Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

văn hóa học đường trong các trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh tuyên quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.37 MB, 132 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CH MINH

trần thị thủy

văn hóa học đờng
trong các trờng phổ thông dân tộc nội trú
tỉnh tuyên quang hiện nay
Chuyờn ngnh

: Văn hóa học

Mã số

: 60 31 70

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HĨA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lª trung kiªn

HÀ NỘI - 2011


LêI CAM §OAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố
trong bất cứ cơng trình nào.

Tác gi


Trần Thị Thủy


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA HỌC ĐƯỜNG ĐỐI VỚI CÁC
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH
TUYÊN QUANG

1.1. Quan niệm về văn hoá học đường
1.2. Khái quát về các trường phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh
Tun Quang
1.3. Vai trị của văn hố học đường đối với các trường phổ thông
dân tộc nội trú tỉnh Tuyên Quang

9
9
32
40

Chương 2: VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG TRONG CÁC TRƯỜNG PHỔ
THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH TUYÊN QUANG

46

2.1. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội, văn hoá của tỉnh

Tuyên Quang
2.2. Thực trạng văn hoá học đường trong các trường phổ thông dân
tộc nội trú của tỉnh Tuyên Quang hiện nay

46
54

Chương 3: GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG VĂN HÓA HỌC
ĐƯỜNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TRONG
CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TỈNH
TUYÊN QUANG

89

3.1. Phương hướng xây dựng văn hoá học đường trong các trường
phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Tuyên Quang
3.2. Các giải pháp xây dựng, củng cố và hoàn thiện văn hố học
đường ở các trường phổ thơng dân tộc nội trú tỉnh Tuyên Quang
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

89
91
111
114
119



Trang
Bảng 1.1: Thống kê học sinh dân tộc thiểu số bậc tiểu học đầu năm học
2010-2011
Bảng 1.2: Thống kê học sinh dân tộc thiểu số bậc THCS đầu năm học

32

2010-2011
Bảng 1.3: Khái quát chung về các trường PTDTNT của Tuyên Quang

33
37


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa có vai trị rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách của con người, góp phần phát triển xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội"..
Văn hố ln đi liền với giáo dục, giáo dục đi liền với văn hoá. Cả hai
đều là sản phẩm đặc thù của loài người, chỉ có lồi người mới có. Lênin đã
khẳng định: giáo dục là “phạm trù vĩnh hằng” - tồn tại mãi mãi cùng loài
người: thế hệ trước phải truyền cho thế hệ sau các kinh nghiệm lịch sử - xã
hội, tạo nên tiến hố khơng ngừng của lồi người. Giáo dục (bao gồm cả đào
tạo) được coi là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định sự trường tồn của quốc
gia - dân tộc. Ở nước ta, trong Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1991 ghi rõ: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Có lẽ ai cũng biết bản chất (tính

người, tình người, năng lực, nhân cách…) của con người được hình thành,
phát triển từ ngồi xã hội vào - được xã hội hoá, nhập tâm vào não bộ, lĩnh
hội, biểu hiện ra hành vi, hành động, hoạt động. Đứa trẻ từ bào thai chào đời
như một sinh thể muốn thành người phải đắm mình vào quá trình giáo dục
(theo nghĩa rộng của từ này).
Xã hội của chúng ta đang vận động để thiết lập nên cấu trúc và hệ giá trị
mới theo hướng hiện đại, văn minh. Nền văn hoá của chúng ta cũng đang vận
động theo định hướng “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Theo đó, mơ hình
nhân cách tương ứng của xã hội, của nền văn hoá mới cũng đang được thiết lập,
cả trong lý thuyết và thực tiễn. Bởi vậy, môi trường nhà trường, văn hố học
đường ngày càng có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết trong chức năng đào tạo
nguồn nhân lực cho sự phát triển, đặc biệt là tạo lập nên mơ hình nhân cách để
đáp ứng được vai trị là chủ nhân của xã hội mới, nền văn hoá mới.


2
Nhân loại đang bước vào thế kỷ thứ XXI với xu hướng hội nhập quốc tế,
đang mở ra khơng ít những triển vọng phát triển giáo dục cho các quốc gia và
cho các nhà trường. Đồng thời, cũng đặt ra những thách thức to lớn đối với việc
giữ gìn, phát triển văn hóa nói chung và văn hóa học đường nói riêng. Nghiên
cứu về văn hóa học đường cũng chính là nghiên cứu một hệ thống giá trị và
chuẩn mực giá trị đặc thù, được con người tích luỹ trong q trình tích hợp các
hoạt động sáng tạo văn hóa, giáo dục và khoa học. Hệ giá trị văn hóa học đường
được biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và các quan hệ ứng xử văn hóa giữa
những người trong một mơi trường giáo dục, có tác động chi phối nhiều chiều đến
mọi hoạt động và đời sống tâm lý của chính những con người sống trong mơi
trường đó: ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục trong nhà
trường theo hướng phát triển con người toàn diện; ảnh hưởng rõ rệt cách suy nghĩ,
cảm nhận và hành động của mỗi thành viên trong nhà trường, do đó có thể nâng
cao hoặc cản trở động cơ, kết quả dạy - học của giáo viên và học sinh…

