Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

hoàn thiện pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu quốc hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.88 KB, 132 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các văn kiện của Đảng từ trước đến nay, đặc biệt là Cương lĩnh
năm 1991, cương lĩnh của thời kỳ đổi mới đã được thể chế hoá trong Hiến
pháp năm 1992, Đảng ta luôn luôn xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Mỗi đại biểu
Quốc hội đều có trọng trách là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cử
tri nơi bầu ra mình, đồng thời đại diện cho nhân dân cả nước. Để bảo đảm
thực hiện đúng vị trí, vai trò đó, đại biểu Quốc hội phải thường xuyên liên hệ
chặt chẽ với cử tri.
Tại Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ X của Đảng, nêu rõ: “Tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng
cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách,
phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội” [20, tr.126].
Bộ Chính trị đã có Thơng báo kết luận số 144-TB/TW ngày 28/3/2008
một số vấn đề về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Đảng đoàn Quốc hội,
trong đó đã xác định một trong những phương hướng nhiệm vụ cần tiếp tục
nghiên cứu của Quốc hội trong thời gian tới là
Đổi mới mạnh mẽ việc tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội cả
về nội dung, cách thức tở chức; khắc phục tính đơn điệu, hình thức
theo chế độ hội nghị. Từng đại biểu Quốc hội cần có kế hoạch cụ
thể, thiết thực thâm nhập vào các hoạt động của đời sống xã hội ở
địa phương để hiểu rõ những yêu cầu của thực tiễn và tâm tư,
nguyện vọng của cử tri, qua đó đại biểu Quốc hội mới có thể thực
hiện được vai trò đại biểu của nhân dân và nhân dân mới đặt niềm
tin vào Quốc hội [15].
“Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của
cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri” là một quan điểm lớn của Đảng ta từ



2
trước tới nay và đã được thể chế hoá trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc
hội. Trên thực tế, hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội đã từng
bước được đổi mới, mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri ngày càng
được tăng cường, nhất là trong các khoá Quốc hội gần đây.
Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn cho thấy, các quy định của pháp luật về
tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội còn nhiều bất cập, chưa thật sự đáp ứng
được yêu cầu đặt ra. Việc tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp xúc cử tri của
đại biểu Quốc hội còn nhiều hạn chế; các hình thức tiếp xúc, liên hệ với cử tri
chưa thực sự đa dạng hoá. Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
đến nay vẫn chủ yếu theo chế độ hội nghị; nội dung tiếp xúc vẫn còn đơn
điệu, mang tính hình thức, chưa thật sự thu hút được sự quan tâm của nhiều
cử tri; việc giải quyết kiến nghị của cử tri và giám sát việc giải quyết kiến
nghị của cử tri chưa được quan tâm đúng mức; tổ chức bộ máy phục vụ hoạt
động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội còn nhiều bất cập... Chính vì vậy,
hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong thời gian qua
còn nhiều hạn chế.
Quá trình đởi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân ở nước ta đã và đang đòi hỏi
Quốc hội phải không ngừng đổi mới trong việc thực hiện các chức năng lập
pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Muốn
vậy, Quốc hội mà trực tiếp là các đại biểu Quốc hội cần phải giữ mối quan hệ
thường xuyên, chặt chẽ với cử tri, phải thực sự trở thành “cầu nối” giữa cử tri
với Đảng và Nhà nước.
Lý luận và thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết là làm
sao để tạo lập một khuôn khổ pháp lý, bảo đảm tăng cường hơn nữa việc nhân
dân tham gia vào quá trình nghiên cứu, hoạch định chính sách và giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước; bảo đảm chính sách, pháp luật phản ánh
được đầy đủ hơn ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Điều đó đòi hỏi đại
biểu Quốc hội phải làm tốt hơn nữa việc tiếp xúc cử tri, gần gũi, gắn bó mật thiết



3
với nhân dân, hiểu sâu sắc những tâm tư, nguyện vọng của cử tri để làm tròn
trách nhiệm của người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Bởi những lẽ trên, việc nghiên cứu một cách toàn diện cả phương diện lý
luận và thực tiễn về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội nhằm góp
phần đởi mới và hồn thiện pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
đang đặt ra cấp bách. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp
luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội” làm Luận văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhìn chung, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tiếp
xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong thời gian qua mới chủ yếu đề cập đến
những vấn đề mang tính khái quát, được thể hiện rải rác ở một số bài viết của
các nhà nghiên cứu đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp hoặc ở một số cơng
trình nghiên cứu, như đề tài khoa học cấp bộ “Thực trạng và giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác dân nguyện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” do PGS.
TS. Bùi Xuân Đức làm Chủ nhiệm đề tài; Đề tài “Tăng cường năng lực quyết
định của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam” của Văn phòng Quốc hội… Từ trước
đến nay, chưa có cơng trình độc lập nào nghiên cứu một cách toàn diện cả về
lý luận và thực tiễn về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
Từ tình hình đó, luận văn này, một mặt sẽ kế thừa những thành tựu đã
đạt được trong các cơng trình nghiên cứu trước đây; mặt khác, tiếp tục phát
triển, đi sâu nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống hơn về các vấn đề có
liên quan đến tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở đó, đề xuất các
giải pháp thiết thực nhằm đởi mới và hồn thiện pháp luật về tiếp xúc cử tri
của đại biểu Quốc hội ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
- Tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề lý luận về tiếp xúc cử tri

của đại biểu Quốc hội; góp phần làm rõ hơn mối quan hệ chính trị - pháp lý
giữa đại biểu Quốc hội và cử tri.


