sở
chính trị của Nhà nước. Trong đó, Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính
trị. Chính vì thế, Đảng ta chi rõ: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân” [5, tr.3].
Tóm lại, quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị đặc biệt trong đó
nhà nước có chức năng chuyên chính giai cấp và chức năng tổ chức quản lý
xã hội. Quyền lực nhà nước gồm có 3 quyền: quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà
nước, nhà nước chịu dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng xem
là quy luật tất yếu, là nhân tố quyết định đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc

về nhân dân.
Quyền tư pháp trong quyền lực Nhà nước: Để thực hiện các chức
năng của nhà nước, nhà nước sử dụng nhiều phương pháp, hình thức hoạt
động khác nhau trong đó có ba hình thức hoạt động chính là: xây dựng pháp
luật (quyền lập pháp), tổ chức thực hiện pháp luật (quyền hành pháp) và bảo
vệ pháp luật (quyền tư pháp). Đây là các hoạt động cơ bản để thực hiện
quyền lực nhà nước. Hay nói cách khác quyền lực nhà nước bao gồm có
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Các cơ quan thực hiện
quyền tư pháp là các cơ quan bảo vệ pháp luật và giữ gìn pháp luật bằng


13
cách áp dụng các biện pháp cần thiết do pháp luật quy định, nhằm phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội,
đấu tranh và phòng, chống tội phạm, giải quyết các tranh chấp trong đời
sống xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cơng
dân. Nếu quyền lực nhà nước được thể hiện đầy đủ và đúng đắn qua hoạt
động lập pháp và hành pháp, nhưng hoạt động tư pháp khơng tốt thì quyền
lực nhà nước sẽ không được phát huy hiệu lực và hiệu quả, thậm trí bị suy
giảm. Ngược lại, nếu quyền tư pháp được thực hiện đúng thì sẽ có tác dụng
tích cực đối với quyền lập pháp và quyền hành pháp, đóng góp vai trị quyết
định trong việc củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước trong đời sống xã
hội. Có thể nói, trong quyền lực nhà nước, quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp có mối quan hệ biện chứng khơng thể tách dời trong bất cứ một loại
nhà nước nào trong lịch sử.
Quyền tư pháp với ý nghĩa là một nhánh quyền lực trong cơ cấu
quyền lực nhà nước với hoạt động là bảo vệ pháp luật nhằm duy trì sự ổn
định xã hội phục vụ cho hoạt động của nhà nước đảm bảo hiệu lực, hiệu quả.
Quyền tư pháp là quyền nắm giữ pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ luật pháp,
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và chống lại các hành vi vi phạm

pháp luật được coi như biểu tượng của công lý để bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi
ích nhà nước.
Quyền tư pháp được xem là quyền xét xử, được nhân dân giao cho
tòa án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao
nhất trong tổ chức thực hiện quyền này, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án. Đây thực chất
là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi
phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía cơng dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy,
bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của
quyền tư pháp. Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tơn trọng, giữ


14
gìn và bảo vệ tính pháp quyền và cơng lý trong các phán quyết của tòa án.
Quyền tư pháp trong quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với quyền lập
pháp, quyền hành pháp cho thấy quyền tư pháp có tính độc lập tương đối,
song quyền tư pháp khơng biệt lập, tách rời với các quyền lập pháp, hành
pháp. Như đã phân tích ở trên, quyền tư pháp bảo vệ quyền lập pháp và bảo
đảm cho quyền hành pháp - quản lý xã hội bằng và theo pháp luật không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã xác định:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp [34, tr.196].
Tóm lại, quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của tòa án và
những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức khác trực tiếp

liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hố, khoa học cơng nghệ, ngoại giao. Bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích
tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các lĩnh vực trật tự pháp
luật khác.
Như thế, quyền tư pháp (bảo vệ pháp luật) và thực hiện quyền tư
pháp nhằm bảo vệ sự tồn tại và sự lớn mạnh của Nhà nước, bảo vệ sự lãnh
đạo của Đảng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, Đảng lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo cải cách tư pháp là nhằm bảo đảm cho nền tư pháp Việt Nam
thực hiện được mục tiêu cao cả của mình.


