Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nội dung cương lĩnh dân tộc của lênin đặc điểm dân tộc và đường lối chính sách của đảng và nhà nước việt nam về vấn đề dân tộc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.7 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
B. NỘI DUNG...............................................................................................................3
I. Cương lĩnh dân tộc của Lênin – cơ sở lý luận của đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.......................................................................................................3
1. Tiền đề của Cương lĩnh dân tộc của Lênin..............................................................3
1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản về dân tộc............................................................3
1.2. Xu hướng phát triển quan hệ dân tộc...................................................................3
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp...........4
2. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin.................................................................4
II. Đặc điểm dân tộc Việt Nam – cơ sở thực tiễn của đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.......................................................................................................6
1. Đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam.................................................................6
2. Ý nghĩa của xu hướng phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam..............................9
III. Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc.......10
1. Nội dung đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.......................................10
2. Thực tiễn thực hiện ở nước ta..............................................................................11
2.1. Thành tựu của việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc..........................11
2.2. Hạn chế của việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc...........................13
3. Phương hướng, giải pháp.....................................................................................14
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................17


A. MỞ ĐẦU
Trong tiến trình xây dựng đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước Việt Nam phải trải
qua thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội xây dựng những cơ sở vật chất kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hoá, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Với xuất phát điểm rất thấp, từ một nước thuộc địa đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã phải chịu rất nhiều thách thức, phải thực hiện cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền, thiết lập


Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, và sự hi sinh, sự chiến đấu
cùng nhau của tồn đồng bào dân tộc có vai trị quan trọng cho chiến thắng của đất
nước ta. Hiện nay trong thời kì xây dựng đất nước, thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đất nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề cơ bản, đặc biệt là vấn đề dân tộc, thực
hiện chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước của nước Việt Nam. Mặt khác quan
điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc, Cương lĩnh dân tộc của Lênin cũng chỉ rõ
vấn đề dân tộc là vấn đề quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia, và việc xây
dựng lý luận quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước cũng đặt ra nhiều
vấn đề để nghiên cứu. Vì vậy em đã nghiên cứu vấn đề: “Nội dung Cương lĩnh dân
tộc của Lênin. Đặc điểm dân tộc và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về vấn đề dân tộc hiện nay.” Nhằm mục đích làm rõ về Cương lĩnh dân tộc
của Lênin, đồng thời phân tích đặc điểm dân tộc Việt Nam, đó là hai cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xây dựng và thực hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về vấn đề dân tộc hiện nay, từ thực tiễn thực hiện và đề ra giải pháp cho
việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Cơ sở lý luận của bài nghiên cứu là quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
vấn đề dân tộc. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu vấn đề là phương
pháp kết hợp logic lịch sử, phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội,
Phương pháp phân tích tài liệu.
Do khả năng hạn chế nên bài nghiên cứu của em khơng thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy, cơ để em có thể
hồn thiện được kiến thức của bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn!
2


B. NỘI DUNG
I. Cương lĩnh dân tộc của Lênin – cơ sở lý luận của đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam
1. Tiền đề của Cương lĩnh dân tộc của Lênin

1.1. Khái niệm về dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất, khái niệm “Dân tộc” dùng để chỉ một cộng đồng người được hình
thành lâu dài trong lịch sử (Tày, Việt, Thái, Mường, Hoa...), đó thực ra là khái niệm
“Tộc người” (Ethnie), là một hình thái đặc thù của một tập đồn người, một tập đồn
xã hội, xuất hiện trong q trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi
ba đặc trưng cơ bản: ngơn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính bền
vững qua hàng nghìn năm lịch sử.[3]
Thứ hai, khái niệm “Dân tộc” dùng để chỉ một quốc gia dân tộc (Nation) là
cộng đồng chính trị - xã hội, có những đặc trưng cơ bản như: có chung phương thức
sinh hoạt kinh tế, có lãnh thổ chung ổn định khơng bị chia cắt, có sự quản lý của một
nhà nước, có ngơn ngữ chung của quốc gia, có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hoá
dân tộc riêng.[3]
Với hai nghĩa như vậy đã cho thấy: khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có
sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ cũng ra đời trong một quốc gia nhất định
và thực tiễn lịch sử chứng minh, những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi thường
khơng tách rời với sự chín muồi của những nhân tố hìn thành quốc gia. Đây là những
nhân tố bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình phát triển. [12]
1.2. Xu hướng phát triển quan hệ dân tộc
Hai xu hướng phát triển của dân tộc là vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, Lênin
đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển khách quan của dân tộc:
Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền
sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc
độc lập.[3,12] Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng đồng
dân cư với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu hướng này biểu
3


hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để hướng tới thành lập các quốc

gia chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng dân cư đã ý thức được rằng,
chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền quyết định con đường phát triển
của dân tộc mình.
Xu hướng thứ hai, Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc
gia muốn liên hiệp lại với nhau.[3,12] Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu
kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở
rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần
nhau.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Theo quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, vấn đề giai
cấp và dân tộc có quan hệ biện chứng, bởi vậy, giải quyết vấn đề dân tộc, giai cấp trong
chủ nghĩa xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng chỉ khi: “xóa bỏ tình trạng người bóc lột
người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ”.[3]
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng
có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là
một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng
hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.[12]
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của
những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chun chính vơ sản. Do đó, giải quyết
vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. chủ nghĩa Mác-Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề
dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp cơng nhân. Điều đó có nghĩa là phải
trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản lâu dài của dân tộc.[12]
Giải quyết vấn đề dân tộc, thực chất là xác lập quan hệ cơng bằng, bình đẳng
giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội và ngơn ngữ.[12]
2. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin
Trên cơ sở tư tưởng của Mác, Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp; cùng với
sự phân tích hai xu hướng của q trình dân tộc, Lêninđã nêu ra “cương lĩnh dân tộc”
4



với ba nội dung cơ bản: “các dân tộc hoàn tồn bình đẳng; các dân tộc được quyền
tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”. Đây được coi là cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng Cộng sản.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận không thể tách rời
trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân, là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc
của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc, là cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối
và chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Một là: Các dân tộc hồn tồn bình đẳng.[3,12] Đây là quyền thiêng liêng của các
dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đơng hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp
đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, khơng có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngơn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật
bảo vệ và trong thực tế phải được thực hiện, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền bình đăng dân tộc gắn liền với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sơvanh nước lớn, chống
sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát
triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
- Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết.[3,12] Về thực chất, quyền dân tộc tự
quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh
tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do
phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các dân tộc, chư
khơng phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và quyền tự nguyện liên
hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Khi xem xét giải quyết quyền tự
quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các
phong trào tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu lợi dụng quyền dân
tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia

rẽ dân tộc.

5


- Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.[3,12] Đây là tư tưởng, nội dung cơ
bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế
của giai cấp công nhân, phong trào cơng nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đồn kết giai cấp cơng nhân các
dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nó có vai trị quyết
định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết.
Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
II. Đặc điểm dân tộc Việt Nam – cơ sở thực tiễn của đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam
1. Đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam
Đất nước Việt Nam ta có 54 dân tộc khác nhau, là 54 dân tộc anh em hình thành
nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các dân tộc Việt Nam gắn kết, có mối liên hệ bền
vững từ những ngày đầu của Cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam và Cách
mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tuy mỗi dân tộc đều có những đặc điểm riêng, những
văn hoá riêng, nhưng tựu chung lại các dân tộc ở Việt Nam đều có những đặc điểm nổi
bật cho thấy được tại sao vấn đề dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc lại là vấn đề quan
trọng trong tiến trình xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, Việt Nam có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người. Việt Nam là
quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng.[3]
Bao gồm 54 dân tộc anh em, trong đó dân Kinh chiếm số lượng lớn nhất còn lại là các
dân tộc thiểu số phân bố khơng đồng đều trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sự khác biệt
về số lượng người giữa các dân tộc sẽ gây ra nhiều khó khăn cho việc tổ chức cuộc
sống, bảo tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc, duy trì và phát triển nịi giống đặc biệt là
với những dân tộc chỉ có vài trăm người. Do đó, địi hỏi Đảng và Nhà nước cần có

những chính sách quan tâm đặc biệt đối với những dân tộc thiểu số rất ít người nhằm
tạo điều kiện cho sự phát triển đồng đều giữa các dân tộc.
Thứ hai, các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau. Việt Nam vốn là nơi chuyển
cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đơng Nam Á.[3] Chính sự đa dạng về số lượng các dân
6