4
- Đánh giá những tác động của các quy định pháp luật trong thực tiễn
hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội; vai trò của các cơ quan, tổ
chức trong việc bảo đảm cho hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
- Đề xuất các giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm tiếp tục đởi mới và
hồn thiện pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội;
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện lý luận về tiếp xúc cử tri của
đại biểu Quốc hội, bao gồm các chủ trương, quan điểm trong các văn kiện của
Đảng có liên quan đến việc đởi mới tở chức và hoạt động của Quốc hội nói
chung, về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội nói riêng;
- Đánh giá thực trạng hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
nước ta trong thời gian qua, trong đó, làm rõ những kết quả đạt được, những
hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong hoạt động
tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội;
- Kiến nghị các giải pháp tiếp tục xây dựng, hồn thiện chính sách, pháp
luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, trong
đó tập trung đề cập đến các quan điểm, chủ trương của Đảng ta về vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội nói chung và nhiệm vụ tiếp xúc cử
tri của đại biểu Quốc hội nói riêng. Đồng thời, Luận văn cũng nghiên cứu kinh
nghiệm tiếp xúc cử tri của nghị sỹ ở một số nước trên thế giới làm cơ sở tham
chiếu cho việc đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội nước ta.
- Nghiên cứu thực tiễn hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội

trong thời gian qua; đánh giá các quy định của pháp luật về tiếp xúc cử tri của
đại biểu Quốc hội cũng như thực trạng hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu
Quốc hội ở nước ta và việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
hữu quan trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.


5
- Nghiên cứu các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và các quy định pháp luật
của Nhà nước ta về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội từ trước đến nay;
- Thực trạng việc thi hành các quy định của pháp luật về tiếp xúc cử tri
của đại biểu Quốc hội trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2009.
- Các giải pháp đởi mới và hồn thiện pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại
biểu Quốc hội trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật;
- Sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
phân tích, phương pháp tởng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia, toạ đàm.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc
hội, qua đó nâng cao nhận thức về những vấn đề liên quan đến hoạt động tiếp
xúc cử tri của đại biểu Quốc hội;
- Xây dựng một cách có hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả
hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội thông qua việc đánh giá tác
động của các quy định pháp luật;

- Kiến nghị các giải pháp phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong việc đổi
mới và hoàn thiện pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, góp
phần hồn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp
xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu luận văn
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần hồn thiện
cơ sở lý luận về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, góp phần vào việc nâng


6
cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động tiếp xúc cử tri nói chung và
hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội nói riêng.
- Về thực tiễn: Những kiến nghị của Luận văn có ý nghĩa nhất định đối
với quá trình xây dựng và hồn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước ta
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội nói chung, về tiếp
xúc cử tri của đại biểu Quốc hội nói riêng.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho công
tác giảng dạy ở các cơ sở đào tạo chính trị pháp lý và hoạt động xây dựng
pháp luật trong các cơ quan của Quốc hội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.1. BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM, KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT VỀ TIẾP XÚC CỬ
TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI


1.1.1. Bản chất, đặc điểm hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
Như đã biết, pháp luật nước ta quy định đại biểu Quốc hội không chỉ đại
diện cho cử tri ở nơi bầu ra mình mà còn đại diện cho cử tri và nhân dân cả
nước. Vậy, sự “đại diện” của đại biểu Quốc hội được hiểu như thế nào? Để
hiểu được bản chất của hoạt động tiếp xúc cử tri, cần trở về cội nguồn của
hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
Khác với đại diện trong pháp luật về dân sự, sự đại diện của đại biểu
Quốc hội được thể hiện rõ nét ở phương diện chính trị. Nghiên cứu cơ chế uỷ
quyền ở một số nước phát triển cho thấy, cội nguồn, bản chất của hoạt động
tiếp xúc cử tri thể hiện ở quan hệ “ủy quyền” của cử tri cho người đại diện
của họ. Trên thế giới có những mơ hình ủy quyền khác nhau, nhưng tựu
chung thì có hai mơ hình ủy quyền chủ ́u: mơ hình ủy quyền theo lệnh và
mơ hình ủy quyền theo tín thác. Ủy quyền theo lệnh là mơ hình mà ở đó, đại
biểu (nghị sỹ) có thể hành động theo ý kiến của cử tri về từng vấn đề và có thể
bị cử tri bãi miễn trước thời hạn. Ủy quyền theo tín thác là mơ hình mà ở đó
đại biểu (nghị sỹ) có thể đưa ra các quyết định trên cơ sở hiểu biết và sự phán
xét của riêng mình.
Mơ hình phở biến nhất hiện nay được các nước phát triển áp dụng là mơ
hình “ủy quyền theo tín thác” hay còn gọi là “ủy quyền tự do”. Hiến pháp một
số nước quy định rõ việc các nghị sỹ không bị ràng buộc bởi bất kỳ một sự
ràng buộc nào, dù là từ cử tri, đảng chính trị của mình hoặc từ bất cứ một chủ
thể nào khác, như: Điều 27 của Hiến pháp Cộng hòa Pháp quy định: “mọi sự
ủy quyền mang tính áp đặt đối với Nghị sỹ đều vô hiệu” [44, tr.156]; hoặc


8
trong Hiến pháp của một số nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Tây Ban Nha
cũng quy định các nghị sỹ không bị ràng buộc bởi bất kỳ một sự chịu lệnh nào…
Trong bài phát biểu tại Hội thảo về đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của

đại biểu Quốc hội do Ban dân nguyện tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh
ngày 19/3/2009 [17], TS.Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc
hội cho rằng, trên thế giới hiện nay tồn tại hai mơ hình ủy quyền, sau đây:
Trong mơ hình ủy quyền tự do, về ngun tắc, pháp luật các nước không
bắt buộc các nghị sỹ phải tuân thủ các chủ trương, đường lối của đảng chính
trị mà mình là thành viên trong các hoạt động tại nghị viện. Tuy nhiên, các
đảng chính trị có thể khai trừ ra khỏi đảng những nghị sỹ không tuân thủ kỷ
luật của đảng. Trên thực tế, đa số các nước đã xây dựng theo mơ hình này.
Mơ hình ủy quyền tự do có những đặc điểm riêng so với mơ hình ủy
quyền theo lệnh, đó là:
- Động lực để đại biểu tiếp xúc cử tri có hạn chế hơn;
- Đại biểu tiếp xúc để hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri và báo cáo kết
quả đạt được;
- Đại biểu phấn đấu và hoạt động chủ ́u vì lợi ích quốc gia;
- Tính độc lập trong quá trình hoạt động của đại biểu cao hơn.
Khác với mơ hình ủy thác tự do, mơ hình ủy quyền theo lệnh (chịu lệnh)
thể hiện rõ sự ràng buộc trách nhiệm đại diện cử tri của những người đại biểu
(nghị sỹ). Trước đây, mô hình chịu lệnh tồn tại ở hầu hết các nước xã hội chủ
nghĩa. Khái niệm khá phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là
các đại biểu Quốc hội cần phải gắn bó, gần gũi với nhân dân để có thể hiểu
được cặn kẽ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Trong mơ hình ủy quyền theo lệnh cũng có những điểm khác hơn so với
mơ hình ủy quyền tự do, đó là:
- Thể hiện rõ nét hơn về mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa đại biểu
và cử tri, do đó tính dân chủ cũng cao hơn so với mơ hình ủy thác tự do;
- Quyền của cử tri được quan tâm nhiều hơn;