15
1.1.2. Quan niệm về tư pháp, cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp
1.1.2.1. Quan niệm về tư pháp
Trong cuốn từ điển Hán - Việt, Đào Duy Anh định nghĩa: Tư pháp tức
là pháp đình, y theo pháp luật mà xét định các việc trong phạm vi pháp luật.
Theo Từ điển tiếng Việt thì tư pháp có nghĩa là “việc xét xử các hành
vi phạm pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân” [45, tr.1325].
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý ( Bộ Tư pháp) thì:
Với nghĩa chung nhất, tư pháp được quan niệm như là một ý tưởng về
một nền cơng lý, địi hỏi việc giải quyết những tranh chấp xảy ra trong
xã hội phải đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, đảm bảo lòng
tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật, đảm bảo sự an toàn pháp lý
cho cá nhân, sự ổn định và sự phát triển xã hội [51, tr.828].
Tư pháp với nghĩa là phán xử, trông coi, bảo vệ pháp luật đã xuất
hiện từ rất sớm và nó trở thành một nhu cầu hết sức cần thiết trong đời
sống xã hội. Thực tiễn, trong xã hội tồn tại nhiều mối quan hệ giữa con
người với nhau, trong q trình giao tiếp đó sẽ khơng tránh khỏi những

mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên cần phải có sự giải quyết cơng bằng
giữa các bên. Do đó, cần có những chế định quy định để làm cơ sở cho
việc giải quyết các tranh chấp, bảo vệ lợi ích, tài sản,...Trong trường hợp
các bên khơng hồ giải, khơng tự giải quyết được, khơng tự bảo vệ được
quyền lợi, tính mạng, tài sản, sức khoẻ của mình thì họ cần có những định
chế khác mà họ cho là vơ tư, khách quan, cơng tâm để giải quyết. Định
chế đóng vai trị có thể phán xử một cá nhân, một tổ chức nào đó chính là
Tồ án.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: Tư pháp là khái niệm
dùng để chỉ các cơ quan toà án, việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và
các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm
sát, truy tố, xét xử và thi hành án.


16
Ở Việt Nam, thuật ngữ “tư pháp” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư
pháp như: tổ chức luật sư, cơ quan giám định tư pháp, cơ quan công chứng,
cơ quan hộ tịch...
1.2.2.2. Quan niệm về cơ quan tư pháp
Trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay khơng có quy định nào về
cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) tuy có
quy định về quyền lập pháp, quyền hành pháp quyền tư pháp nhưng không
quy định rõ cơ quan nào thực hiện quyền tư pháp. Vậy cơ quan tư pháp là
gì? Trong khoa học pháp lý, cơ quan tư pháp được hiểu theo nghĩa hẹp và
nghĩa rộng.
Theo Montesquieu người được coi là “cha đẻ” của học thuyết phân
quyền trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” xuất bản năm 1748 đã quan
niệm “với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân
xử tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền tư pháp. Ơng cịn

viết: “Quyền phán xét khơng nên giao cho một Viện Nguyên lão thường trực
mà phải do những người trong đoàn thể dân chúng được cử ra từng thời gian
trong một năm, do luật quy định thành toà án, làm việc kéo dài bao lâu tuỳ
theo sự cần thiết”. Như vậy, theo Montesquieu, cơ quan tư pháp là toà án, là
cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện nhánh quyền lực tư pháp.
Trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” xuất bản năm 1762,
Rousseau viết: “Khi người ta không thể định rõ một tỷ lệ chính xác giữa các
bộ phận cấu thành của nhà nước, hoặc khi mà những nguyên nhân khách
quan làm suy yếu không ngừng mối quan hệ giữa các bộ phận ấy, thì người
ta phải đặt một cơ quan đặc biệt, khơng tham dự vào bất cứ một bộ phận
nào. Cơ quan này đặt mỗi bộ phận vào đúng vị trí của nó, làm mối dây liên
lạc và yếu tố trung gian giữa Chính phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ
với cơ quan quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần. Cơ quan này


