1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ chủ chốt là những người có vai trị hết sức quan trọng
trong các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đồn thể chính trị - xã hội. Đội ngũ
cán bộ này phải là những người thật sự tiêu biểu, có lập trường giai cấp và bản
lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học vấn, năng lực
công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao. Trong cơng cuộc đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), hội nhập quốc tế
hiện nay, công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ đang đứng trước những thử
thách mới. Đội ngũ cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động
của nhiều nhân tố phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng. Vấn đề
giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thử thách
mới. Trong tình hình thực tế hiện nay, “tình trạng suy thối về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên và
tình trạng tham nhũng, lãng phí quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp” [24,
tr.173] . Do vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực
cho cán bộ chủ chốt theo yêu cầu giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
Đảng là một trong những vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay.
Để thực hiện được yêu cầu này, Đảng ta chỉ rõ: “Mỗi cán bộ, đảng
viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị” [24, tr.257]. Đổi
mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về chủ nghĩa Mác - Lênin,
về tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đã và đang là vấn đề cần được quan tâm trong điều kiện hiện nay.
Trong nhiều năm qua Đảng ta đã quan tâm, chú trọng đến việc giáo dục
lý luận chính trị (LLCT) cho cán bộ và đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, từ thực tế có thể khẳng định chất lượng, hiệu quả giáo dục LLCT
chưa cao. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục LLCT cho cán bộ, các
2
Đại hội Đảng gần đây đều xác định tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả
đào tạo tại hệ thống học viện và các nhà trường. Đại hội IX, Đảng ta đã xác định:
phải "xây dựng chỉnh đốn hệ thống các Học viện, Trường và Trung tâm chính
trị, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết đối với
cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, chống các biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy
và học tập" [13, tr.142].
Nghị quyết Trung ương 5 (Khố X) về cơng tác tư tưởng, lý luận và
báo chí trước yêu cầu mới, Đảng ta đã chỉ rõ:
Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục LLCT trong hệ thống
cácTrường chính trị, các Trường đại học và cao đẳng trong cả nước,
khắc phục sự lạc hậu của chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học, bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, hiện đại và phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ
khoa học, bản lĩnh chính trị và phầm chất đạo đức của đội ngũ cán
bộ nghiên cứu, giảng dạy các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; chú trọng phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ
chuyên gia đối với các chuyên ngành nghiên cứu, giảng dạy lý luận.
Đổi mới cách đánh giá chất lượng đào tạo, bảo đảm thực chất,
chống bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức [14, tr.48].
Đại hội XI, Đảng ta xác định cần tiếp tục“đổi mới, nâng cao chất lượng
công tác giáo dục LLCT, giáo dục công dân trong hệ thống các trường chính
trị, các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” [24, tr 256].
Thanh Hố là tỉnh có địa bàn rộng, nhiều đơn vị hành chính, tổ chức cơ
sở đảng. Trong những năm qua, công tác giáo dục LLCT đã được Tỉnh uỷ,
các cấp uỷ trong tỉnh quan tâm và đã khẳng định những kết quả bước đầu.
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH, đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn
trong tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu. Hạn chế cơ bản của đội ngũ này biểu
3
hiện trên các mặt: Trình độ nhận thức chính trị, năng lực tổ chức quản lý,
năng lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nhiều cán bộ được đề bạt, bổ sung vào
những cương vị chủ chốt, nhưng chưa qua bồi dưỡng, đào tạo cơ bản về
chun mơn và LLCT. Vì vậy, khi xử lý cơng việc họ cịn tùy tiện, kinh
nghiệm chủ nghĩa, không đúng với đường lối, lập trường quan điểm giai cấp
của Đảng. Để khắc phục tình trạng trên, phải giải quyết nhiều khâu, song
khâu cấp bách nhất hiện nay là phải đổi mới, tăng cường hơn nữa cơng tác
giáo dục LLCT nhằm nâng cao nhận thức chính trị, giữ vững bản chất giai cấp
công nhân của Đảng cho đội ngũ này trong quá trình chỉ đạo hoạt động thực tiễn
ở địa phương.
Xác định đúng vị trí vai trò của giáo dục LLCT đối với việc nâng cao
phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ cho cán bộ chủ chốt cấp xã; đánh giá
đúng thực trạng của công tác này đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống
chính trị cấp xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hố, trên cơ sở đó đề ra những giải
pháp đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục LLCT là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, mang tính cấp
bách hiện nay.