9
- Tiếp xúc cử tri là nhiệm vụ quan trọng của đại biểu và cần phải được

thực hiện nhiều hơn;
- Thể hiện tính ứng nhắc, khn mẫu trong việc thực hiện chức năng của
đại biểu Quốc hội;
- Quyền lực dễ bị thao túng.
Cũng theo nghiên cứu của GS.TS.Nguyễn Đăng Dung thì trên thế giới
“Có hai cách thức hiện nay thể hiện mối quan hệ giữa đại biểu và cử tri: Cách
thứ nhất là “ủy thác” (Trustee) và cách thứ hai là “đại biểu” (Delegate). Trong
mơ hình “Uỷ thác”, Nghị sĩ được xem là có quyền theo đ̉i xét đoán riêng
của mình trong các hoạt động và quyết định tại nghị trường, hành vi bầu cử
của cử tri khi đã bỏ phiếu xong là hàm chứa một sự ủy thác trọn vẹn, người
đại biểu được bầu ra không phải chịu trách nhiệm thể hiện các ý chí của cử tri.
Ý chí này về nguyên tắc đã được chứa đựng trong chương trình hứa hẹn của
ứng cử viên mà cử tri đã lựa chọn. Trong mơ hình “Đại biểu”, các nghị sĩ
được xem là những đại biểu của những người dân đã bầu cho họ, nghĩa là họ
phải hành động theo quan điểm của đảng và của quan điểm đơn vị cử tri của
mình trước khi nghĩ tới cách quyết định riêng của mình. Nếu như trước đây
hầu như các nhà nước đều theo mơ hình ủy thác, thì ngày nay hầu hết các nghị
viện theo mơ hình đại diện “Đại biểu”. Khi đó vấn đề là ở chỗ các nghị sĩ phải
theo đuổi quan điểm và nhu cầu của cử tri hay của đảng mình. Điều này thể
hiện mức độ kỷ cương của đảng” [16]. Trào lưu mới đây xuất hiện tại Nghị
viện Anh theo hướng: Nghị sỹ ngày càng tuân thủ tính đại biểu cho dân chúng
thay vì đại diện cho đảng chính trị mà họ là thành viên khi đứng trước sự lựa
chọn về lợi ích trong một quyết định cụ thể, họ thường đứng về nhân dân và
sẵn sàng chịu kỷ luật của đảng (nếu đi ngược lợi ích của đảng). Trào lưu này
bắt nguồn từ các xu thế vận động của Quốc hội trên thế giới.
Đại biểu Quốc hội - Chủ thể quan trọng trong mối quan hệ giữa nhà
nước và nhân dân.
Trong lịch sử phát triển của xã hội dân chủ văn minh, đại biểu Quốc hội
(nghị sỹ) ln được coi là một nhân vật có uy tín, được nhà nước, xã hội và



10
công dân tôn trọng và giao cho trọng trách thay mặt nhân dân, nói tiếng nói
của dân.
Trên thế giới, tính chất đại diện của cơ quan đại biểu nhân dân đã được
các nhà triết học chính trị đề cập đến từ lâu, nhưng phải đến nửa đầu thế kỷ
thứ XVIII, khi tư tưởng về chế độ đại nghị được hình thành thì cơ quan đại
biểu nhân dân mới trở thành cơ quan đại diện với chức năng lập pháp như
hiện nay. Một trong những nội dung cơ bản của chế độ đại nghị là tư tưởng
đại diện nhân dân, xây dựng hình ảnh của người đại biểu để đại diện cho
quyền lực của nhân dân dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ quan đại diện nhân dân được thiết lập trên cơ sở Hiến pháp.
Với tư cách là văn bản pháp lý cao nhất quy định việc tổ chức quyền lực nhà
nước, Hiến pháp ra đời sau khi giai cấp tư sản giành chính quyền trong cuộc
đấu tranh chống lại nhà nước phong kiến chuyên chế. Mục đích của việc ban
hành Hiến pháp là hạn chế quyền lực vô định của giai cấp phong kiến mà đại
diện là nhà Vua, xây dựng một chế độ chính trị mới theo đó phân định ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để tạo nên sự cân bằng quyền lực; và
bằng cách đó, các quyền cơng dân mới được bảo đảm. Là Luật cơ bản của nhà
nước có hiệu lực pháp lý cao nhất, Hiến pháp bảo đảm cho sự tồn tại và vận
hành ổn định của các thiết chế nhà nước trong đó có Nghị viện.
Thứ hai, nhân dân là người mang chủ quyền (quyền lực tối cao và duy
nhất) uỷ quyền cho Nghị viện thay mặt mình thực hiện quyền lập pháp. Trong
tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Montesquieu cho rằng nhân dân chỉ uỷ
quyền cho Nghị viện thực hiện quyền lập pháp mà thôi. Ông viết:
Trong một nước tự do, mọi người đều được xem như có tâm hồn tự
do, thì phải được tự quản, như vậy, tập đồn dân chúng phải có
quyền lập pháp. Nhưng trong một nước lớn thì khơng thể mỗi công
dân đều làm việc lập pháp. Trong một nước nhỏ, việc này cũng rất
khó khăn, cho nên dân chúng thực hiện quyền lập pháp bằng cách

giao cho các đại biểu của mình làm mọi việc mà cá nhân cơng dân
khơng thể tự mình làm lấy được [28, tr.109-110].