tộc mà bản đồ cư trú của các dân tộc cũng phân tán, xen kẽ nhau và trải dài trên khắp
đất nước, khơng có dân tộc nào chỉ cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn. Sự
phân tán và xen kẽ địa bàn cư trú của các dân tộc đem lại điều kiện thuận lợi cũng như
khó khăn. Trước hết về thuận lợi, việc có nhiều dân tộc khác nhau cùng chung sống
trên một địa bàn giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau, mở rộng giao lưu văn hóa, giúp
đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Tuy nhiên, cũng có nhiều mâu thuẫn, xung
đột xảy ra khi các dân tộc sống xen kẽ, từ đó tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi
dụng cơng kích, xun tạc nhằm phá hoại an ninh chính trị và hịa bình đất nước.
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa có vị trí chiến
lược quan trọng.[3] Ở nước ta, 53 dân tộc thiểu số cư trú trên ¾ lãnh thổ. Ðó là những
khu vực có vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc phịng, mơi trường
sinh thái (vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa của đất nước). Trong lĩnh vực
kinh tế, khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết là tiềm lực về tài
nguyên rừng và đất rừng để phát lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp.... Không những
thế, với đặc thù đường biên giới trên đất liền dài tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi,
giao thương với các quốc gia khác. Tuy nhiên, địa hình hiểm trở của những khu vực
này cũng gây ra khơng ít khó khăn cho q trình định canh, định cư và phát triển kinh
tế của các dân tộc thiểu số. Ngoài ra, miền núi - nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào
dân tộc Mơng, Mường, Thái,... cịn có vai trị đặc biệt quan trọng về mơi trường sinh
thái đối với cả nước như điều hồ khí hậu, điều tiết nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu
trong mùa mưa lũ. Chính vì vậy, việc bảo vệ và mở rộng diện tích rừng hiện có là vơ
cùng quan trọng địi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước và các dân tộc thiểu sinh
sống tại đây. Tầm quan trọng của những vị trí chiến lược cịn thể hiện trong lĩnh vực

an ninh - quốc phòng. Cụ thể, thực tế lịch sử khẳng định đây là những vị trí trọng yếu
mà quân xâm lược hay sử dụng để tiến vào nước ta trong thời chiến cũng như các thế
lực thù địch hiện nay lợi dụng để phá hoại an ninh chính trị, quốc phịng của quốc gia,
chống phá sự nghiệp xây dựng XHCN ở Việt Nam trong thời bình.
Thứ tư, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển khơng đều.[3] Trình độ phát
triển khơng đều giữa các dân tộc thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nguyên nhân của sự chênh lệch này chủ yếu là do điều kiện tự nhiên. Về phương diện
7


kinh tế, hiện nay đại bộ phận các dân tộc ở Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản
xuất tiến bộ, đã áp dụng những thành tự khoa học, kĩ thuật vào sản xuất tạo ra năng
suất lao động cao, hướng tới xu thế cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Tuy
nhiên, một số dân tộc vẫn còn duy trì phương thức sản xuất thơ sơ, chủ yếu dựa vào
khai thác từ tự nhiên nên hiệu quả sản xuất chưa cao. Từ sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế đã dẫn tới sự chênh lệch về sự phát triển văn hóa, xã hội giữa các dân tộc.
Trước hết thể hiện trong phương diện xã hội, mỗi dân tộc thiểu số sẽ có trình độ tổ
chức đời sống, các quan hệ xã hội khác nhau. Tiếp đó về văn hóa, trình độ dân trí, trình
độ chun mơn kỹ thuật của nhiều dân tộc còn thấp. Vẫn còn nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số chưa có điều kiện được hưởng nền giáo dục tiến bộ, còn gặp nhiều khó khăn
khi tiếp cận thơng tin đại chúng. Chính sự chênh lệch về trình độ phát triển đã tạo ra
sự bất bình đẳng giữa các dân tộc vì vậy địi hỏi cần có những chủ trương, đường lối,
chính sách nhằm từng bước giảm, tiến tới xóa bỏ khoảng cách này, qua đó tạo điều
kiện phát triển bền vững cho các dân tộc thiểu số.
Thứ năm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đồn kết gắn bó lâu đời trong
cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất.[3] Từ xưa đến nay, tinh thần đoàn kết là một
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Nó thể hiện ở sự hợp sức, gắn bó chặt chẽ
của tồn thể quần chúng nhân dân tạo nên một sức mạnh to lớn để cùng đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Mặc dù gồm nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống nhưng
mỗi khi Tổ quốc lâm nguy thì các dân tộc đều liên kết lại tạo thành một khối thống