Trên cơ sở nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục LLCT cho đội
ngũ cán bộ cơ sở, góp phần đẩy nhanh q trình phát triển, thực hiện các mục
tiêu của sự nghiệp đổi mới trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, tác giả chọn đề tài:
"Đổi mới cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài này đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, tiêu biểu là
các cơng trình sau:
- Nguyễn Thế Phấn, "Quan hệ giữa lý luận và chính trị", Tạp chí Cộng
sản, số 8/1992;
4
- Đỗ Nguyên Phương, "Mấy vấn đề trong công tác lý luận", Tạp chí
Cơng tác tư tưởng văn hóa, số 7/1992;
- Hồ Tấn Sáng, "Góp phần bàn thêm về khái niệm chính trị", Tạp chí
Sinh hoạt lý luận, số 5/1995;
- Nguyễn Đình Trãi, "Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các
Trường chính trị tỉnh", Tạp chí Triết học, số 1/1993;
- Trần Thị Tâm, “Xác định tính đặc thù của các Trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện để nâng cao chất lượng giảng dạy”, Tạp chí Thơng tin cơng
tác tư tưởng, lý luận, 2006;
- Thùy Linh, “Bắc Giang- mười năm thực hiện quyết định 100QĐ/TW”, Tạp chí Thơng tin Cơng tác Tư tưởng, lý luận, năm 2006.;
- Trần Thị Tâm, “Đôi điều suy nghĩ khi lựa chọn nội dung và phương
pháp giảng dạy chương trình giáo dục LLCT ở Trung tâm BDCT cấp huyện”,
Tạp chí Thơng tin Cơng tác Tư tưởng, lý luận, năm 2006;
- Vũ Thùy Linh, Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng
viên ở cơ sở của tỉnh Hải Dương- thực trạng và kinh nghiệm, Tạp chí Thơng
tin cơng tác Tư tưởng, lý luận, số 4/2006;
- Đặng Thanh Long, Tiếp tục nâng cao hiệu quả của Trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện ở tỉnh Kom Tum, Tạp chí Thơng tin Cơng tác Tư
tưởng- lý luận, số 4/ 2006;
- Lê Ngọc Dính, Đơi điều về nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Tạp chí Thơng tin Cơng tác Tư
tưởng- lý luận, năm 2006.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm bồi dưỡng
chính trị- Tổng kết 10 năm thực hiện quyết định 100-QĐ/ TW khóa VII, Tạp
chí Tư tưởng - Văn hóa, số2/ 2006.
- Vũ Ngọc Am, “Tăng cường cơ sở vật chất- yếu tố đảm bảo nâng cao
chất lượng các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện”, Tạp chí lý luận, Số
6/ 2007;
5
- Phương Kiến Quốc, “Đổi mới phương pháp dạy và học lý luận chính
trị ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận Cầu Giấy”, Tạp chí Tư tưởng - Văn
hóa, số 4/2007;
- Đề án: Về tăng cường sự lãnh đạo, nâng cao chất lượng tồn diện Trung
tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện trong tình hình mới, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Thanh Hố chủ trì;
- Thạc sĩ Tống Trần Sinh (Chủ nhiệm): "Những luận cứ khoa học và
thực tiễn cho việc hình thành chương trình trung cấp lý luận chính trị trong
các trường đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước ở tỉnh, thành phố đến năm
2000", đề tài cấp Bộ, 1995;
- Bùi Văn Tính, "Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ chủ chốt cơ sở
miền núi Hịa bình", Luận văn thạc sĩ Triết học, 1995;
-Thạc sĩ Nguyễn Thanh Bình (Chủ nhiệm) "Cơ sở lý luận và thực tiễn
để đổi mới công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp quận, huyện,
thị xã các tỉnh Nam Bộ”, đề tài cấp bộ - 1996;
- Trần Thị n Ninh "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học,1998;
- Hoàng Thị Xuân Thanh, "Nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên trong công cuộc đổi mới hiện nay",
Luận văn thạc sĩ Triết học, 1998;
- Vũ Đình Chuyên: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay”, luận văn thạc sỹ Triết
học, 2000;
- Nơng Văn Tiềm:“Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay”,
luận văn thạc sỹ Xây dựng Đảng, 2001;
- Lê Hanh Thơng:“ Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ
chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các tỉnh khu vực Nam bộ qua khảo sát
một số trường chính trị trong khu vực”, luận văn tiến sỹ Triết học, năm 2003;
6
- Hoàng Đức Dĩnh: “Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt
cơ sở xã, phường, thị trấn ở trường chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng trị, giai
đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ Xây dựng Đảng, 2007;
- Trịnh Thị Hoa: “Chất lượng hoạt động của các trung tâm bồi dường
chính trị huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện
nay”, luận văn thạc sỹ Xây dựng Đảng, 2008;
- Báo cáo kết quả thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh: Nâng cao chất
lượng công tác giáo dục lý luận chính trị tại các Trung tâm bồi dưỡng chính
trị cấp huyện, thị, thành phố ở tỉnh Thanh Hóa trong tình hình mới, Ban
Tun giáo Tỉnh ủy làm chủ biên, năm 2008.