11
Việc uỷ quyền này được thực hiện thông qua cuộc bầu cử thành lập Nghị
viện. Theo quan điểm của các học giả ủng hộ chế độ đại nghị, thành viên của
Nghị viện không đại diện cho cử tri bầu ra họ, mà đại diện cho toàn thể dân
tộc, bởi vậy họ không phụ thuộc vào cử tri và không bị cử tri bãi nhiệm.
Ở nước ta, tổ chức bộ máy Nhà nước nói chung, địa vị pháp lý của đại
biểu Quốc hội nói riêng được xác định trên cơ sở học thuyết Mác - Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Tư tưởng đó được cụ thể
hoá trong các chủ trương, đường lối của Đảng. Tiếp thu một cách sáng tạo học
thuyết Mác-Lênin về những điều hợp lý và không hợp lý trong chế độ đại
nghị, ngay từ khi còn bôn ba ở nước ngồi Bác Hồ đã khẳng định nhân dân
phải có cơ quan đại diện và Hiến pháp của mình. Sau khi Cách mạng tháng
Tám thành cơng, bên cạnh việc đối phó với thù trong giặc ngồi, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Chính phủ lâm thời của nước Việt nam dân chủ cộng hồ đã tở
chức cuộc tởng tủn cử bầu Quốc dân đại hội và soạn thảo bản Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được tiếp tục thể hiện trong các Hiến pháp, trong các cương lĩnh, nghị quyết
của Đảng và trong thực tế cuộc sống.
Ở mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Đảng ta có những phương thức và
giải pháp thực hiện nhiệm vụ cách mạng khác nhau, nhưng về củng cố và phát
huy vai trò của Quốc hội, tạo điều kiện để các đại biểu dân cử thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà
nước luôn luôn là tư tưởng xuyên suốt.
Nghiên cứu qúa trình hình thành và phát triển Quốc hội Việt Nam, có thể
nhận thấy, địa vị pháp lý của Quốc hội nước ta được xác định trên cơ sở các
nguyên tắc sau đây:

- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.


12
- Bầu cử đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được tiến hành theo nguyên tắc phở thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
- Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, ngụn vọng của nhân
dân, khơng chỉ đại diện cho nhân dân ở nơi bầu ra mình mà còn đại diện cho
nhân dân cả nước.
- Đại biểu Quốc hội là người có đủ tiêu chuẩn đức, tài thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực Nhà nước ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Cùng với quá trình phát triển Quốc hội hơn 65 năm qua cho thấy, địa vị
pháp lý của đại biểu Quốc hội nước ta ngày càng được khẳng định, thể chế
hóa trong các Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân thì việc củng cố,
nâng cao địa vị pháp lý của Quốc hội nói chung, của đại biểu Quốc hội nói
riêng ngày càng được coi trọng. Những nội dung đó tiếp tục được khẳng định
trong các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI.
Đại biểu Quốc hội trước hết là đại biểu của nhân dân. Mỗi đại biểu Quốc
hội được bầu ở một đơn vị bầu cử xác định trên cơ sở dân số. Các đại biểu
Quốc hội được bầu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hợp thành
Đoàn đại biểu Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội là những người thay mặt nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc hội, quyền lực đó là thống nhất,
khơng phân chia, nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta - Hiến pháp 1946, đã quy

định: "Nghị viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn thay
mặt cho tồn thể nhân dân" (Điều 25). Tuy với số lượng các Điều không
nhiều nhưng Hiến pháp 1946 đã cơ bản quy định những vấn đề về vai trò, vị
trí, nhiệm vụ và quyền hạn chính của đại biểu Quốc hội, như: quyền tham gia
cùng Quốc hội giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật,
biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài


13
(Điều 23); quyền bất khả xâm phạm của đại biểu... Đồng thời, Hiến pháp
1946 cũng đã có những quy định rất cụ thể nhưng mang ý nghĩa lớn như
"nghị viên khơng bị truy tố vì lời nói hay biểu qút trong nghị viện", "khi
một nghị viên mất quyền ứng cử thì đồng thời mất cả tư cách nghị viên" (Điều
40) hoặc "Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận được đề
nghị của một phần tư tổng số cử tri của tỉnh hay thành phố đã bầu ra nghị viên
đó. Nếu hai phần ba tởng số nghị viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị
viên đó phải từ chức” (Điều 41).
Đến Hiến pháp năm 1959 chỉ quy định một số điều cơ bản về địa vị pháp lý
của đại biểu Quốc hội, như việc bầu cử và bãi miễn đại biểu Quốc hội (Điều 5);
quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội (Điều 59) và quyền bất khả xâm phạm của
đại biểu Quốc hội (Điều 60). Nhưng phải đến Luật tổ chức Quốc hội năm 1960
mới có quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội.
Hiến pháp 1980 đã có một bước tiến quan trọng trong việc quy định địa
vị pháp lý của đại biểu Quốc hội. Đó là những quy định về việc bầu cử và bãi
miễn đại biểu (Điều 7); trách nhiệm của đại biểu phải liên hệ chặt chẽ và chịu
sự giám sát của cử tri (Điều 94); quyền chất vấn (Điều 95); quyền kiến nghị
với cơ quan Nhà nước (Điều 96); quyền không bị bắt giam, truy tố nếu khơng
có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền (Điều 96). Đặc biệt là trong Hiến
pháp 1980 đã có quy định: "Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều
kiện thuận lợi để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu". Để cụ thể hoá các

quy định trong Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Quốc hội năm 1981 đã có
những quy định về địa vị pháp lý, về quyền hạn, nhiệm vụ của đại biểu Quốc
hội. Hội đồng Nhà nước cũng đã ban hành Quy chế đại biểu Quốc hội.
Quy định về địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội ngày càng được hoàn
thiện hơn trong quá trình xây dựng, ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm
1992, trong đó khẳng định: đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu ra
mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước; đại biểu phải liên hệ chặt chẽ