17
tôi gọi là cơ quan tư pháp (tribunal)”. Khi bàn về chức quan tư pháp,
Rousseau cịn nói rõ hơn: “Luật pháp cơng bố ý chí của tồn dân; chức quan
tư pháp nói lên lời phán xét cơng cộng… tồ án tư pháp không phải là người
trọng tài xét xử dư luận cơng chúng, nó chỉ là người cơng bố dư luận cơng
cộng. Xa rời chức năng đó thì mọi quyết định của tồ án đều là điều vớ vẩn
và vơ hiệu”. Xem thế, quan niệm của Rousseau về cơ quan tư pháp khơng có
gì khác biệt với Montesquieu, theo đó nói đến cơ quan tư pháp phải hiểu đó
là tồ án, là hoạt động xét xử.
Ở Việt Nam cũng có các quan niệm khác nhau về cơ quan tư pháp tuỳ
theo cách tiếp cận của người nghiên cứu. Quan niệm thứ nhất, liên quan đến
việc xem xét cơ quan tư pháp theo nghĩa hẹp, có tác giả đã đưa ra khái niệm
về tư pháp hình sự như sau: “Tư pháp hình sự trong Nhà nước pháp quyền là
dạng thực hiện quyền lực nhà nước của hệ thống cơ quan có thẩm quyền
nhân danh công lý (cơ quan tài phán - Toà án) để xét xử và đưa ra phán

quyết đối với vụ án hình sự nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến định, nhân
thân, các quyền và tự do của con người và của cơng dân, cũng như hồ bình
và an ninh của nhân loại, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chống tội phạm, góp
phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà nước pháp quyền
vào đời sống thực tế”. Hoặc “quyền tư pháp là khả năng và năng lực riêng
có của các cơ quan Tồ án chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước thực
hiện để tác động đến hành vi của con người, đến các quá trình xã hội”. Từ
các định nghĩa này có thể thấy, cơ quan tư pháp chỉ là tồ án.
Quan niệm thứ hai tiếp cận cơ quan tư pháp theo nghĩa rộng có tính
hệ thống, theo đó khái niệm tư pháp khơng chỉ được dùng cho Tồ án, mà
cịn cả các cơ quan nhà nước khác thực hiện chức năng có liên quan đến xét
xử. Trước hết đó là Viện kiểm sát, rồi đến các cơ quan điều tra, thi hành án.
Quan niệm thứ hai này phản ánh nhận thức khá phổ biến trong giới nghiên
cứu khoa học pháp lý hiện nay.


18
Cũng có thể tiếp cận khái niệm cơ quan tư pháp từ sự phát triển của
hệ thống pháp luật về tư pháp, ngày 21/12/1999 Quốc hội đã ban hành Bộ
luật Hình sự thường được gọi là Bộ luật Hình sự năm 1999. Trong Bộ luật
này có một chương riêng quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
Điều 292 quy định khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp như sau: Các
tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động
đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo
vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân. Trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có nhiều điều luật
quy định về các tội phạm cụ thể như Điều 293 - tội truy cứu trách nhiệm
người khơng có tội; Điều 295 - tội ra bản án trái pháp luật; Điều 298 - tội
dùng nhục hình; Điều 300 - tội làm sai lệch hồ sơ vụ án; Điều 305 - tội
không thi hành án, Điều 306 - tội cản trở việc thi hành án…