nhất để bảo vệ quê hương, đất nước. Đây là một trong những nguyên nhân và động lực
quyết định mọi thắng lợi trong các cuộc chiến chống quân xâm lược. Ngày nay, trong
thời bình, việc thực hiện sự nghiệp xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì
địi hỏi càng phải giữ gìn và ra sức phát huy truyền thống đồn kết dân tộc, nâng cao
cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ phá, phá hoại khối đại
đồn kết dân tộc.
Thứ sáu, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú,
đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.[3] Dân tộc Việt Nam có nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng. Mỗi dân tộc đề có những nét văn hóa riêng, độc đáo tạo nên
sự khác biệt, đặc trưng riêng có tạo nên sự đa dạng cho nền văn hóa Việt Nam. Mặc dù
8


mang trong mình những sắc thái riêng nhưng các dân tộc ở Việt Nam lại có những yếu
tố văn hóa thống nhất bắt nguồn chung từ lịch sử dựng nước và giữ nước. Do đó Đảng
và Nhà nước ta ln ln tơn trọng bản sắc văn hóa riêng mỗi dân tộc và tạo điều kiện
thuận lợi cho các dân tộc để giữ gìn, phát huy những bản sắc đó.
ð Tựu chung lại, từ sáu đặc điểm cơ bản trên của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta càng củng cố nhận thức vấn đề dân tộc là vấn đề quan trọng, và đã xây dựng
quan điểm, chính sách dân tộc phù hợp với tình hình thực tiễn dân tộc của Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi đó là vấn đề chính trị - xã hội rộng lớn, gắn liền với
các mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Ý nghĩa của xu hướng phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam
Dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự vận động mới theo xu
hướng ngày càng tiến bộ văn minh. Trong đó, hai xu hướng khách quan của sự phát
triển dân tộc sẽ phát huy tác dụng cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong
từng dân tộc, trong cả dân tộc, quốc gia. Quan hệ dân tộc là biẻu hiện sinh động của
hai xu hướng đó trong điều kiện của công cuộc xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa. Ý nghĩa của hai xu hướng phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam:
- Trong nội bộ quốc gia: Xu hướng thứ nhất: giúp các dân tộc trong Việt Nam gìn

giữ nét đặc trưng của văn hố dân tộc mình, mỗi dân tộc sẽ khai thác tối đa tiềm năng
của dân tộc mình để phát triển, nhưng cũng gây thách thức về việc bị kẻ địch lợi dung
tự tôn dân tộc, gây mâu thuẫn, chia rẽ. Xu hướng hai: Sự xích lại gần nhau giữa các
dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia sẽ làm cho những
giá trị, tinh hoa của các dân tộc hòa nhập vào nhau, bổ sung cho nhau làm phong phú
thêm giá trị chung của quốc gia – dân tộc. những giá trị chung đó sẽ lại là cơ sở liên
kết các dân tộc chặt chẽ, bền vững hơn. Các dân tộc nhận được sự giúp đỡ, dựa vào
tiềm năng của dân tộc anh em để phát triển nhanh chóng.
- Đối với quốc tế: Xu hướng một: giúp Việt Nam bảo vệ tốt nền độc lập tự chủ
dân tộc, không bị các nước khác thơn tính. Xu hướng hai: có lợi cho đất nước Việt
Nam không bị tụt hậu so với quốc tế về kinh tế, xã hội, tạo đà hội nhập cho quốc gia,
thách thức tạo ra khi tham gia vào các quan hệ hợp tác đó là khó bảo vệ được những
lợi ích quốc gia, văn hố và đạo đức của dân tộc.
9


III. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc
1. Nội dung đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Chủ nghĩa Mác và Cương lĩnh dân tộc của Lênin, lý luận về hai xu hướng khách
quan trong sự phát triển của dân tộc và quan hệ dân tộc chính là nền tảng lý luận cơ
bản để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng những quan điểm đúng đắn và thực hiện
chính sách dân tộc trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề dân tộc cũng
được xem như vấn đề có vị trí chiến lược trong thời kì quá độ chủ nghĩa xã hội và xã
hội chủ nghĩa. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn về đặc điểm cơ bản của quá trình phát
triển tộc người và hình thành dân tộc - quốc gia ở Việt Nam mà Đảng ta đã lấy làm căn
cứ để đề ra những đường lối, chính sách dân tộc hiện nay.
Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc
Theo đó, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương
trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn
minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt

Nam…”[3,12]. Quan điểm này được thể hiện qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn nhất quán
trong chủ trương, đường lối và giữ vững ngun tắc thực hiện chính sách dân tộc đó.
Được thể hiện trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội năm 2011 của Đảng ta được đề ra trong đại hội XI, là một trong tám đặc trưng
về mục tiêu, bản chất, nội dung của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng:
“Sáu là: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và
giúp nhau cùng phát triển.” [1]
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Chính sách dân tộc ở nước ta chính là việc cụ thể hóa những quan điểm, đường
lối của Đảng về vấn đề dân tộc, tác động trực tiếp đến việc giải quyết mối quan hệ dân
tộc, xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc dựa vào những nguyên tắc cơ bản, như:
bình đẳng, đồn kết, giải quyết hài hịa quan hệ giữa các dân tộc và giúp nhau cùng
phát triển. Về mục tiêu, chính sách dân tộc khai thác mọi tiềm năng và thế mạnh của
các dân tộc và của cả đất nước, từng bước khắc phục và xóa bỏ khoảng cách chênh
lệch vùng miền, xóa đói giảm nghèo, thực hiện sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.[12]
10


Trong thời kỳ hiện nay, chính sách dân tộc của nước ta tập trung vào những nội
dung cơ bản:
Thứ nhất là chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng các dân tộc thiểu số,
nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của vùng đồng bào các dân tộc, gắn với kế hoạch
phát triển chung của cả nước, đưa vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển cùng với
mặt bằng chung, tiến tới hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa đất nước, đây là chính sách
quan trọng nhất, yếu tố kinh tế - xã hội chính là yếu tố quyết định để khắc phục và xóa
bỏ khoảng cách chênh lệch vùng miền, điển hình là chương trình 135 của Chính phủ.
Thứ hai, chính sách về chính trị, khuyến khích các cử tri dân tộc thiểu số ứng
cử vào các cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị; đào tạo, nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở ở các vùng dân tộc thiểu số.

Thứ ba, chính sách dân tộc tập trung vào thực hiện các chính sách xã hội, đó là
những vấn đề giáo dục - đào tạo, văn hóa, y tế, an sinh xã hội,…nhằm nâng cao trình
độ tri thức, chăm sóc sức khỏe, cải thiện các mặt đời sống, giúp đồng bào các dân tộc
thiểu số từng bước vượt khó, thốt nghèo, phát triển bình đẳng so với mặt bằng chung
cả nước.
Thứ tư, chính sách về an ninh, quốc phòng nhằm củng cố các địa bàn chiến lược,
xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, giữ vững trật tự an toàn xã hội và ổn định chính
trị.
2. Thực tiễn thực hiện
2.1. Thành tựu của việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, sau gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn: quốc phòng, an ninh được đảm bảo, đất nước được giữ vững
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã
hội chủ nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Trong đó, quan
trọng nhất chính là Việt Nam đã thực hiện hiệu quả việc chống “âm mưu diễn biến hịa
bình”, bạo loạn lật đổ; vơ hiệu hóa hoạt động của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước, đã lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền để gây mất ổn định đất
nước ta. Qua đó cho thấy, Đảng ta đã đề ra những đường lối, chủ trương đúng đắn
trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong những năm qua. Trong đó, cơ
11


bản giải quyết tốt quan hệ dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo đúng tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Về thành tựu việc xây dựng chính sách dân tộc, qua các nhiệm kỳ Quốc hội từ
khóa X đến nay, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật có những nội dung liên quan đến
dân tộc thiểu số. Tính đến nay, Quốc hội đã ban hành hơn 100 luật, hơn 30 nghị quyết
có nội dung, chính sách liên quan đến lĩnh vực dân tộc thiểu số, miền núi và vùng đặc
biệt khó khăn. Ngồi ra, Chính phủ cũng đã ban hành hàng trăm văn bản về tất cả các
khía cạnh của đời sống liên quan đến chính sách dân tộc. Nội dung các văn bản ngày