14
với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, phổ biến vận động nhân dân thực hiện
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 97); quyền chất vấn; quyền
yêu cầu cơ quan, tổ chức trả lời (Điều 98); quyền khơng bị bắt giam, truy tố
nếu khơng có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền (Điều 99); quyền được
cung cấp tài liệu; quyền được tạo điều kiện và kinh phí (Điều 100). Luật tở chức
Quốc hội cũng đã có một chương riêng quy định về đại biểu Quốc hội. Quốc hội
đã thông qua Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc
hội. Ngoài ra, nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội cũng được quy định
trong một số văn bản pháp luật khác như Luật hoạt động giám sát của Quốc hội,
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật khiếu nại, tố cáo ...
Có thể thấy rằng, địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội rất đặc biệt, vừa là
người đại diện cho nhân dân đồng thời là hạt nhân cấu thành nên cơ quan
quyền lực nhà nước; vừa chịu trách nhiệm trước nhân dân vừa chịu trách
nhiệm trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội đóng vai trò kép, vừa là công bộc,
vừa là người chủ (đại diện). Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
- Là công bộc, đại biểu phải thu thập, phản ảnh trung thực ý chí, nguyện
vọng vủa nhân dân; chịu sự giám sát của nhân dân, trường hợp khơng hồn
thành vai trò đại diện và không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân,
thì sẽ bị nhân dân bãi miễn.

- Là người chủ (đại diện), đại biểu có quyền độc lập trong việc biến ý
chí, nguyện vọng của nhân dân thành quyết định của Quốc hội thông qua biểu
qút thể hiện chính kiến của mình: tán thành, khơng tán thành hoặc không
biểu quyết.
Thực tiễn cũng đã cho thấy, đại biểu Quốc hội có địa vị pháp lý rất đặc
biệt. Là người do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân
nên đại biểu Quốc hội có những nhiệm vụ nhất định đối với nhân dân, đồng
thời là cầu nối để nhân dân có thể thực hiện quyền tham gia các hoạt động
quản lý nhà nước. Muốn làm được điều đó thì đại biểu Quốc hội phải thường
xuyên liên hệ, tiếp xúc với cử tri. Đây là công việc Hiến định và thông qua


15
đó, đại biểu Quốc hội lắng nghe, thu thập, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của
cử tri đến Quốc hội và các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, đồng thời thực
hiện nhiệm vụ báo cáo với cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình và của
Quốc hội.
Mối quan hệ của đại biểu Quốc hội với nhân dân
Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội đã
quy định đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp,
pháp luật, có lối sống lành mạnh, tơn trọng các quy tắc sinh hoạt cơng cộng,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, góp phần phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp dân, khi nhận được
đơn kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cơng dân, đại biểu Quốc hội có trách
nhiện nghiên cứu, xem xét và chuyển đến cơ quan có trách nhiệm xem xét,
giải quyết theo thẩm quyền, đồng thời đôn đốc, theo dõi việc giải quyết và trả
lời cho cơng dân biết kết quả. Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tuyên truyền
phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản
lý nhà nước. Quy chế cũng xác định trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với cử
tri, đó là đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trước cử tri, đồng thời chịu trách

nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Đại biểu Quốc
hội chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri để nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến
nghị của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Ngoài ra,
mỗi năm một lần, kết hợp với việc tiếp xúc với cử tri trước kỳ họp cuối năm
của Quốc hội, đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ
đại biểu của mình, cử tri có thể trực tiếp hoặc thơng qua Mặt trận Tổ quốc yêu
cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm
vụ của đại biểu Quốc hội.
Mối quan hệ của đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức, đơn vị và
với nhân dân có ý nghĩa quan trọng quyết định đến hiệu quả và chất lượng
hoạt động của đại biểu Quốc hội. Thực tế những năm qua đã cho thấy, các


16
mối quan hệ của đại biểu Quốc hội, nhất là mối quan hệ với nhân dân ngày
càng được củng cố, tăng cường và đã phát huy được tác dụng trong thực tiễn
hoạt động.
Ngoài các mối quan hệ trên, đại biểu Quốc hội thường xuyên giữ mối
quan hệ với các cơ quan, đoàn thể ở địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ
tuyên truyền phổ biến pháp luật. Trên cơ sở nắm bắt tâm tư nguyện vọng kiến
nghị của cử tri, đại biểu Quốc hội tham gia các hoạt động như: giám sát việc thi
hành pháp luật; xem xét, xử lý các đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Cùng với quá trình xây dựng, kiện tồn tở chức bộ máy nhà nước và sửa
đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội ngày
càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm; xác định ngày càng rõ địa vị pháp
lý, chức năng, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội. Các quyền và nghĩa vụ của
đại biểu Quốc hội nước ta được quy định ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn
trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu
Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội ... Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi

cho đại biểu Quốc hội thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực trong Quốc hội
- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, như về lập pháp, giám sát tối cao và
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời, đó cũng là cơ sở
pháp lý để nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước nhân dân cả
nước. Những vấn đề nêu trên được minh chứng sinh động trong quá trình phát
triển chế độ dân chủ ở nước ta. Đại biểu Quốc hội ngày càng giữ vị trí quan
trọng trong hệ thống chính trị, trở thành một mắt xích quan trọng trong bộ
máy nhà nước nói chung, của Quốc hội nói riêng, nhất là quá trình vận hành
Bộ máy nhà nước trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Cử tri - người ủy quyền cho đại biểu Quốc hội và cũng là người mà đại
biểu Quốc hội hướng tới để thực hiện trách nhiệm đại diện của mình.
Trong nhiều văn bản pháp luật, từ Hiến pháp đến các đạo luật, các văn
bản hướng dẫn thi hành trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã ghi nhận


17
và quy định khá cụ thế mối quan hệ trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với cử
tri. Tại Điều 97 trong Hiến pháp 1992 ghi rõ đại biểu Quốc hội là người đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở
đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Ðại biểu Quốc
hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và
phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ
quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về
hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của
cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó. Tại điều 51 Luật
tở chức Quốc hội cũng quy định: "Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với
cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu
tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến

nghị của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan". Tuy nhiên,
“cử tri” trong hoạt động tiếp xúc của đại biểu Quốc hội là ai? gồm những
người như thế nào? Câu hỏi đó đến nay chưa được làm sáng tỏ để quy định cụ
thể, rõ ràng, thầy đủ.
Theo cách hiểu thơng thường thì cử tri được hiểu là người có quyền đi
bỏ phiếu để bầu ra người đại diện trong cơ quan đại biểu của mình. Tuy nhiên,
vấn đề cử tri là ai? cả ở phương diện lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều quan
niệm và tranh luận khác nhau về vấn đề này.
Dưới góc độ pháp lý thì cử tri là thành phần được quy định tại Nghị
quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày
10/9/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn chủ tịch Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành hướng dẫn việc tiếp xúc cử tri của
đại biểu Quốc hội đã quy định tại Điều 5 như sau:
“- Đại diện cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và các cơ
quan, tổ chức, đơn vị hữu quan ở mỗi cấp.