Xung quanh vấn đề này, đã có một số đề tài khoa học và các bài viết
khác được đề cập đến. Tuy nhiên, các đề tài và cơng trình nghiên cứu nói trên
đều chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ khoa học xây dựng
Đảng về công tác giáo dục LLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn trên địa bàn Thanh Hố. Có thể khẳng định, việc nghiên cứu vấn đề giáo
dục LLCT cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở
Thanh Hố cịn là khoảng trống cần được nghiên cứu, hồn chỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục LLCT nói chung và cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn nói riêng.
- Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, luận văn đưa ra hệ thống các giải
pháp đổi mới công tác giáo dục LLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống
chính trị xã, phường, thị trấn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
luận văn nêu rõ vị trí, vai trị cơng tác giáo dục LLCT đối với cán bộ chủ chốt
hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
7
- Đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm đổi mới
công tác giáo dục LLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã,
phường, thị trấn tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới công tác giáo dục LLCT
nhằm nâng cao chất lượng của công tác này ở Trường chính trị tỉnh và các
huyện, thị, thành uỷ ở Thanh Hoá hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc đổi mới công tác
giáo dục LLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường,
thị trấn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác giáo dục LLCT cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt của 638 xã, phường, thị trấn tỉnh Thanh Hố do Trường chính
trị Thanh Hố và các huyện, thị, thành uỷ trong tỉnh đào tạo, bồi dưỡng.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2005 đến nay, định hướng đổi mới công
tác giáo dục LLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh
Thanh Hoá đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở học thuyết Mác - Lênin về vai
trò của lý luận đối với hoạt động thực tiễn, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
LLCT cho cán bộ; chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng về công tác
giáo dục LLCT. Đồng thời luận văn kế thừa có chọn lọc các cơng trình khoa
học đã cơng bố có liên quan đến nội dung của đề tài.
- Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa vào thực tiễn hoạt động giáo dục
LLCT của Trường chính trị tỉnh, các Trung tâm BDCT huyện, thị, thành phố
trong tỉnh; báo cáo sơ kết, tổng kết thực tiễn, những số liệu điều tra, khảo sát
thực tế của bản thân tác giả.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp
8
nghiên cứu chuyên ngành: phân tích tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học,
đặc biệt chú trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn coi trọng các phương pháp nghiên cứu tài liệu đối
với các đề tài khoa học, các chuyên đề khoa học về vấn đề này.
6. Đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn
* Đóng góp về khoa học:
- Góp phần làm rõ hơn vai trò và những nét đặc thù của giáo dục LLCT
đối với cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Thanh Hoá.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới nội dung, phương pháp,
hình thức giáo dục LLCT đối với Trường chính trị tỉnh, các huyện, thị, thành
uỷ trước yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế.
* Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục LLCT cho
cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn tỉnh Thanh Hố.
- Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng trong việc cải tiến
nội dung, chương trình giảng dạy LLCT cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn tại Trường chính trị tỉnh Thanh Hố, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị
(BDCT) thuộc các huyện, thị, thành uỷ trong tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
9
Chương 1
ĐỔI MỚI CƠNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ,
PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỈNH THANH HOÁ - NHỮNG VẤN ĐÊ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH TỈNH THANH HĨA VÀ ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở
TỈNH THANH HĨA
1.1.1. Đặc điểm, tình hình tỉnh Thanh Hố ảnh hưởng đến cơng tác
giáo dục lý luận chính trị
1.1.1.1. Khái qt đặc điểm lịch sử, tự nhiên
Thanh Hoá là vùng đất cổ, có diện tích tương đối lớn so với các tỉnh,
thành khác trong cả nước, là vùng đất gắn với quá trình đấu tranh dựng nước
và giữ nước suốt chiều dài lịch sử dân tộc, là một trong những cái nơi văn hố
của dân tộc với đặc trưng nền văn hố Đơng Sơn.
Thanh Hố nằm ở cực Bắc miền Trung, là vùng đất chuyển giao giữa
miền Bắc và miền Trung, cách thủ đơ Hà Nội 150 km về phía Nam, có diện
tích 11.133,4 km2, dân số 3,8 triệu người; phía Bắc giáp Sơn La, Hồ Bình,
Ninh Bình, phía Nam giáp Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Lào), phía
Đơng giáp biển Đơng.
Thanh Hố nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng kinh tế trọng điểm Trung
bộ, có hệ thống giao thơng thuận lợi: Đường sắt xuyên Việt, quốc lộ 1A, 10,
45, 47, 217, cảng nước sâu Nghi Sơn, hệ thống sơng ngịi thuận tiện lưu thơng
Bắc-Nam. Thanh Hố có đầy đủ địa hình của một quốc gia thu nhỏ: Miền núi,
trung du, đồng bằng và ven biển.