Như vậy, bằng việc thơng qua Bộ luật Hình sự năm 1999, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất đã công nhận khái niệm cơ quan tư pháp theo
nghĩa rộng, theo đó cơ quan tư pháp bao gồm Toà án, Viện kiểm sát, Cơ
quan điều tra và Cơ quan thi hành án. Phạm vi cải cách tư pháp vì vậy cũng
phải được xem xét toàn diện đối với các cơ quan này. Ngoài ra, để cải cách
tư pháp thành công, không thể không hoàn thiện các cơ quan khác được gọi
là cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, giám định. Đây
cũng là những thành tố có ảnh hưởng khá nhiều tới chất lượng hoạt động
của các cơ quan tư pháp.
1.1.2.3. Quan niệm về cải cách tư pháp
Theo Từ điển tiếng Việt, thì cải cách có nghĩa là: “ Sửa đổi cái cũ đã trở
thành lạc hậu để cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của tình hình” [45, tr.136].
Thuật ngữ cải cách được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Theo
quan niệm của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OECD) thì:
Cải cách tư pháp được sử dụng trong cơng trình của OECD đề
cập tới những sự thay đổi nhằm cải thiện chất lượng các quy định,


19
đó là, thức đẩy sự thực hiện, giảm chi phí, hoặc chất lượng pháp
lý của các quy định và các thủ tục liên quan của chính quyền. Cải
cách có thể có nghĩa sửa đổi một quy định đơn lẻ, loại bỏ và xây
dựng lại toàn bộ một chế độ pháp luật và các chế định của nó,
hoặc cải thiện quy trình làm luật và quản lý cải cách [33, tr.6].
Quan niệm cải cách tư pháp theo cách hiểu này có nghĩa rất rộng, nó
khơng chỉ bao hàm viêc “ sửa đổi các quy định đơn lẻ và xây dựng loại tồn
bộ một chế độ pháp luật mà nó bao hàm nhiều vấn đề như “ giảm chi phí” và
“các thủ tục liên quan đến chính quyền”. Vì vậy, cải cách tư pháp xét cho
đến cùng được hiểu là sự sửa đổi, xây dựng pháp luật theo một chế độ mới,
đối tượng của cải cách tư pháp có thể là các quy định pháp luật, mà chưa nói

tới các chế định thực hiện.
Trong lý luận và thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, cải cách tư pháp luôn
được hiểu với ý nghĩa chung nhất là sự thay đổi đem lại những điều mới có
ích cho việc xây dựng nhà nước và bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Nếu không đạt được ý nghĩa này, cải cách tư pháp sẽ bị
coi là thất bại. Có thể xem việc cải cách tư pháp năm 1950 là một minh
chứng. Thời kỳ đó, Bộ Tư pháp đã trình lên Chủ tịch Hồ Chí Minh dự án
Sắc lệnh Cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng với những mục đích rất
rõ ràng là bộ máy tư pháp cần được “dân chủ hố”, “để cơng việc xét xử
được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố tụng cần được hợp lý và
giản dị hơn”. Với ý nghĩa đó, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc
tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp non trẻ của nước ta. Kế thừa tư tưởng Hồ
Chí Minh và xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền,
ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Mục đích của việc xây dựng Chiến
lược cải cách tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, hiện đại, bảo vệ công lý.


20
Đối tượng của cải cách tư pháp theo nghĩa hẹp, là toàn bộ hệ thống và
hoạt động thực tiễn của đội ngũ tòa án, đội ngũ thẩm phán và các quy định
pháp luật có liên quan; theo nghĩa rộng, là tồn bộ hệ thống tịa án, các cơ
quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng như các quy định
pháp luật có liên quan.
Về mục tiêu của cải cách tư pháp, tức là kết quả cuối cùng mà chúng
ta hướng tới trong cải cách tư pháp là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động

tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
hiệu lực cao.
Phương hướng cải cách tư pháp là: tiến hành cải cách tư pháp khẩn
trương, đồng bộ; hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; hồn thiện các thủ tục tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, cơng
khai, minh bạch, tơn trọng và bảo vệ quyền con người; tổ chức các cơ quan
tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ
cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định tồ án có
vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hoá mạnh mẽ hoạt
động bổ trợ tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất
là cán bộ nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức,
chun mơn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại
cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh; đổi mới
và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
1.1.3. Nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
Hồn thiện chính sách, pháp luật hình sự: Sớm hồn thiện hệ thống
pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược


21
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hồn thiện chính
sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp
dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo khơng giam giữ đối với một số loại tội
phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với
một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối
đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hố
quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối

với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát
triển kinh tế- xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế.
Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội
phạm là người có thẩm quyền hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội
phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng
chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương
cho người khác.
Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ
chức quần chúng trong phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người
trung thực phát hiện, tố cáo, người điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham
nhũng; khen thưởng người có cơng trong đấu tranh phịng, chống tham
nhũng. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc
ngăn ngừa, kiểm sốt các hành vi tham nhũng.
Hồn thiện pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp: Hoàn thiện
pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi
tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn
thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn….
Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền
hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách


22
nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong
thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật
về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Xác định rõ căn cứ tạm
giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội
phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các
biện pháp tạm giam.
Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng

quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của
người kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của tồ án đã có hiệu lực
pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng
cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều
kiện nhất định.
Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và
phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các
đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền lợi và lợi
ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp
đơn đến tồ án, tồ án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc
giải quyết một số tranh chấp thơng qua thương lượng, hồ giải, trọng tài; tồ
án hỗ trợ bằng quyết định cơng nhận việc giải quyết đó.
Mở rộng thẩm quyền xét xử của tồ án đối với các khiếu kiện hành
chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tồ
án tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình
đẳng giữa cơng dân và cơ quan cơng quyền trước tồ án.
Từng bước thực hiện việc cơng khai hố các bản án, trừ những bản án
hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong
mỹ tục. Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của tồ án có hiệu lực pháp
luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán
quyết của toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.


23
Xác định rõ chức năng, nhiêm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức
bộ máy các cơ quan tư pháp:
Đối với Tòa án nhân dân: Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của toà án nhân dân. Tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền
xét xử, khơng phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu

vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tồ án
phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một
số vụ án; tồ thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử
phúc thẩm; toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét
xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế
xét xử của từng cấp toà án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức toà án nhân dân
tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán và những chuyên gia đầu
ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành.
Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của toà án
quân sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự…
Đổi mới việc tổ chức phiên tồ xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân: Trước mắt, viện kiểm sát nhân dân
giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ
thống tổ chức của toà án. Nghiên cứu việc chuyển viện kiểm sát thành viện
công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra.
Đối với cơ quan điều tra: Xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra
trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra


24
theo hướng cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự,
các cơ quan khác chỉ tiến hành một hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành
một số biện pháp điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách.
Trước mắt, tiếp tục thực hiện mơ hình tổ chức cơ quan điều tra theo pháp

luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại
các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa
công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự.
Đối với cơ quan thi hành án: Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật
chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi
hành án. Xác định rõ trách nhiệm của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
và của cơ quan chuyên môn của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc
thi hành các hình phạt khơng phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc
các bản án của toà án. Từng bước thực hiện việc xã hội hố và quy định
những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà
nước thực hiện một số công việc thi hành án.
Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp: Đào tạo, phát triển đội ngũ
luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chun
mơn. Hồn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại
phiên toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà
nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật
sư; đề cao trách nhiệm của tổ chức luật sư đối với thành viên của mình.
Hồn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một
số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố
tụng. Thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không
lớn, không thường xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục,
thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định
phù hợp với từng lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định,
bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc.


25
Xây dựng lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng kịp
thời cho hội đồng xét xử, thi hành án…
Hồn thiện chế định cơng chứng. Xác định rõ phạm vi của công

chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản cơng chứng. Xây dựng mơ
hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ
quan cơng chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hố
cơng việc này. Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước
mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở
tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo.
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững
mạnh: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo
cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ
tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị,
pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có
phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì cơng lý, bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Trường Đại học luật Hà Nội và Đại luật
Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về
pháp luật. Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán
bộ tư pháp.
Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài
vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các
chức danh tư pháp. Không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn
là các luật gia, luật sư. Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người
bổ nhiệm và các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư
pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm khơng có kỳ hạn.
Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động
của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra,
kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp.


×