18
- Cử tri trực tiếp làm việc, học tập tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các
cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.
- Cử tri thơn, bn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tở dân phố”.
Đây là quy định chung cho tất cả các hình thức tiếp xúc cử tri chứ không
phải bất kỳ cuộc tiếp xúc nào cũng phải đủ ba loại thành phần như trên. Thực tế
cho thấy, cơ cấu, số lượng, tỷ lệ thành phần trong các cuộc tiếp xúc cử tri muôn
màu, muôn vẻ phụ thuộc vào khả năng vận dụng các quy định về tiếp xúc cử tri và
trình độ của người tổ chức hội nghị. Tuy nhiên, từ các nghiên cứu về khái niệm
“cử tri” trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội cho thấy vẫn chưa
có sự thống nhất cả ở phương diện lý luận và pháp luật về khái niệm “cử tri”.
Quan niệm thứ nhất cho rằng, cử tri trong hoạt động tiếp xúc cử tri của

đại biểu Quốc hội là người có quyền bầu cử. Cơng dân nước Cộng hồ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám
tuổi trở lên đều có quyền bầu cử. Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách ở
một nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Quan niệm này xuất phát từ các quy
định tại Điều 2 và 22, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội . Nói cách khác, quan
niệm trên đây về cử tri được nghiên cứu, xem xét ở khía cạnh của những cơng
dân có đủ điều kiện về pháp luật để có thể thực hiện một hành vi “ủy quyền
chính trị” thơng qua việc bỏ phiếu trong cuộc bầu cử.
Quan niệm thứ hai cho rằng, cử tri là tất cả các tầng lớp nhân dân. Quan
niệm này đồng nhất khái niệm “cử tri” và khái niệm “nhân dân”.
Khác với các quan niệm trên, quan niệm thứ ba cho rằng, cử tri là các
công dân Việt Nam trong mối quan hệ quyền và trách nhiệm với đại biểu
Quốc hội. Đó là tất cả các cơng dân mà đại biểu Quốc hội đã và đang thực
hiện quyền đại diện cho tiếng nói, lợi ích của họ trong qúa trình thực hiện
nhiệm vụ đại biểu.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà
Nẵng xuất bản năm 2004 thì “cử tri là người có quyền bỏ phiếu trong cuộc
bầu cử các cơ quan quyền lực nhà nước” [45].


19
Quan niệm về cử tri trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc
hội cũng rất phong phú. Mỗi quan niệm đều thể hiện ở góc nhìn riêng. Trong
quan niệm thứ nhất có điểm trùng với định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt và
quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, quan niệm này mới
chỉ xét ở khía cạnh mối quan hệ một chiều, tức là chỉ đề cập ở phương diện
người thực hiện sự ủy quyền cho người đại diện thông qua cuộc bầu cử. Trong
mối quan hệ này, cử tri giữ vai trò chủ động, còn đại biểu là người mà cử tri lựa
chọn, bầu ra thông qua các nguyên tắc về bầu cử. Cử tri được xác định là những

người có đủ năng lực trách nhiệm thực hiện việc bỏ phiếu để bầu ra người đại
biểu của mình và lập ra cơ quan đại biểu, cơ quan quyền lực nhà nước.
Quan niệm thứ hai lại không phản ánh một cách cụ thể về đặc điểm, bản
chất, mối quan hệ giữa cử tri và đại biểu Quốc hội. Quan niệm này cũng có
thể dẫn đến sự đồng nhất giữa hai khái niệm “cử tri” và “nhân dân”.
So với quan niệm thứ nhất và quan niệm thứ hai thì trong quan niệm thứ
ba có lẽ đã giải quyết được tốt hơn việc định nghĩa về cử tri. Như chúng ta đã
biết, cử tri và đại biểu Quốc hội luôn là hai chủ thể cùng tồn tại trong mối
quan hệ nhất định. Quan hệ đó khơng bị giới hạn bởi các chủ thể thực hiện
việc bỏ phiếu để bầu ra đại biểu mà còn thể hiện ở mối quan hệ đại diện
chung cho tất cả công dân ở đơn vị bầu cử cũng như nhân dân cả nước. Cử tri
tồn tại trong mối quan hệ với đại biểu và luôn được xác định như vậy chừng
nào tồn tại cả hai chủ thể ấy. Từ góc nhìn vậy, quan niệm “cử tri” là ai? khơng
thể xác định được nếu chúng ta quan niệm trong sự tách rời mối quan hệ với
đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội do cử tri bầu ra, đồng thời cử tri cũng là
đối tượng mà đại biểu hướng tới. Sau khi được bầu ra, đại biểu Quốc hội trở
thành người đại biểu của cử tri và thực hiện nhiệm vụ đại diện cho cử tri.
Trong quan niệm thứ ba, cử tri khơng chỉ là những cơng dân có đủ năng lực
được xác định trong cuộc bầu cử mà hơn thế nữa, cử tri với tư cách là công
dân của Nhà nước, cần được đại biểu Quốc hội quan tâm, hướng tới để thực
hiện chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của họ.