Từ những đặc điểm như vậy, có thể nhận định khái qt:
- Thứ nhất, Thanh Hố có điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa.
10
Xuất phát từ vị trí địa lý tương đối thuận lợi, địa bàn rộng, dân số
đông, việc giao lưu, trao đổi hàng hoá, tạo lập các yếu tố của kinh tế thị
trường, các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hình thành các loại thị
trường, các khu cơng nghiệp tập trung… là lợi thế và tiềm năng của Thanh
Hoá. Xét về trung hạn và dài hạn, phát triển kinh tế hàng hoá là tiềm năng
cần được khai thác.
- Thứ hai, Thanh Hố là vùng đất có nhiều dân tộc, giàu bản sắc, nhân dân
nhiệt tình, dũng cảm, sáng tạo trong đấu tranh cách mạng, lao động, sản xuất.
Là địa bàn rộng, gồm đầy đủ các địa hình, Thanh Hố là vùng đất có
nhiều dân tộc anh em (07 dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Mông, Dao, Khơ
mú), riêng khu vực miền núi chiếm 3/4 diện tích, là nơi sinh sống của 1,1
triệu người, chủ yếu là dân tộc thiểu số. Trải qua những biến cố của lịch sử,
người dân Thanh Hoá vẫn giữ được bản sắc riêng của từng dân tộc, cố kết
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống chọi với thiên nhiên khắc
nghiệt, đã hun đúc nên bản sắc của người dân xứ Thanh. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân Thanh Hoá đã thể hiện rõ tinh thần dũng cảm, sáng tạo trong
đấu tranh, lao động sản xuất. Minh chứng sống động là trong các cuộc chiến
tranh, Thanh Hố ln là một trong những địa phương có đóng góp lớn nhất:
Đóng góp lớn nhất về người và của cho cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là
chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; đóng góp lớn nhất về lực lượng tham gia
quân đội, thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước…
- Thứ ba, điều kiện tự nhiên Thanh Hố, gắn với khí hậu vừa có biểu
hiện khí hậu Bắc bộ, vừa có biểu hiện khí hậu Trung bộ, bên cạnh thuận lợi,
cũng gây khơng ít khó khăn cho sản xuất nơng nghiệp và đời sống.
1.1.1.2. Tình hình kinh tế (từ 2005 đến nay)
- Kinh tế ln duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng giai
đoạn 2005-2010 ước đạt 11,3%. Tổng GDP theo giá so sánh 2010 gấp 1,7 lần
năm 2005.
11
Ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản phát triển tương đối ổn định, giá trị
bình quân hàng năm tăng 2,6%. Từ năm 2006, sản lượng lương thực hàng
năm trên 1,5 triệu tấn, chăn nuôi phát triển theo hướng trang trại, gia trại.
Trồng rừng vượt mục tiêu kế hoạch, tỷ lệ che phủ rừng năm 2010 đạt 48,8%.
Thuỷ sản phát triển toàn diện cả đánh bắt, nuôi trồng và chế biến, sản lượng
thuỷ sản năm 2010 tăng 1,4 lần so với năm 2005.
Ngành cơng nghiệp-xây dựng ln duy trì được tốc độ tăng trưởng cao,
giá trị gia tăng bình quân hàng năm tăng 16%. Năm 2010, giá trị sản xuất
công nghiệp gấp hơn 2,1 lần so với năm 2005, đã thu hút được một số dự án
sản xuất công nghiệp lớn. Một số ngành nghề truyền thống, nghề mới được
khôi phục và phát triển. Ngành xây dựng có bước phát triển nhanh, đóng góp
quan trọng cho tăng trưởng. Giá trị sản xuất ngành xây dựng năm 2010 gấp
3,1 lần so với năm 2005.
Dịch vụ phát triển đa dạng, có chuyển biến tích cực về quy mô, cơ cấu
và chất lượng. Giá trị tăng thêm bình quân hàng năm là 12,3%. Thương mại
phát triển theo hướng ngày càng văn minh, thuận tiện bán lẻ hàng hố và
doanh thu dịch vụ bình qn hàng năm tăng 24,9%. Giá trị xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ năm 2010 ước đạt 377 triệu USD. Dịch vụ vận tải cơ bản đáp
ứng yêu cầu đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính viễn thơng, cơng nghệ
thơng tin, tài chính, ngân hàng phát triển nhanh. Thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn ln vượt dự tốn được giao.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, ngày càng phù hợp với tiềm
năng, lợi thế của tỉnh và nhu cầu thị trường.
Tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong GDP đã giảm từ
32,3% năm 2005 xuống còn 24,2% năm 2010; tỷ trọng ngành công nghiệpxây dựng tăng từ 34,6% lên 41,4%; tỷ trọng các ngành dịch vụ tăng 33,1% lên
34,4%. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế theo hướng tích cực.
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ chuyển dịch theo hướng hình thành các
vùng động lực tăng trưởng, các khu công nghiệp, khu kinh tế, các vùng
12
chuyên canh sản xuất hàng hoá trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng. Các thành phần kinh tế đều có chuyển biến tích cực. Năm 2010, tồn
tỉnh có 5.940 doanh nghiệp, gấp 3,1 lần năm 2005, đạt tỷ lệ 575 người
dân/doanh nghiệp.
- Huy động vốn cho đầu tư phát triển đạt khá, kết cấu hạ tầng kinh tếxã hội được tăng cường.
Huy động vốn đầu tư phát triển có chuyển biến rõ nét. Tổng số huy
động 5 năm đạt 85.395 tỷ đồng, tăng 55% so với mục tiêu đề ra. Kết quả đầu
tư đã làm tăng nhanh năng lực sản xuất kinh doanh, tạo thêm sản phẩm mới,
cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. mạng lưới giao thơng từng
bước được hồn thiện. Hệ thống điện lưới đã được xây dựng đến 100%
huyện, có 96,5% số hộ dân được dùng điện; hạ tầng viễn thông, internet băng
thông rộng được đầu tư đến cấp xã, 100% số xã có điện thoại.
Cơ sở vật chất y tế, trường học được tăng cường, số giường bệnh năm
2010 tăng 1.543 giường so với 2005, đã kiên cố hố 7.000 phịng học.
1.1.1.3. Tình hình Văn hố - Xã hội (từ 2005 đến nay)
Tình hình văn hố- xã hội chuyển biến tích cực, an sinh xã hội được
chăm lo, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện
- Vấn đề mơi trường được quan tâm hơn trong q trình xây dựng các
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình, dự án.
- Chất lượng giáo dục toàn diện được quan tâm. Phổ cập giáo dục trung
học cơ sở, giáo dục mũi nhọn có nhiều tiến bộ. Số trường đạt chuẩn quốc gia
năm 2010 gấp 1,8 lần năm 2005. Giáo dục chuyên nghiệp phát triển khá, tỷ lệ
lao động được đào tạo từ 27% năm 2005 lên 40% năm 2010. Phong trào khuyến
học, khuyến tài được đẩy mạnh. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đã có trung tâm
học tập cộng đồng, đáp ứng nhu cầu học thường xuyên của nhân dân.
- Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có chuyển biến tích
cực. cơ sở vật chất, trang thiết bị các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện được
tăng cường, xã hội hóa lĩnh vực y tế đạt kết quả khá.
13
- Hoạt động văn hố thơng tin phát triển đa dạng, góp phần nâng cao
đời sống văn hố, tinh thần cho nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được thực hiện có hiệu quả. Hoạt động báo
chí, phát thanh, truyền hình được đổi mới nội dung, tăng thời lượng, phạm vi
phát sóng.
Năm 2010, tỷ lệ dân số được phủ sóng phát thanh đạt 99%, tăng
2% so với năm 2005; tỷ lệ dân số được phủ sóng truyền hình đạt 95%, tăng
10,5% so với năm 2005. Phong trào thể dục, thể thao tiếp tục được đẩy mạnh,
các mơn thể thao thành tích cao duy trì thứ hạng cao, đóng góp tích cực cho
thể thao quốc gia.
- Từ năm 2005 đến 2010, đã giải quyết việc làm cho 254.000 lao động,
trong đó có 47.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm từ 34,71% năm 2005 xuống 14,85% năm 2010. Chế độ chính sách
đối với người có công được thực hiện đầy đủ. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa,
uống nước nhớ nguồn” đượ đẩy mạnh, thu hút đơng đảo nhân dân tham gia.
1.1.1.4. Tình hình quốc phịng, an ninh (từ 2005 đến nay)
Quốc phòng,an ninh được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an tồn
xã hội được đảm bảo, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ quyền an ninh biên giới, vùng biển được giữ vững. Các tuyến
phòng thủ, thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân được xây dựng
vững chắc. Công tác tuyển quân, huấn luyện, diễn tập, bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng được thực hiện tốt. Việc kết hợp giữa đảm bảo quốc phòng- an
ninh với phát triển kinh tế, phòng chống lụt bão, khắc phục thiên tai, dịch
bệnh ngày càng có hiệu quả.
An ninh trên các lĩnh vực được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được
đảm bảo, tội phạm hình sự được kiềm chế. Công tác tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật được đẩy mạnh, nhất là ở cơ sở, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, tôn giáo, vùng ven biển. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo được tăng cường.