Văn hoá học đường (VHHĐ) thể hiện ở mọi góc độ nhà trường, bao gồm
từ phong cách ngơn ngữ của giáo viên và học sinh, cách bài trí lớp học như thế
nào…cũng như thái độ quan tâm của họ đối với những nội dung chương trình và
phương pháp giáo dục, đến những định hướng giá trị nhân cách của học sinh (và
cả của giáo viên) trước những thay đổi của cuộc sống xã hội hiện đại. Nói
chung, VHHĐ lành mạnh sẽ giảm bớt được xung đột và tăng tính ổn định xã hội.
Đúng như Donahoe (1997) chỉ ra rằng: “Nếu văn hố thay đổi thì mọi thứ sẽ
thay đổi”. Thế nhưng, vấn đề VHHĐ và tìm kiếm các biện pháp quản lý sự hình
thành và phát triển VHHĐ hiện nay vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức,
mặc dù muốn hay không muốn, những yếu tố tiêu cực từ mơi trường văn hóa
học đường tự phát đang hàng ngày, hàng giờ tác động rất sâu sắc đến quá trình
giáo dục - đào tạo trong các nhà trường, đến học sinh - thế hệ tương lai của đất
nước.


3
Văn hoá học đường là những giá trị được xác lập trong quá trình hoạt
động phong phú của nhà trường, chủ yếu nhất là dạy và học. Chủ thể của văn
hố học đường là nhà giáo và học trị. Mơi trường nhà trường - văn hố học
đường, mơi trường gia đình - văn hố gia đình, mơi trường xã hội - văn hố cộng
đồng là ba trụ cột có mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau để hình
thành nhân cách văn hố cho các thế hệ trẻ. Nếu một trong ba trụ cột đó bị lung
lay thì nhất định sẽ ảnh hưởng, hoặc ít hoặc nhiều, đến mơ hình nhân cách của
thế hệ trẻ.
Văn hố học đường có vị trí hàng đầu trong q trình hình thành nhân
cách văn hoá cho các thế hệ người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Trong
xã hội hiện đại ngày nay, khi mà tri thức ngày càng trở nên quan trọng hơn, thì
mơi trường nhà trường - văn hố học đường ngày càng chiếm giữ ưu thế, có ý
nghĩa quyết định nhất đối với tương lai phát triển của xã hội.
Những thành tựu và tính ưu việt trong việc xây dựng nhân cách văn hoá

của nền giáo dục, của hệ thống nhà trường, của mơi trường văn hố học đường là
điều đã được khẳng định. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, trong bối cảnh
khủng hoảng của nền giáo dục hiện nay, mơi trường văn hố học đường cũng
đang có những biểu hiện khơng bình thường, nếu khơng nói là đã ít nhiều bị các
thế lực phản văn hố tấn cơng, tạo nên các khoảng trống, làm cho một số bộ
phận, một số mặt bị xuống cấp, sa sút. Đó là sự tụt hậu, sự khập khiễng của
chương trình giáo dục, sự khơng minh bạch, gian dối trong trong việc dạy, học
và thi cử, là nạn bạo lực trong nhà trường, là sự sa sút, sa ngã nhân phẩm của
một số nhà giáo và học trò…
Những biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo như sự
xuống cấp của mơi trường sư phạm, sự tha hóa của một số người thầy, việc
coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ mơn chính trị, khoa học xã hội
và nhân văn, sự thiếu thốn điều kiện tham gia và các phương tiện hưởng thụ
văn hoá… đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả giáo dục và sự hoàn thiện


4
nhân cách cho học sinh. Sự sa sút đáng báo động của văn hố học đường khơng
chỉ xuất phát từ thầy và trị mà là trách nhiệm của tồn xã hội. Tổ chức điều
chỉnh lại khơng gian văn hố học đường để từ trong đó hình thành nên được các
giá trị, mà quan trọng nhất, và quyết định nhất là mơ hình nhân cách văn hố đáp
ứng được u cầu của sự phát triển trong thời đại mới là công việc bức thiết, có
ý nghĩa cơ bản và lâu dài. Để đất nước có thể tồn tại và phát triển một cách
nhanh chóng và bền vững, nhất thiết các cấp, các ngành, các địa phương, đoàn
thể và toàn xã hội, trước hết là ngành giáo dục và ngành văn hoá cần phải làm gì
để có chiến lược cải tạo và phát triển mơi trường văn hố học đường phù hợp.
Mặc dầu vậy, đây lại là lĩnh vực khá mới mẻ, chưa được quan tâm nhiều
trong hoạt động nghiên cứu khoa học, cũng như trong hoạt động thực tiễn xây
dựng VHHĐ trong các trường học. Rất nhiều vấn đề cơ bản về VHHĐ cần được
nhận thức và giải quyết thấu đáo. Khái niệm, bản chất, cấu trúc, nội dung... của

VHHĐ là gì? Thực trạng VHHĐ hiện nay ra sao? Các quan điểm cơ bản và giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của VHHĐ để bảo đảm cho
việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong các nhà trường, đồng thời
góp phần phát huy, bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc trong q trình xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vv... đang
là vấn đề khó khăn, phức tạp, địi hỏi phải giải đáp đầy đủ cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn.
Đặc biệt, đối với các trường phổ thông dân tộc nội trú, là một loại hình
trường chuyên biệt dành riêng cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số, chủ
yếu ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, những địa bàn kinh tế cịn khó khăn, giáo
dục cịn chậm phát triển, với mục tiêu tạo nguồn đào tạo cán bộ người dân tộc
cho các huyện miền núi. Với đặc điểm học sinh của nhà trường 100% là con em
đồng bào dân tộc thiểu số, do đó có khơng ít em vẫn mang theo nhiều thói quen
tập tục lạc hậu, chất lượng văn hoá thấp kém. Các em vào các trường này từ học
tập đến ăn, ở sinh hoạt đều khép kín trong khuôn viên của nhà trường. Mọi hoạt