càng đi vào đời sống và phù hợp với tình hình thực tiễn của từng dân tộc và tình hình
chung của đất nước. Điều này cho thấy rằng, Đảng và Nhà nước đã thực sự quan tâm
đối với công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước nói chung và vùng dân tộc
thiểu số nói riêng. Những chính sách dân tộc được ban hành đều đưa ra những giải
pháp cụ thể để thực thi một cách hiệu quả. Trong quá trình thực thi, đều tiến hành tổng
kết, sơ kết, rút kinh nghiệm và đi kèm các biện pháp tuyên truyền, phổ biến một cách
công khai, minh bạch đến mọi tầng lớp Nhân dân và đề cao vai trò dân chủ trong thực
hiện chính sách dân tộc.
Về những thành tựu trong thực hiện chính sách dân tộc, có thể khẳng định, ở
nước ta hiện nay, tất cả mọi công dân khơng phân biệt dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng,
giới tính,…đều bình đẳng về chính trị, pháp luật và mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Khối đại đoàn kết dân tộc được giữ vững, sự gắn kết giữa 54 dân tộc ngày càng được
củng cố, tăng cường trên cơ sở tơn trọng, đồn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển, chung
tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cơng tác dân tộc xố đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế thời gian qua đã góp phần tích cực trong việc thay đổi
diện mạo vùng nông thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, quyền bình
đẳng giữa các dân tộc ngày càng được thể chế hóa, đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào ngày càng được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt nhờ Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, kết quả giảm nghèo của
Việt Nam vượt mục tiêu đề ra với tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 5%.
Khơng những cơng tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan mà
đối với công tác giáo dục dân trí của đồng bào các dân tộc cũng được cải thiện. Hiện
12


nay, vùng đồng bào dân tộc và miền núi đã phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở theo độ tuổi và cơ bản xóa mù chữ. Đời sống văn hóa của các dân tộc được giữ gìn
và phát huy, mạng lưới thông tin, truyền thông rộng khắp và giúp cho đồng bào dân
tộc tiếp cận được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy, nhiều di sản văn hóa của

đồng bào dân tộc đã được UNESCO cơng nhận: Văn hố cồng chiêng Tây Nguyên,...
Bên cạnh đó, những lĩnh vực đời sống xã hội khác cũng được cải thiện và từng
bước được nâng lên, như: công tác y tế ngày càng được cải thiện và đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc; hệ thống chính trị vùng dân tộc được củng
cố; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính
trị từng bước nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Đó là nhờ vào chính sách “khuyến
học, khuyến tài” và chính sách ưu đãi trong lĩnh vực giáo dục đối với con, em đồng
bào dân tộc thiểu số trong thời gian qua đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực. Về an
ninh chính trị và trật tự xã hội tại các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, cơ bản ổn định.
Đồng bào dân tộc ngày càng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
2.2. Hạn chế của việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc
Bên cạnh những “trái ngọt”, những thành tựu đạt được, có thể thấy việc xây
dựng và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta có nhiều hạn chế:
Hạn chế về xây dựng chính sách dân tộc:
Hệ thống pháp luật vẫn chưa có bộ luật cụ thể về vấn đề dân tộc, trong khi đây
là vấn đề quan trọng của đất nước, vấn đề này chỉ được quy định tại một số điều khoản
trong hiến pháp, và các bộ luật khác mà chưa được hệ thống hoá thành bộ luật cơ bản.
Việc xây dựng một số chính sách thiếu thực tế, chưa phù hợp với địa bàn vùng
dân tộc và miền núi. Tổ chức thực hiện chính sách cịn nhiều bất cập, chỉ đạo tổ chức
thực hiện chưa hợp lý; việc phối hợp giữa các bộ, ngành có lĩnh vực chưa chặt chẽ, chỉ
đạo có mặt cịn chồng chéo. Cơng tác kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực hiện
chính sách cịn hạn chế. Cơng tác lập kế hoạch, rà soát đối tượng thụ hưởng trong việc
thực hiện một số chính sách chưa sát với thực tế,...
Hệ thống chính sách vùng dân tộc và miền núi so với giai đoạn trước có nhiều
ưu điểm, nhưng cịn bộc lộ khơng ít hạn chế, như chưa bảo đảm gắn kết thống nhất
13


giữa chính sách phát triển dân tộc - tộc người với chính sách phát triển vùng; thời gian
thực hiện chính sách ngắn, thiếu tính chiến lược; trình tự thủ tục xây dựng và trình một