14
1.1.1.5. Khái qt tình hình Trường chính trị tỉnh; các huyện, thị,
thành uỷ và Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị xã, thành phố
trong tỉnh
* Khái quát về Trường chính trị tỉnh
Trường chính trị tỉnh Thanh Hố tiền thân trực tiếp là Trường Đảng
Hoàng Văn Thụ và Trường hành chính - pháp lý tỉnh, được thành lập theo
“Quyết nghị án” Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ II (ngày 04/6/1949).
Nhà trường đã trải qua 62 năm xây dựng và phát triển.
Trường có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo, bồi dưỡng về lý
luận chính trị, quản lý nhà nước, quản lý pháp luật, nghiệp vụ cơng tác xây
dựng Đảng, cơng tác đồn thể cho cán bộ chủ chốt cơ sở trong tỉnh và tham
gia nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn ở địa phương.
Trong những năm qua, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban
nhân dân tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và
các địa phương, cơ sở, nhà trường đã hoàn thành nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng trên cả 3 mặt: Số lượng, chất lượng và hiệu qủa, đáp ứng
yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng. Hàng vạn cán bộ, đảng viên được đào
tạo, bồi dưỡng đã và đang phát huy tác dụng trong hoạt động thực tiễn, góp
phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa
phương, nhiều người đã trở thành cán bộ chủ chốt của các ngành, các cấp.
Nhà trường đã có sự phát triển về mọi mặt, đội ngũ cán bộ, giảng viên
của trường đã được chuẩn hoá đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Hiện tại
nhà trường có 120 cán bộ, viên chức, trong đó có 80 giảng viên, 38 giảng viên
có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ. Nhà trường đã có nhiều giảng viên đạt giảng viên
dạy giỏi các cấp: 13 cấp quốc gia, 14 cấp tỉnh, có 02 giảng viên được nhà
nước phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú.
Công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn
đã có nhiều cố gắng. Cơ sở vật chất của trường đã được tỉnh đầu tư, xây dựng
đáp ứng nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của địa phương.
15
Ghi nhận q trình phát triển và những thành tích đã đạt được, nhà trường
đã được Nhà nước, các ngành, các cấp tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý:
- Năm 1998: Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng ba
- Năm 2000: Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng nhì
- Năm 2009: Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng nhất
- Từ năm 1996 - 2009: Nhà trường được Chính phủ, Tỉnh uỷ, Uỷ ban
nhân dân tỉnh, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tổng
Liên đồn lao động Việt Nam, Bộ cơng an, Trung ương Đồn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh .v.v... tặng cờ thi đua và Bằng khen.
* Khái quát về các huyện, thị, thành uỷ và Trung tâm bồi dưỡng chính
trị các huyện, thị, thành phố trong tỉnh
Thanh Hố có 27 huyện, thị, thành uỷ thuộc 27 đơn vị hành chính cấp
huyện (riêng miền núi là 11 huyện), trong đó có 24 huyện uỷ, 02 thị uỷ, 01
thành uỷ (tỉnh lỵ). Trong quá trình cách mạng, nhất là trong tiến trình đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh, với lợi thế riêng của từng vùng, miền,
các huyện, thị, thành uỷ đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện các mục tiêu của
cách mạng, các mục tiêu phát triển tại địa phương, phấn đấu cùng Đảng bộ
thực hiện mục tiêu sớm đưa Thanh Hố thốt khỏi tình trạng một tỉnh nghèo.
Gắn với q trình đổi mới, cơng tác giáo dục LLCT đã được các huyện, thị,
thành uỷ quan tâm, trước hết là đối với đối tượng cán bộ chủ chốt. Trong q
trình đổi mới, cơng tác giáo dục LLCT được thực hiện chủ yếu qua Trung tâm
BDCT trực thuộc cấp uỷ huyện, thị, thành phố, đã thực sự đồng hành với mục
tiêu phát triển của các địa phương.
Trung tâm BDCT huyện, thị, thành phố (Trung tâm BDCT cấp huyện)
ở Thanh Hóa được thành lập trên nền của trường Đảng cấp huyện, hoặc Trung
tâm giáo dục chính trị cấp huyện trước đây.
Ngày 28/6/1973, Tỉnh ủy Thanh Hóa ban hành Nghị quyết số 02 NQ/TU về việc thành lập các Trường chính trị nhằm đào tạo giảng viên và bồi
dưỡng LLCT cho cán bộ, đảng viên của tỉnh Thanh Hóa. Nghị quyết nêu rõ:
16
Tách Trường Đảng huyện ra khỏi Ban Tuyên giáo huyện và có vị trí
như một ban của Đảng ở cấp huyện dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
huyện ủy. Trường đảng có nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ cơ sở theo chương trình nội dung kế hoạch hướng dẫn của Trung
ương và tỉnh [66].