5
động của từng cá nhân và tập thể đều được sự theo dõi, hướng dẫn quản lý, của
cán bộ, giáo viên nhà trường. Do vậy nhà trường không chỉ là cái nơi để các em
học tập mà cịn là mơi trường sống, sinh hoạt, hình thành và bộc lộ nhân cách
“người”. Chính vì vậy, văn hóa học đường trong các Trường Phổ thông Dân tộc
Nội trú càng là vấn đề mới mẻ địi hỏi phải giải đáp.
Xuất phát từ tình hình đó, tơi chọn đề tài: "Văn hóa học đường trong các
Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Tuyên Quang hiện nay” làm đề tài
luận văn thạc sỹ của mình. Mong muốn của bản thân khơng chỉ góp phần bổ sung
về mặt lý luận, mà còn trực tiếp hơn hình thành những luận cứ khoa học để tiếp
tục nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn xây dựng văn hóa học đường trong các
trường học nói chung và các trường phổ thơng dân tộc nội trú nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu

Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống học đường đang làm cho gia
đình, nhà trường và tồn xã hội lo lắng. Những năm gần đây, có một số cuộc
hội thảo bàn về vấn đề VHHĐ như: Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là
Ban Tuyên giáo Trung ương) đã phối hợp với Vụ Đào tạo, Cục Văn hố - Thơng
tin cơ sở (Bộ Văn hố - Thông tin), Vụ Công tác học sinh sinh viên (Bộ Giáo
dục và Đào tạo) tiến hành tìm hiểu, khảo sát về thực trạng đời sống văn hoá của
sinh viên ở trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trên phạm vi
toàn quốc và tổ chức Hội thảo “Đời sống văn hóa sinh viên - thực trạng và
những giải pháp”. Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức hội nghị với chun đề:
“Văn hóa học đường trong tình hình hiện nay” và tổ chức cuộc toạ đàm xin ý
kiến xây dựng Báo cáo về tình hình văn hố trong các trường học ở nước ta
hiện nay. Viện nghiên cứu Giáo dục mà trực tiếp là Trung tâm phát triển nghiệp
vụ Sư Phạm, Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội
thảo khoa học với chủ đề: “Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường”. Hội
Khoa học tâm lý giáo dục Việt Nam đã tổ chức hội thảo cấp quốc gia tại tỉnh
Tiền Giang với chuyên đề: “Văn hóa học đường - Lý luận và thực tiễn”.


6
Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An tổ chức hội thảo “Văn hoá học đường Thực trạng và giải pháp”. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hậu Giang tổ chức Hội
thảo khoa học “Văn hóa học đường gắn với phong trào thi đua xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực”vv…
Tuy nhiên cho đến nay, lại có rất ít tác giả quan tâm đi sâu vào nghiên
cứu về lý luận một cách có hệ thống về việc xây dựng VHHĐ. Một số sách,
bài viết gần đây chủ yếu chỉ quan tâm tới Văn hóa học, mơi trường văn hóa…
Có thể kể đến:
- Đỗ Huy ( 2001), Xây dựng mơi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ
góc nhìn giá trị học, Viện văn hóa, Nhà xuất bản thông tin, Hà Nội.
- Văn Đức Thanh (2001), Xây dựng mơi trường văn hóa cơ sở, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Đinh Viễn Trí - Đơng Phương Tri (Ngọc Anh dịch) (2003), Văn hóa
giao tiếp ứng xử, Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
- Phạm Hồng Quang (2006), Môi trường giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (9-2007) - Viện Nghiên cứu sư
phạm, Hội thảo khoa học: Xây dựng văn hóa học đường - Giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục trong nhà trường , Hà Nội.
Nhìn chung, trong các đề tài nghiên cứu trên đây chưa phải là những
khảo cứu chuyên sâu về VHHĐ, nhất là chưa đề cập đến công tác xây dựng
VHHĐ ở các trường học. Đặc biệt, vấn đề "Văn hóa học đường trong các
Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Tuyên Quang" cịn chưa có cơng trình
nào đề cập đến.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn về văn hóa và văn hóa học đường,
đề tài nghiên cứu, khảo sát làm rõ thực trạng VHHĐ ở các Trường Phổ thông
Dân tộc Nội trú tỉnh Tuyên Quang hiện nay và đề xuất một số giải pháp chủ yếu


7
để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng văn hóa học đường trong các Trường
Phổ thơng Dân tộc Nội trú để VHHĐ thực sự trở thành yếu tố quan trọng bảo
đảm cho việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đồng thời góp phần phát
huy, bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc trong q trình xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về VHHĐ.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng VHHĐ đề ra
những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng VHHĐ ở
địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng
Văn hóa học đường.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng VHHĐ ở khu
vực các Trường phổ thông Dân tộc Nội trú của tỉnh Tuyên Quang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng; chú ý kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp,
lơgíc và lịch sử; đồng thời tiếp thu và sử dụng linh hoạt các phương pháp so
sánh, thống kê, điều tra xã hội học; tiếp cận và xử lý vấn đề chủ yếu từ góc độ lý
luận về văn hóa.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về VHHĐ và
xây dựng VHHĐ ở nước ta hiện nay.
- Phân tích, đánh giá để đi đến nhận thức đúng về thực trạng VHHĐ ở các
Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Tuyên Quang.