số đề án mất nhiều thời gian; hầu hết các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ; chính
sách đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, do vậy hiệu quả chưa thực sự bền
vững;…
Hạn chế về thực hiện chính sách dân tộc:
Kết quả giảm nghèo hiện vẫn chưa thực sự bền vững, nhiều địa phương trong
quá trình triển khai nhiệm vụ hiệu quả chưa cao, tỷ lệ hộ thoát nghèo thiếu bền vững,
tỷ lệ hộ tái nghèo, cận nghèo còn cao. Cùng với đó, trình độ dân trí của nhiều người
dân vùng sâu, vùng xa cịn thấp, gây khó khăn trong khả năng tiếp thu, vận dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất. Tình hình thiên tai, dịch bệnh, nhất là hậu quả đại dịch
COVID-19 đã và đang diễn ra đã làm chậm lại tiến độ giảm nghèo của nhiều địa
phương, nhiều hộ cận nghèo trở thành nghèo… Chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa ở
vùng DTTS và MN tuy đã được nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp,
mức độ tiếp cận các dịch vụ cịn nhiều khó khăn.
Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi cịn yếu, đặc biệt đội ngũ cán bộ có năng
lực, trình độ cịn hạn chế, nhất là thiếu đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hoặc có
cán bộ dân tộc nhưng chưa được đào tạo.
3. Phương hướng, giải pháp
Từ những thành tựu và hạn chế xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc của Nhà
nước ở Việt Nam thì phương hướng đề ra để đảm bảo được sự phát triển kinh tế, xã
hội, chính trị, văn hố, an ninh – quốc phòng của các dân tộc ở Việt Nam đó là:
Về xây dựng chính sách dân tộc: hoàn thiện các văn bản pháp luật về vấn đề dân
tộc, cơng tác dân tộc, trong đó sớm thể chế hoá, hệ thống hoá, xây dựng, và ban hành
Luật Dân tộc. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc phải
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền,
đặc điểm của từng dân tộc, từng địa phương
Về thực hiện chính sách dân tộc:
Tiếp tục xây dựng chính sách tăng cường phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng núi: tiếp tục thực hiện đảm bảo nơi ở ổn định và các điều
14



kiện sinh sống cơ bản của con người đối với các dân tộc. Tiếp tục thực hiện xố đói
giảm nghèo một cách sâu rộng hơn, xây dựng nhiều hơn những mơ hình kinh tế nơng
nghiệp, lâm nghiệp tạo sinh kế, công ăn việc làm cho người dân tộc thiểu số, dần đưa
các khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất ở các vùng, xây dựng nhiều trường đào tạo
nghề ở địa bàn người dân tộc thiểu số.
Chủ động nắm tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và đời sống, sản
xuất tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số; kịp thời tham mưu giải quyết tốt các vấn đề
phát sinh, giảm tranh chấp, khiếu kiện nhằm ổn định vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện cơng tác chính trị sâu rộng hơn, tăng cường tun truyền, để người dân hiểu
được các chính sách đang được thực hiện phục vụ lợi ích của nhân dân và người dân
sẽ thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước tốt hơn. Đặc biệt động viên, khuyến
khích đồng bào phát hiện những điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp trong các chính sách
dân tộc để kiến nghị với các cấp xây dựng và hồn thiện các chính sách dân tộc. Điều
quan trọng là phải “lấy dân làm gốc”, phải do dân, trọng dân, tin và dựa vào dân, phải
vì dân, có trách nhiệm với dân, phải đi xuống với đồng bào các dân tộc, khơng quan
liêu và hành chính hoá.
Đối với vấn đề thiên tai, bão lũ, hạn hán thì phải có biện pháp dự báo trước, các
cấp uỷ cùng người dân có những phương pháp làm giảm thiểu thiệt hại đầu tiên là về
người, về tài sản, có những chính sách ổn định sau khi thiên tai, bão lũ xảy ra để người
dân khơng bị chịu thiệt thịi về cuộc sống kinh tế - xã hội. Đối với vấn đề dịch bệnh
COVID - 19 hiện nay, với việc kêu gọi nguồn lực xã hội, xã hội hố cơng tác nhập
khẩu, sản xuất vacxin COVID, ưu tiên các dân tộc thiểu số, người yếu thế, người dễ bị
tổn thương được tiêm phòng ngừa, để ngăn chặn, chống lại đại dịch covid, nhằm ổn
định cuộc sống, phát triển kinh tế của người dân, vẫn duy trì được tốc độ giảm nghèo,
và tốc độ an sinh xã hội đối với các dân tộc thiểu số, vùng núi, biên giới, hải đảo.
Trách nhiệm của mỗi người dân, giúp đỡ nhau cùng phát triển, không phân biệt
dân tộc, vùng miền, giúp đỡ những đồng bào khó khăn chịu thiệt hại vì thiên tai, dịch
bệnh. Chống lại những suy nghĩ sai lệch về Đảng và Nhà nước, chống diễn biến hồ
bình, và chống các tệ nạn xã hội, chống lại chế độ phân biệt chủng tộc.