Thực hiện nhiệm vụ Trường Đảng huyện trong những năm qua, mơ
hình này đã đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ LLCT, tuyên truyền chủ
trương, cơ chế, chính sách của địa phương cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân trên địa bàn cấp huyện.
Được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, quy mô, chất lượng
Trường Đảng cấp huyện không ngừng được củng cố và tăng cường. Nhưng
đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, CNXH ở Liên Xơ và
Đơng Âu sụp đổ, tình hình chính trị của thế giới có nhiều biến động phức tạp
đã ảnh hưởng không nhỏ đến các nước đi theo con đường CNXH, trong đó có
Việt Nam. Trong nước, tình hình tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và
nhân dân lo lắng, băn khoăn, thậm chí hồi nghi, dao động về vai trò và sự
lãnh đạo của Đảng, về con đường đi lên CNXH. Trong thời gian đó, trường
Đảng cấp huyện ở Thanh Hố gặp nhiều khó khăn và thử thách, nhiều nơi không
mở được các lớp bồi dưỡng LLCT vì khơng chiêu sinh được học viên, có nơi
trường Đảng phải sát nhập với ban Tuyên giáo cấp huyện và chỉ là một bộ phận
của ban Tuyên giáo. Mô hình tổ chức thay đổi tạo ra sự lúng túng trong việc tổ
chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơng tác giáo dục chính trị.
Trước tình hình đó, để duy trì hoạt động của trường Đảng huyện phù
hợp với u cầu của tình hình mới, ban bí thư Trung ương đã chủ trương
thành lập trung tâm giáo dục chính trị cấp huyện trên nền của trường Đảng
huyện và giao cho ban Tổ chức Trung ương Đảng hướng dẫn việc thành lập
trung tâm BDCT cấp huyện. Trên cơ sở hướng dẫn số 729-TC/TW của ban Tổ
chức Trung ương Đảng. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ban hành hướng
17
dẫn số 83-HD/TU ngày 7/7/1989 về việc thành lập trung tâm giáo dục chính
trị huyện, thị xã, thành phố.
Từ đó đến nay, các Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố lần lượt
ra đời và đi vào hoạt động ngày càng có chất lượng, hiệu quả. Hiện nay, tàon
tỉnh có 27 Trung tâm BDCT huyện, thị, thành phố.
Ngoài đội ngũ giảng viên chun trách, Trung tâm BDCT cịn có đội
ngũ giảng viên kiêm chức. Giảng viên kiêm chức chủ yếu là các đồng chí
trong ban thường vụ cấp uỷ huyện, lãnh đạo các ban xây dựng Đảng, các
phòng của UBND, các tổ chức đoàn thể nhân dân cấp huyện. Đây là những
đồng chí có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; có trình
độ Đại học về chun mơn, trình độ cử nhân chính trị, hoặc cao cấp LLCT; có
khả năng giảng dạy.
Cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn, ngồi phần đào
tạo, bồi dưỡng tại trường chính trị tỉnh, được giáo dục LLCT tại các huyện,
thị, thành uỷ, tập trung là thông qua Trung tâm BDCT cấp huyện.
1.1.2. Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị xã, phường,
thị trấn tỉnh Thanh Hố - Quan niệm, vị trí, vai trị, đặc điểm
1.1.2.1. Khái qt về cấp xã, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cấp
xã trong hệ thống chính trị
Cấp xã trong đề tài này được đề cập đến bao gồm xã, phường, thị trấn.
Đây là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính cũng như trong tổ chức của hệ
thống chính trị ở nước ta. Trong cơ cấu hệ thống chính trị của nước ta, hệ
thống chính trị cấp cơ sở có vị trí, vai trị rất quan trọng.
* Vị trí, vai trị
Là thiết chế chính trị có thể trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và các nhiệm vụ của
các tổ chức đoàn thể quần chúng phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội tại địa bàn;
18
Là địa bàn trực tiếp tiếp xúc với dân, gần gũi với quần chúng nhân dân
nhất. Mọi mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với dân đều thông qua cấp này.
Vì vậy, có thể coi đây là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước và quần chúng
nhân dân.
Là nơi trực tiếp sản xuất, làm ra sản phẩm đáp ứng mọi nhu cầu vật
chất thiết yếu cho xã hội; góp phần trực tiếp tạo ra nền tảng vật chất cơ bản
của xã hội;
Là nơi có thể tổ chức, huy động, phát huy cao độ nội lực của quần
chúng nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ cách mạng.