20
Trên thực tế, “cử tri”mà đại biểu Quốc hội đại diện không chỉ là những
người đã trực tiếp bầu ra mình tại cuộc cử mà hơn thế nữa, đó là toàn thể nhân
dân, mà cụ thể là bao gồm tất cả các công dân Việt Nam trong mối quan hệ
trách nhiệm qua lại với đại biểu Quốc hội.
Từ những quan niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy ở quan niệm thứ ba
về cử tri có lẽ đã thể hiện rõ hơn về đối tượng trong mối quan hệ trách nhiệm

giữa người ủy quyền với người được ủy quyền, giữa cử tri và đại biểu Quốc
hội - người không chỉ đại biểu cho cử tri đã trực tiếp bầu ra mình mà còn đại
diện cho tiếng nói, tâm tư, ngụn vọng và lợi ích của nhân dân cả nước. Ở
góc độ nào đó, chúng ta cũng có thể hiểu rằng cử tri mà đại biểu Quốc hội
hướng tới chính là các tầng lớp nhân dân, chính là nhân dân vậy.
Quan niệm về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội cũng
nhiều ý kiến khác nhau.
Theo quan niệm phổ thông, tiếp xúc giữa con người với con người là gặp
gỡ nhau làm hình thành mối quan hệ giữa những người đó. Tiếp xúc cử tri
theo cách hiểu thơng thường là gặp gỡ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Theo
quy định của pháp luật nước ta thì nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội
rất lớn. Tiếp xúc cử tri chỉ là một trong các hoạt động để đại biểu Quốc hội
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được pháp luật quy định.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà
Nẵng xuất bản năm 2004 thì khái niệm “tiếp xúc” được hiểu ở ba khía cạnh
sau đây:
Tiếp xúc là: “chạm vào nhau và gây nên tác dụng”.
Tiếp xúc là: “thường xuyên có sự đụng chạm hoặc ở gần đến mức có thể
trực tiếp chịu tác động khơng hay”.
Tiếp xúc là: “gặp gỡ để tạo quan hệ”.
Hoạt động tiếp xúc cử tri là một khái niệm pháp lý chỉ hoạt động cụ thể
của đại biểu Quốc hội trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Hoạt động
này thể hiện “trách nhiệm” của đại biểu Quốc hội hướng tới cử tri, gặp gỡ,


21
tiếp xúc với cử tri; giữ mối liên hệ với cử tri ... để lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng, thu thập, phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri đến các cơ quan nhà
nước có trách nhiệm.
Pháp luật hiện hành chưa đưa ra khái niệm cụ thể về hoạt động tiếp xúc

cử tri của đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, hoạt động
tiếp xúc cử tri có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đây là hoạt động do đại biểu Quốc hội thực hiện
Thứ hai, mục đích của hoạt động này là nhằm hướng tới cử tri, tiếp xúc,
trao đổi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh ý kiến,
kiến nghị của cử tri đến các cơ quan công quyền trong bộ máy Nhà nước.
Thứ ba, hoạt động tiếp xúc cử tri được thực hiện từ hai phía: đại biểu và
cử tri
Thứ tư, là hoạt động thể hiện mối quan hệ trách nhiệm về chính trị, pháp
lý của đại biểu đối với cử tri.
Thứ năm, hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu được thực hiện bằng
những hình thức nhất định.
Khác với hoạt động tiếp xúc thông thường, tiếp xúc cử tri của đại biểu
Quốc hội là hoạt động chính trị - pháp lý, do đại biểu Quốc hội thực hiện.
Việc thực hiện tiếp xúc cử tri là góp phần mở rộng và phát huy dân chủ; qua
đó, đại biểu Quốc hội hiểu được đời sống và mong muốn của nhân dân, nắm
bắt và phản ánh hơi thở của nhân dân vào trong quá trình hoạch định chính
sách, pháp luật của nhà nước.
Như vậy, có thể khái quát rằng, tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội là
hoạt động của đại biểu Quốc hội, dưới những hình thức nhất định, nhằm
hướng tới cử tri để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và thu thập, phản ánh kiến
nghị của cử tri tại diễn đàn của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; đồng
thời, là hoạt động thể hiện mối quan hệ trách nhiệm chính trị - pháp lý giữa
đại biểu Quốc hội với cử tri.
Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội có vai trị hết sức quan
trọng trong q trình thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu dân cử. Với vai


22
trò đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, Quốc hội, các cơ quan

của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội luôn nỗ lực
trong việc giữ mối liên hệ thường xuyên; thu thập, xử lý, phản ánh yêu cầu cơ
quan có trách nhiệm giải quyết các kiến nghị của cử tri. Những yêu cầu chính
đáng của nhân dân về phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện điều kiện sống, đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã được Quốc hội đặc biệt quan
tâm xem xét. Thực tế đã cho thấy, hàng năm có hàng ngàn ý kiến, kiến nghị
của cử tri được đại biểu Quốc hội thu thập, phản ánh đến cơ quan, tở chức có
trách nhiệm, trong đó có trên dưới 2.000 kiến nghị được gửi đến Ủy ban
thường vụ Quốc hội để nghiên cứu, xử lý theo quy định của pháp luật. Ý kiến
của cử tri đã trở thành kênh thông tin quan trọng không thể thiếu được trong
quá trình Quốc hội thực thi nhiệm vụ.
Qua hoạt động tiếp xúc cử tri, đại biểu Quốc hội đã tiếp xúc để lĩnh hội ý
kiến, kiến nghị của cử tri và kịp thời báo cáo với cử tri về kết quả hoạt động
của Quốc hội; đồng thời, góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến cử
tri. Việc tăng thời lượng, tăng số lượng các vấn đề được đưa ra kỳ họp để thảo
luận, xem xét có truyền hình trực tiếp, đặc biệt là phần chất vấn và trả lời chất
vấn đã góp phần làm cho thơng tin từ các diễn đàn Quốc hội đến với người
dân nhiều hơn, nhanh hơn, làm cho nhân dân hiểu biết hơn về đại biểu, về cơ
quan đại diện của mình và từ đó làm tăng niềm tin đối với Quốc hội.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
Thực tiễn cho thấy, tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội là loại hình hoạt
động của đời sống xã hội, nó bao gồm những hoạt động cụ thể của đại biểu
Quốc hội nhằm hướng tới cử tri để lắng nghe, thu thập và phản ánh ý kiến,
kiến nghị của cử tri.v.v. Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải quy định địa vị pháp
lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các chủ thể trong
hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Để bảo đảo có sở pháp lý cho
các hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong thực tiễn, Nhà nước
đã ban hành các quy định pháp luật nhằm xác lập cơ sở pháp lý về một số vấn