8
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần cùng địa phương nâng
cao hiệu quả xây dựng VHHĐ, bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng giáo dục
- đào tạo trên địa bàn tỉnh, đồng thời góp phần phát huy, bảo tồn bản sắc văn
hóa các dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và vận
dụng vào thực tiễn xây dựng văn hóa học đường trong các nhà trường nói chung
và trong các Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Tuyên Quang nói riêng; làm
tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận văn hóa
trong hệ thống các trường Chính trị tại địa phương.
7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


9
Chương 1
VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA HỌC ĐƯỜNG
ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ
TỈNH TUYÊN QUANG
1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HĨA HỌC ĐƯỜNG

1.1.1. Khái niệm văn hóa
Bước vào thế kỷ XX, thuật ngữ văn hóa đã thâm nhập vào đời sống xã hội
một cách sâu sắc, làm thay đổi nhận thức của con người trong các hướng tiếp cận
mới phù hợp với xu thế phát triển của khoa học cơng nghệ. Văn hóa đã và đang
trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Từ đó tạo ra những bước ngoặt quan trọng trong việc hình thành khung lý thuyết
mới trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến văn hóa - xã hội.
Trong ngơn ngữ học, "văn hóa" theo nhà ngơn ngữ học người Đức W.
Vun-đơ (W.Wundt) bắt nguồn từ một động từ tiếng La Tinh "Colere" và sau
chuyển thành "Cultura" với nghĩa là cày cấy, vun trồng. Trong sự vận động của
ngôn ngữ, "Cultura" chuyển nghĩa từ trồng trọt cây cối sang hàm nghĩa trồng trọt
tinh thần, trí tuệ; gắn bó với con người dưới dạng thức mới, được biểu hiện trong
mô thức phức tạp hơn song lại hàm chứa nội dung sâu sắc hơn so với nghĩa ban
đầu của nó.
Ở phương Đơng, trong Chu Dịch có nói đến: Quan hồ nhân văn dĩ hóa
thành thiên hạ” (quan sát dáng vẻ con người để giáo hóa thiên hạ). Ở đây, văn
hóa được giải thích như một phương thức dùng văn để cải hóa con người.
Vốn là hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, phức tạp, đa cấp độ, văn
hóa từng được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Ở trình độ lý luận

và yêu cầu của xã hội hiện nay, văn hóa được xem như là tất cả những gì liên
quan đến con người, ít nhiều thể hiện được sức mạnh bản chất của con
người. Từ đó, có thể hiểu văn hóa là những phương thức và kết quả hoạt


10
động của con người đạt được trong lịch sử, bao gồm giá trị vật chất, giá trị
tinh thần do con người sáng tạo ra. Với nghĩa hẹp, văn hóa phản ánh hệ
thống các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận. Theo nghĩa này,
văn hóa hàm chứa những quan điểm về mục đích, giá trị và lý tưởng của xã
hội. Văn hóa hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Nói đến văn hóa là nói đến
con người và văn hóa là thuộc tính biểu hiện bản chất xã hội của con người.
Trên thế giới đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm kiếm và đưa ra những
định nghĩa về văn hóa. Quan niệm về văn hóa được E.B. Tylor đề cập trong
cơng trình "Văn hóa ngun thủy" (1871) trở thành định nghĩa đầu tiên về đối
tượng nghiên cứu của văn hóa. Theo ơng, "văn hóa hay văn minh theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người
chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội" [57, tr.13].
Trong thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu về văn hóa trên thế giới đã tiếp
tục đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Theo khảo sát của Phó Giáo sư (PGS) Phan Ngọc, cho đến nay đã có
trên 400 định nghĩa về văn hóa [42, tr.19]. Điều này cho thấy "mảnh đất" văn
hóa đã được cày xới, thâm nhập, tiếp cận rất rộng, đa dạng và phong phú. Trong
bản tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mêhicơ do UNESCO chủ trì họp từ
26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một quan niệm về văn hóa như sau:
Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật
và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,

những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng [55, tr.5-6].
Tổng giám đốc UNESCO F.May-ơ (Federico Mayor Zaagoza) cũng có
quan niệm về văn hóa nêu ra trong một bài viết của ông như sau: "Văn hóa là
tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.


11
Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá
trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi
dân tộc" [8, tr.23].
Văn hóa chính là quá trình sáng tạo tự thân của con người trong sự phát
triển của lịch sử
Đó khơng phải là các lực lượng bẩm sinh xuất hiện một cách tự
nhiên, mà chúng biến đổi do tác động của các quan hệ xã hội, do
trình độ phát triển văn hóa. Các lực lượng bản chất người ấy được
khách thể hóa thơng qua họat động cải tạo thế giới của con người.
Chính họat động này là phương thức tồn tại và tái sản xuất ra đời
sống xã hội [58, tr.40].
Ở Việt Nam, văn hóa bắt đầu được nhiều nhà khoa học, nhiều học giả
nghiên cứu trong những năm gần đây và họ cũng đã cố gắng đưa ra những
định nghĩa về văn hóa. Cách đây hơn 60 năm, học giả Đào Duy Anh đã đặt
viên gạch đầu tiên cho ngành văn hóa học khi cuốn “Việt Nam văn hóa sử
cương” của ơng ra đời (1938). Ơng quan niệm “hai tiếng văn hóa chỉ là
chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói
rằng: Văn hóa tức là sinh hoạt" [1, tr.13]. Văn hóa theo đó là cách thức, là
kiểu sinh hoạt của con người.
Giáo sư (GS) Trần Quốc Vượng cho rằng: “Văn hóa là thế ứng xử,
năng động của một cộng đồng (ứng xử tập thể) hay một cá nhân đứng trước
thiên nhiên, xã hội và đứng trước chính mình. Văn hóa là lối sống (mode de
vie), là nếp sống (train de vie) tập thể và cá nhân” [64, tr.87]. Đi sâu vào bản

chất của văn hóa, với cách tư duy thao tác luận, nhà văn hóa học GS. Phan
Ngọc đã coi văn hóa thực chất là một kiểu lựa chọn. Ông quan niệm rằng, con
người có một kiểu lao động riêng, anh ta tạo nên một sản phẩm theo cái mơ
hình trong óc anh ta (mơ hình này do anh ta tiếp thu từ bên ngoài hay sáng tạo
ra). Từ quan niệm như vậy GS. Phan Ngọc định nghĩa:


12
Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc mỗi cá
nhân hay mỗi tộc người với cái thế giới thực tại đã bị cá nhân hay
tộc người này mơ hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu
tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn
hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn
riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân
hay tộc người khác [43, tr.17].
Cách hiểu văn hóa là kiểu lựa chọn như vậy cũng tương đồng với cách
hiểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa. Người viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa.
Văn hóa là tổng hợp những phương thức sinh hoạt và biểu hiện của
nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [40, tr.431].
Như vậy, điểm thống nhất trong những quan niệm trên là đều xem lao
động sáng tạo là cội nguồn của văn hóa. Và, chính văn hóa đã đem lại cho con
người khả năng suy xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những sinh vật
đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một
cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Và cũng

chính nhờ văn hóa mà con người thể hiện được phẩm chất, tự ý thức được bản
thân, tự biết mình là một phương án "chưa hồn thành", đặt ra để xem xét những
thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết mệt những "ý nghĩa mới mẻ và sáng
tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản thân mình" [55, tr.5-6].
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm
của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hồn thiện con người,
nhà nghiên cứu Hồng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng:


13
Văn hóa là tồn bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong q
trình hoạt động thực tiễn xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ
ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành
tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có
khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của những con
người sống trong cộng đồng xã hội ấy [59, tr.43].
Văn hóa chính là tổng thể những giá trị do con người sáng tạo ra (văn
hóa tức là nhân hóa), đó là các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần và bản thân
sự phát triển của con người. Các giá trị này, thực chất chính là kết quả của sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Các
giá trị này đều tương tác và gắn bó với nhau. Trong các giá trị vật chất có các
giá trị tinh thần và trong các giá trị tinh thần đều hàm chứa các giá trị vật chất.
Trong hai giá trị đó cũng hàm chứa sự phát triển của năng lực bản chất của
con người.
Dù là văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần cũng đều là sản phẩm trực
tiếp hay gián tiếp của con người. Vì vậy, Mác đã nói rằng, văn hóa là sự thể
hiện các năng lực bản chất của con người, bao gồm khả năng, sức mạnh,
phương thức nhận thức, đánh giá và cải tạo thế giới của con người.
Văn hóa biểu hiện những gì do con người sáng tạo ra nên phạm vi của

văn hóa rất rộng lớn. Nghiên cứu về văn hóa địi hỏi phải sử dụng những
phương pháp chính xác, khoa học mới có thể chỉ ra được những đặc trưng, vai
trị, chức năng cũng như những mối liên hệ của văn hóa với các hiện tượng khác
của đời sống xã hội. Tiếp cận từ lý thuyết hệ thống, Viện sĩ Trần Ngọc Thêm đã
chỉ ra những đặc trưng và những chức năng cơ bản của văn hóa như sau:
Thứ nhất, văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Mọi hiện tượng, sự
kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau. Nhờ có tính
hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động


14
của xã hội thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường
xun làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện
cần thiết để đối phó với mơi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Thứ hai, văn hóa có tính giá trị. Trong từ văn hóa thì văn (ở phương
Đơng đối lập với võ) có nghĩa là “vẻ đẹp” (= giá trị), hóa là trở thành, văn hóa
“trở thành đẹp, trở thành có giá trị”. Văn hóa là thước đo nhân bản của xã hội,
của con người. Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện
được chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội,
giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình, khơng ngừng
tự hồn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ
để tồn tại và phát triển.
Thứ ba, văn hóa có tính nhân sinh. Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là
sản phẩm hoạt động thực tiễn của con nguời. Theo nghĩa này, văn hóa đối lập
với tự nhiên, nhưng nó khơng phải là sản phẩm hư vơ mà có nguồn gốc tự
nhiên. Văn hóa là tự nhiên đã được biến đổi dưới sự tác động của con người.
Đặc trưng này cho phép phân biệt loài người sáng tạo với loài vật bản năng.
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa
trở thành cơng cụ giao tiếp quan trọng và do đó nó có chức năng giao tiếp.
Thứ tư, văn hóa có tính lịch sử. Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ

nó bao giờ cũng được hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua
nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu và chính
nó buộc văn hóa thường xun tự điều chỉnh, tự phân loại và phân bố lại các
giá trị. Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa.
Truyền thống văn hóa tồn tại được là nhờ giáo dục, do đó, chức năng giáo dục
là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Văn hóa thực hiện chức năng
giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống) mà còn bằng
những giá trị đang hình thành. Các giá trị ổn định và các giá trị đang hình
thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới, nhờ đó mà
văn hóa góp phần hình thành nhân cách con người [51, tr.20-24].