15


C. KẾT LUẬN
Tổng kết lại sau khi nghiên cứu vấn đề: “Nội dung Cương lĩnh dân tộc của
Lênin. Đặc điểm dân tộc và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam
về vấn đề dân tộc hiện nay” nhận thức rõ ràng về tiền đề của Cương lĩnh dân tộc của
Lênin đó là: xu hướng phát triển quan hệ dân tộc hiện nay, chủ nghĩa Mác về vấn đề
dân tộc và giai cấp, và phân tích những nội dung cơ bản của Cương lĩnh dân tộc đó là:
“các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công
nhân tất cả các dân tộc lại”, đây là cơ sở lý luận của Đảng và Nhà nước để xây dựng
chính sách dân tộc của đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đồng thời chính sách này cịn phải dựa vào cơ sở thực tiễn là đặc điểm các dân tộc Việt
Nam, xu hướng phát triển các quan hệ dân tộc có ý nghĩa, tác động đến sự phát triển
đất nước, để chính sách được hồn thiện, phù hợp với thực tiễn đất nước và lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó phân tích quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước về vấn đề dân tộc, thơng qua phân tích thực tiễn thực hiện những quan điểm,
chính sách đó chỉ ra được những điểm tích cực, và hạn chế trong xây dựng và thực
hiện, từ đó đề ra giải pháp, phương hướng mới nhằm mục tiêu khai thác mọi tiềm năng
và thế mạnh của các dân tộc và của cả đất nước, từng bước khắc phục và xóa bỏ khoảng
cách chênh lệch vùng miền, xóa đói giảm nghèo, thực hiện sự nghiệp xây dựng xã hội
chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và nền dân chủ
chân chính. Nhân dân cũng phải có trách nhiệm đồn kết tương trợ, giúp đỡ nhau, phát
triển khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng sản xuất, đặc biệt trong bối cảnh công
nghiệp 4.0 và dịch bệnh covid 19 đang từng bước thay đổi xã hội. Việc hội nhập kinh
tế của đất nước ta trong xu hướng phát triển thứ hai của quan hệ dân tộc giữa các quốc
gia đang đòi hỏi người dân đặc biệt là thế hệ trẻ không chỉ nhận thức về chính sách dân
tộc của Việt Nam ta mà cịn phải nêu cao tinh thần tự tơn, dân tộc, gìn giữ, bảo tồn nét
văn hố của các dân tộc Việt Nam phát huy trí tuệ của các dân tộc, đồng thời quảng bá

văn hoá, tri thức của dân tộc Việt Nam tới bạn bè trên thế giới, đây là nhiệm vụ quan
trọng trong công cuộc xây dựng đất nước, phát triển, nâng cao đời sống xã hội các dân
tộc Việt Nam lên một nấc thang cao hơn.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 2011
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đại hội XI.
2. Bảo Anh, “Vận dụng đúng đắn Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
cơ sở thực tiễn trong chính sách dân tộc”, Tổ cơng tác Thơng tin tun truyền,
4/11/2020.
3. GS.TS Hồng Chí Bảo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ giáo dục và đào
tạo, Hà Nội, 2019.
4. GS.TS Phạm Văn Đức, Giáo trình triết học Mác – Lenin, Bộ giáo dục và đào tạo,
Hà Nội, 2019.
5. Vũ Văn Hiền, Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh, Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận
trung ương, 15/06/2021.
6. Nguyễn Quỳnh Hoa, Chính sách dân tộc tại Việt Nam: Thành tựu và thách thức cần
vượt qua, Trang thông tin điện tử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 11/07/2017.
7. Nguyễn Hoàng, Các nhóm nhiệm vụ chủ yếu về cơng tác dân tộc tới năm 2030,
Chinhphu.vn, 04/12/2020.
8. U Minh Nam, Công tác thể chế đường lối, quan điểm của Đảng đối với vấn đề dân
tộc, Trang thông tin điện tử Ban Dân tộc tỉnh Kon Tum, 27/03/2020.
9. Trần Hoài Nam, Tăng cường nguồn lực để vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi bứt phá, Báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, 26/05/2021.
10. Nguyễn Thị Thu Thanh, Chính sách dân tộc của Việt Nam qua 35 năm đổi mới,
Tạp chí Cộng sản, 03/04/2021.

11. Phan Thanh, Cơng tác an ninh - quốc phịng ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trang thông tin điện tử Dân vận, 06/07/2021.
12. TS Nguyễn Viết Thơng, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
13. Nguyễn Hồi Văn, Viện Khoa học Chính trị - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Vấn
đề quan hệ dân tộc và phát triển ở nước ta hiện nay, trang thơng tin điện tử Tạp chí
lý luận của UBDT, 16/06/2005.
17



×