23
đề như: trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong tiếp xúc cử tri, quyền và
trách nhiệm của cử tri, trách hiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ
chức, phục vụ hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và trong việc
giải quyết các kiến nghị của cử tri do đại biểu Quốc hội yêu cầu…Có thể nói,
pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội điều chỉnh các vấn đề sau:
- Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong hoạt động tiếp xúc với cử tri,
thể hiện ở việc đại biểu cần phải thực hiện việc tiếp xúc, liên hệ với cử tri để
nắm bắt tâm tư nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh kiến nghị của cử
tri; chuyển kiến nghị của cử tri đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để giải
qút, đơn đốc, giám sát việc giải quyết kiến nghị và trả lời cử tri về kết quả
giải quyết kiến nghị; báo cáo cử tri về kết quả hoạt động đại biểu và chương
trình hành động đã hứa với cử tri trong cuộc vận động bầu cử. Đây vừa là
trách nhiệm chính trị, vừa là trách nhiệm pháp lý của đại biểu Quốc hội đối
với cử tri.
- Quyền và trách nhiệm của cử tri trong việc tiếp xúc với đại biểu Quốc
hội được thể hiện khi cử tri tham gia các cuộc tiếp xúc với đại biểu Quốc hội,
kiến nghị những vấn đề mà mình quan tâm với đại biểu Quốc hội.
- Trách nhiệm của cơ quan tổ chức hữu quan trong hoạt động tiếp xúc cử
tri, như về tổ chức để đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri; tập hợp, tổng hợp kiến
nghị của cử tri; đôn đốc, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri; tham
mưu, phục vụ đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri
- Mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, các cơ
quan hữu quan và cơ quan phục vụ đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.
Từ những phân tích trên có thể đi tới khái niệm pháp luật về tiếp xúc cử tri
của đại biểu Quốc hội như sau:
Pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội là tổng thể các quy
phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại
biểu Quốc hội.



24
1.1.3. Đặc điểm pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
Qua tập hợp, nghiên cứu có tính hệ thống các văn bản pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ của Quốc hội nói chung, của đại biểu Quốc hội nói riêng cho
thấy, các quy định pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội không
được xây dựng thành một văn bản pháp luật riêng mà các quy định này của
pháp luật được xây dựng rải rác ở các văn bản khác nhau trong hệ thống pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, như từ Hiến pháp đến các luật,
nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị
quyết liên tịch… Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về tiếp xúc cử tri của
đại biểu Quốc hội là một bộ phận cấu thành của chế định pháp luật về Quốc
hội và đại biểu Quốc hội. Các quy định này là một bộ phận thống nhất trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Pháp luật về tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc
hội có những đặc điểm chung của hệ thống pháp luật Việt Nam như:
- Mang tính quy phạm, chứa đựng những quy tắc xử sự của con người,
đó là những chuẩn mực để đánh giá tính hợp pháp hay khơng hợp pháp trong
hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội;
- Các quy tắc xử sự trong tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội cũng có
tính bắt buộc chung,
- Thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động, thể chế hoá
đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoạt động tiếp xúc cử tri.
Cũng như các quy phạm pháp luật khác, là một bộ phận trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, nên pháp luật về tiếp xúc cử tri cũng có những đặc trưng
riêng, khác biệt so với các lĩnh vực pháp luật khác như: pháp luật về khiếu
nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp dân sự... Đặc trưng của pháp luật về tiếp xúc
cử tri của đại biểu Quốc hội bị quy định bởi đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh riêng và thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, pháp luật về tiếp xúc cử tri điều chỉnh các quan hệ xã hội phát

sinh trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Đó là các quy định
điều chỉnh mối quan hệ trách nhiệm giữa đại biểu Quốc hội với cử tri trong


25
quá trình tiếp xúc, thu thập và phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri; điều
chỉnh mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; điều
chỉnh mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Hai là, pháp luật về tiếp xúc cử tri quy định trình tự, thủ tục, hình thức,
nội dung, cách thức tiến hành hoạt động tiếp xúc cử tri của địa biểu Quốc hội;
Ba là, pháp luật về tiếp xúc cử tri quy định trách nhiệm của đại biểu
Quốc hội trong việc tập hợp, chuyển các kiến nghị của cử tri; yêu cầu các cơ
quan, tở chức có trách nhiệm trong việc giải qút kiến nghị và trả lời cử tri.
Bốn là, pháp luật về tiếp xúc cử tri quy định trách nhiệm của đại biểu
Quốc hội trong việc theo dõi, đôn đốc các cơ quan có trách nhiệm giải quyết
kiến nghị của cử tri; báo cáo kết quả hoạt động và thực hiện chương trình
hành động đã hứa trước cử tri trong cuộc vận động bầu cử.
Năm là, pháp luật về tiếp xúc cử tri quy định trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức hữu quan trong việc tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội tiếp xúc
cử tri; nghiên cứu, giải quyết những kiến nghị của cử tri do đại biểu Quốc hội
chuyển đến; giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri.
1.2. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT; YÊU CẦU VÀ TIÊU CHÍ HỒN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

1.2.1. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động tiếp xúc cử tri của đại
biểu Quốc hội
1.2.1.1. Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động
tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về tiếp xúc
cử tri có các vai trò của pháp luật nói chung, ngồi ra do có đối tượng điều chỉnh

riêng, có nhiệm vụ riêng, nên pháp luật về tiếp xúc cử tri cũng có những vai trò
riêng như: Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động tiếp xúc
cử tri của đại biểu Quốc hội; xác lập cơ sở pháp lý về hoạt động tiếp xúc cử tri
của đại biểu Quốc hội cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan
trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội; tạo cơ sở pháp lý để cử tri


×