15
Cần phân biệt văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật.
Lâu nay nhiều người thường sử dụng “văn minh” (civilization) như một
từ đồng nghĩa với văn hóa, nhưng thực ra đây là những khái niệm gần gũi, có
liên quan mật thiết với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Văn minh là
khái niệm chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương
diện giá trị vật chất. Nói đến văn minh, người ta chủ yếu nghĩ đến tiện nghi
vật chất (văn minh chủ yếu liên quan tới kỹ thuật làm chủ thế giới, biến đổi
thế giới để đáp ứng nhu cầu con người). Như vậy, văn hóa và văn minh khác
nhau trước hết ở tính giá trị: trong khi văn hóa là một khái niệm bao trùm cả
các giá trị vật chất và tinh thần thì văn minh chỉ thiên về các giá trị vật chất.
Văn hóa và văn minh cịn khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa ln có
bề dày lịch sử thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, chỉ cho biết trình độ
phát triển của văn hóa. Nếu văn minh của lồi người tiến lên khơng ngừng thì
văn hóa lại khơng thế. Một dân tộc có nền văn minh cao nhưng cũng có thể có
một nền văn hóa nghèo nàn và ngược lại một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có
một nền văn hóa phong phú. Ngồi ra, văn hóa và văn minh cịn được phân
biệt bởi phạm vi của chúng. Trong khi văn hóa thường có tính dân tộc, quốc

gia thì văn minh có tính khu vực, quốc tế. Nó đặc trưng cho một khu vực rộng
lớn hoặc cả nhân loại, bởi nó chứa giá trị vật chất và vật chất thì rất dễ phổ
biến, lan rộng.
Về mối tương quan giữa văn hóa với văn hiến, văn vật. Văn hiến và văn
vật là những thuật ngữ đặc trưng của văn hóa phương đơng. Văn hiến dùng để
chỉ những giá trị tinh thần do những người có tài, đức chuyển tải. Cịn văn vật là
truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thơng qua một đội ngũ nhân tài và
hiện vật trong lịch sử. Sự khác biệt của văn hóa đối với các khái niệm này là ở
phạm vi. Văn hóa là khái niệm rộng lớn, bao trùm, trong đó có văn hiến, văn vật.
Trên cơ sở tiếp thu những quan niệm khác nhau về văn hóa. Xuất phát
từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận văn, chúng tôi quan niệm rằng:


16
Văn hóa là phạm trù chỉ tồn bộ hoạt động sáng tạo ra vật chất và tinh
thần của con người, vì sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng dựa
trên nền tảng của phương thức sản xuất nhất định, được biểu hiện ra như là
một hệ giá trị vận động và phát triển trong cộng đồng người.
Hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con người là
nhằm hình thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người nói chung
và mỗi con người nói riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối chiếu và phấn
đấu để đạt được những chuẩn mực giá trị cần thiết mà mỗi cá nhân, gia đình,
xã hội địi hỏi.
1.1.2. Quan niệm về văn hóa học đường
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa học đường
Như cách hiểu trên đây, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do
con người tạo ra, từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức
khoa học đến các tác phẩm nghệ thuật, văn hóa cũng đồng thời là bản thân
phương thức tạo ra các sản phẩm đó. Khơng chỉ có thế, văn hóa cịn hiện diện
trong các quan hệ giữa con người với con người, dù đó là quan hệ kinh tế hay

quan hệ tơn giáo, quan hệ pháp luật hay quan hệ giao tiếp thơng thường. Văn
hóa cịn là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người, là tri thức,
tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao động sáng tạo...
Con người khơng phải ngay khi sinh ra đã có văn hố, mà phải được
ni dưỡng, dạy dỗ, rèn luyện để biết suy nghĩ và hành động theo các chuẩn
mực xã hội, để trở thành người có văn hố. Vì thế, muốn có bản lĩnh văn hố
của con người Việt Nam, thì khơng cách nào khác, con người phải được bồi
dưỡng, giáo dục truyền thụ lý tưởng và không ngừng rèn luyện trong mơi
trường văn hóa Việt Nam, vươn lên để trở thành người có văn hố, làm những
cơng việc ích nước, lợi dân và phát triển bản thân. Môi trường giáo dục có vai
trị quyết định hình thành nên nét đẹp văn hóa trong mỗi con người đó chính
là mơi trường học đường - nơi học sinh, sinh viên cắp sách tới không chỉ để


17
học hành, trau dồi kiến thức cho hành trang vào đời, mà còn là nơi diễn ra
cách xử sự giao tiếp giữa học sinh, sinh viên với nhau, giữa trò với thầy cô
giáo, cách học và tiếp thu kiến thức qua phát ngơn, cách ăn mặc, lối sống...
Văn hố ln đi liền với giáo dục, giáo dục đi liền với văn hoá. Cả hai
đều là sản phẩm đặc thù của lồi người, chỉ có lồi người mới có. Lênin đã
khẳng định: giáo dục là “phạm trù vĩnh hằng” - tồn tại mãi mãi cùng loài
người: thế hệ trước phải truyền cho thế hệ sau các kinh nghiệm lịch sử - xã
hội, tạo nên tiến hố khơng ngừng của lồi người. Giáo dục (bao gồm cả đào
tạo) được coi là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định sự trường tồn của quốc
gia - dân tộc. Ở nước ta, trong Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1991 ghi rõ: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Có lẽ ai cũng biết bản chất (tính
người, tình người, năng lực, nhân cách…) của con người được hình thành,
phát triển từ ngồi xã hội vào - được xã hội hoá, nhập tâm vào não bộ, lĩnh
hội, biểu hiện ra hành vi, hành động, hoạt động. Đứa trẻ từ bào thai chào đời
như một sinh thể muốn thành người phải đắm mình vào quá trình giáo dục

(theo nghĩa rộng của từ này).
Quá trình này, thật dầy công, nhiều khi cả cuộc đời, nhất là từ tuổi thơ
ấu đến hết vị thành niên. Cách đây khoảng 5.000 năm, phạm trù nhà trường
như là một thiết chế xã hội có tổ chức, có mục tiêu,… ra đời ở Trung Đông,
rồi 1.500 năm sau - ở Ai Cập; tiếp theo, từ giữa thiên niên kỷ trước Công
nguyên - ở Trung Hoa và Hy Lạp. Khái niệm “học đường” có từ đây. Người ta
đề ra chương trình, hình thành phương pháp, xây dựng địa điểm giảng dạy,
phịng thí nghiệm…
Đấy là không gian tiến hành hoạt động dạy - học, mà thầy và trò là chủ
thể cùng nhau tiến hành các thao tác trong giờ học, các hành động truyền đạt tiếp thu nhằm cùng một mục đích là hình thành và phát triển tri thức, kỹ năng,
thái độ ở người học. Cả hai chủ thể của hoạt động dạy - học với cùng một động
cơ là hình thành, phát triển con người (nhân cách, tay nghề, lương tâm nghề


18
nghiệp…) trong dịng văn hố, văn minh của nhân loại và dân tộc. Văn hoá, văn
minh là nội dung của giáo dục - đào tạo, và cũng là mục tiêu của giáo dục - đào
tạo. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao chuyển vốn học vấn thành vốn văn hoá: từ tri
thức, kỹ năng sang thái độ giá trị nhân cách - điều mà ngày nay thường nói là
dạy chữ, dạy nghề, dạy người. Tiến hành giáo dục trước hết và cuối cùng là
nhằm phát triển con người, hình thành ở mỗi người nhân cách văn hố, vì thế địi
hỏi một mơi trường văn hóa tương ứng, đó là “văn hố học đường”.
Văn hóa học đường là văn hóa của một tổ chức. Xét về bản chất, mỗi
nhà trường là một tổ chức hành chính - sư phạm. Đó là một thế giới thu nhỏ với
cơ cấu, chuẩn mực, quy tắc hoạt động, những giá trị, điểm mạnh và điểm yếu
riêng cho những con người cụ thể thuộc mọi thế hệ tạo lập. Với tư cách là một tổ
chức, mỗi nhà trường đều tồn tại dù ít hay nhiều một kiểu VH nhất định.
Văn hoá học đường - một thuật ngữ khoa học còn khá mới mẻ - gần
đây đôi lần thấy xuất hiện trên một số phương tiện thông tin đại chúng.
Nhưng, với tư cách là vấn đề thực tiễn, văn hoá học đường đang là một vấn đề

thời sự mà mọi lúc, mọi nơi, mọi người đều quan tâm, phản ánh.
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc, Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý Giáo
dục Việt Nam cho biết: thuật ngữ “văn hóa học đường” xuất hiện tại các nước
nói tiếng Anh vào những năm 1990. Một số nước như Mỹ, Úc đã có trung tâm
nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, xây dựng tiêu chí và tiến hành đánh giá vấn đề
này. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng đều thống nhất mỗi trường học
cần có văn hóa học đường của mình. Và theo Giáo sư, VHHĐ "là hệ các
chuẩn mực, giá trị giúp các cán bộ quản lý nhà trường, các thầy cô, các vị
phụ huynh và các em học sinh, sinh viên có các cách thức suy nghĩ, tình cảm,
hành động tốt đẹp". Mục tiêu chung nhất của văn hóa học đường là xây dựng
trường học lành mạnh - cơ sở quan trọng để đảm bảo chất lượng thật. Nhà
trường dạy “phương thức sinh hoạt” - cách sống, lối sống ở ngay trong nhà
trường, ở gia đình, ngồi cộng đồng…


19
Nói đến nhà trường là nói đến hoạt động của khoa học giáo dục, văn
hoá; rồi đến nghệ thuật, phong tục... “Văn hoá là tổ hợp các tri thức, niềm tin,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và các năng lực, thói quen khác mà
con người với tư cách là thành viên của xã hội tiếp thu được”. Định nghĩa này
đã chỉ ra cả các năng lực và thói quen mà từng người học được. Những năng
lực và thói quen đó chính là kết quả giáo dục mong đợi - hình thành và phát
huy nhân cách văn hố – bản sắc văn hoá, văn hoá ứng xử - hệ giá trị của từng
con người, từng tổ chức, của nhà trường chúng ta. Người xưa rất coi trọng
văn hoá, vẫn thường dạy “học ăn, học nói, học gói, học mở”, Nguyễn Ái
Quốc định nghĩa văn hoá là “tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Mục tiêu chung nhất của văn hoá học đường là xây dựng trường học
lành mạnh - cơ sở quan trọng để đảm bảo chất lượng thật. Về “văn hoá học

đường”, tuy cịn có ý kiến khác nhau, nhưng khái qt lại, văn hoá học đường
là hệ các chuẩn mực, giá trị giúp các cán bộ quản lý nhà trường, các thầy giáo,
cô giáo, các vị phụ huynh và các em học sinh, sinh viên có các cách thức suy
nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp. Văn hoá trong nhà trường của chúng ta có
thể gọi là "văn hóa giáo dục", “văn hoá ứng xử”, “văn hoá giao tiếp”. Xã hội
giao cho nhà trường dạy dỗ con em lễ phép, tử tế, biết dùng lời hay ý đẹp,
kính trên nhường dưới, lịch thiệp, thực thà, nề nếp, hợp tác, chia sẻ, khoan
dung (Năm 1927, trong “Đường kách mệnh” mục nói về thái độ đối với người
khác, thái độ đầu tiên Nguyễn Ái Quốc khuyên là “khoan thứ”), tiếp nối
truyền thống dân tộc “thương người như thể thương thân”... Suy rộng ra là
giáo dục tinh thần trách nhiệm - chia sẻ với người xung quanh, với gia đình,
với cộng đồng, với xã hội, và quan trọng trước hết là trách nhiệm với bản
thân. Trong tác phẩm vừa nêu trên Bác Hồ cũng nói đến thái độ với bản thân
trước khi nói về thái độ đối với người khác, và cuối cùng mới nói tới thái độ


20
đối với cơng việc. Đối với chính mình, thái độ đầu tiên Bác dạy là “cần”.
Trước hết phải chăm chỉ. Đây là phẩm chất đầu tiên, quan trọng nhất giúp ta
trở thành người chân chính, tạo nên tâm lực, trí lực, thể lực - các giá trị của
mỗi người. Gần đây, khi đời sống xã hội trở nên phức tạp hơn trước nhiều,
người ta nói nhiều đến chữ “tâm”. Thời xưa từ trước Cơng ngun gọi là
“nhân”, “lễ”. Lễ chính là văn hoá, là đạo đức, một nội dung cốt lõi của văn
hoá học đường. “Tiên học lễ, hậu học văn” có ý nghĩa như vậy.
Con người khơng phải ngay khi sinh ra đã có văn hố, mà phải được
ni dưỡng, dạy dỗ, rèn luyện để biết suy nghĩ và hành động theo các chuẩn
mực xã hội, để trở thành người có văn hố. Vì thế, muốn có bản lĩnh văn hố
của con người Việt Nam, thì khơng cách nào khác, đó là phải được bồi dưỡng,
giáo dục truyền thụ lý tưởng và không ngừng rèn luyện, vươn lên để trở thành
người có văn hố, làm những cơng việc ích nước, lợi dân và phát triển bản

thân. Môi trường giáo dục có vai trị quyết định hình thành nên nét đẹp văn
hóa trong mỗi con người đó chính là mơi trường học đường - nơi học sinh,
sinh viên cắp sách tới không chỉ để học hành, trau dồi kiến thức cho hành
trang vào đời, mà còn là nơi diễn ra cách xử sự giao tiếp giữa học sinh, sinh
viên với nhau, giữa trị với thầy cơ giáo, cách học và tiếp thu kiến thức qua
phát ngôn, cách ăn mặc, lối sống...
Nhà trường khơng chỉ dạy chữ, mà cịn dạy làm người cho các thế hệ.
Vai trò và nhiệm vụ vẻ vang ấy địi hỏi học đường phải khơng ngừng vươn lên
khẳng định bản chất văn hố tiêu biểu của nó. Phương pháp lao động sư phạm
và giao tiếp ứng xử của những người hoạt động trong học đường phải được
coi là mẫu mực cho xã hội.
Qua đó cho thấy văn hóa học đường là văn hóa ứng xử, văn hóa giao
tiếp thể hiện tính văn minh của hệ các chuẩn mực, giá trị giúp các cán bộ quản
lý, các thầy giáo, cô giáo, các bậc phụ huynh và các học sinh, sinh viên có các
cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp.


21
Tóm lại, văn hóa học đường chính là văn hóa giáo dục của một trường
học xác định. Giáo dục là những hoạt động nhằm cung cấp cho con người
sinh ra khơng có nhưng rất cần để lớn lên. Họat động giáo dục đó được diễn
ra trong một mơi trường đặc biệt là trường học nhằm đạt được những mục tiêu
xác định. Trên cơ sở đó chúng tơi xin mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về văn
hóa học đường như sau:
Văn hóa học đường chính là sự tổng hịa của mọi phương thức hoạt
động của các chủ thể trong trường học, tạo ra một hệ thống các giá trị
nhằm hoàn thành những nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục của Nhà trường.
"Văn hoá học đường" là một khái niệm cụ thể - cụ thể trong nhận thức cụ thể trong hành vi - cụ thể trong mối quan hệ thầy trị, bạn bè.
1.1.2.2. Những yếu tố hình thành nên văn hóa học đường
Văn hóa học đường là vấn đề rộng lớn, liên quan đến nhiều đối tượng

khác nhau và luôn đi liền với giáo dục. Giáo dục trở lại tác động tới văn hóa,
hai vấn đề này phát triển tỷ lệ thuận với nhau, bổ sung cho nhau để hướng đến
mục đích hồn thiện nhân cách cho học sinh, sinh viên trong Nhà trường.
Nghiên cứu về VHHĐ, có nhiều ý kiến khác nhau đưa ra những hệ thống
cấu trúc khác nhau. Nhưng tập trung lại nhiều tác giả cho rằng, VHHĐ là những
giá trị cần có của một nhà trường, đó là một cấu trúc gồm ba thành tố:
- Hệ thống thái độ và niềm tin của tất cả những cá nhân trong và ngoài
nhà trường;
- Hệ thống các chuẩn mực văn hóa của nhà trường;
- Hệ thống các mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân bên trong trường
với nhau, giữa các cá nhân của trường với cộng đồng.
Với cấu trúc đó, VHHĐ tác động và ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu
quả giữa dạy học và giáo dục[45. Xem].
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc, Chủ tịch hội Khoa học tâm lý giáo
dục Việt Nam phân tích: văn hóa học đường có 3 nội dung cơ bản.


×