* Chức năng, nhiệm vụ
Với vị trí, vai trị quan trọng, cấp xã có chức năng, nhiệm vụ nặng nề,
đó là:
- Tạo mơi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh
tế phát triển theo định hướng XHCN, hoạt động theo đúng chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
- Chủ động trong việc huy động sức mạnh của nhân dân, chăm lo xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn; phát triển sự nghiệp văn
hóa, giáo dục, thơng tin, y tế, thể dục thể thao, dân số kế hoạch hóa gia đình;
xây dựng nơng thơn mới, khu phố văn hóa, văn minh, giàu đẹp.
- Bảo đảm an ninh quốc phịng, an tồn trật tự xã hội, đồn kết nhân
dân, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước
được thực hiện ở cơ sở.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm văn minh, công bằng
và tiến bộ xã hội. Động viên nhân dân hoàn thành nhiệm vụ đối với nhà nước.
- Chăm lo đời sống của nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội;
tổ chức giúp đỡ nhau phù hợp với điều kiện, khả năng của địa phương, góp
phần cùng cấp trên thực hiện tốt bảo hiểm xã hội cho dân khi nhân dân gặp
khó khăn, rủi ro đột xuất.
19
1.1.2.2. Quan niệm về cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn
Về cán bộ, Hồ Chí Minh đã từng đưa ra khái niệm rất cụ thể. Theo
Người, cán bộ là "người đem đường lối chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng được rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng" [38, tr.269]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, cán bộ là lực lượng nịng cốt
của Đảng và Nhà nước làm nhiệm vụ triển khai, hướng dẫn, tổ chức thực hiện
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước trong hoạt động thực tiễn; là cầu
nối giữa Đảng và Nhà nước với quần chúng nhân dân.
Về khái niệm cán bộ chủ chốt, PGS.TS Trần Xuân Sầm đã nêu: "Cán
bộ lãnh đạo chủ chốt là những cán bộ lãnh đạo nhưng là lãnh đạo tồn diện có
trọng trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải quyết các
vấn đề và chịu trách nhiệm trước tập thể" [55, tr.139].
Từ những căn cứ trên có thể hiểu, cán bộ chủ chốt là những người
thuộc lực lượng nòng cốt, giữ cương vị chỉ huy, phụ trách trong một tổ chức,
một tập thể. Họ có trách nhiệm đề ra đường lối, phương hướng và tổ chức
thực hiện để đạt được những mục tiêu nhất định.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm ba bộ phận: Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đó là những tổ chức trọng yếu nằm
trong hệ thống chính trị, ứng với mỗi tổ chức ở các cấp quận, huyện, xã là:
Đảng bộ, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn
Lao động, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đồn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh. Như vậy, có thể xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị chính là những người đứng đầu, chịu trách nhiệm
chính trong các tổ chức đó.
Các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải được xem xét trong
những trường hợp cụ thể. Có thể ở cương vị này, cấp này là cán bộ chủ chốt
20
nhưng ở vị trí khác, cấp khác lại khơng phải là cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Bởi
vì, để xác định các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt cần phải căn cứ vào
chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của từng tổ chức.
Đối với cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã, theo kết quả
nghiên cứu của đề tài "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ
chốt trong hệ thống chính trị đổi mới" do PGS.TS. Trần Xuân Sầm chủ biên,
xác định các chức năng của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (cấp xã phường, thị
trấn) bao gồm: Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng
nhân dân, Phó bí thư Thường trực Đảng ủy, Chủ tịch Hội nông dân (ở xã),
Chủ tịch Liên đoàn Lao động (ở phường, thị trấn).
Theo tác giả, căn cứ vào thực tế thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng
tổ chức, ngoài các chức danh trên, cần bổ sung thêm ba chức danh khác rất
quan trọng là: Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Bí thư
Đồn thanh niên; các đồng chí uỷ viên uỷ viên ban thường vụ Đảng uỷ (cịn
lại), các đồng chí cấp phó Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các đồn thể
chính trị - xã hội.
Như vậy, chức danh cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị
trấn gồm có:
- Bí thư và ban thường vụ Đảng ủy;
- Chủ tịch và phó chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch và các phó chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Chủ tịch và các thành viên thường trực các tổ chức đoàn thể: Phụ nữ,
Thanh niên, Cựu chiến binh, Hội Nơng dân (xã) hoặc Liên đồn Lao động
(phường, thị trấn).
1.1.2.3. Vị trí, vai trị của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị
xã, phường, thị trấn
Căn cứ vào vị trí, vai trị và chức năng, nhiệm vụ của cấp xã, đội ngũ
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn có vị trí, vai trị hết rất quan trọng:
21
- Một là, họ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân;
là người mang chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước giải thích cho
dân hiểu và tổ chức cho dân thực hiện. Đồng thời phản ánh đầy đủ tâm tư,
nguyện vọng, ý kiến của dân cho Đảng, Nhà nước. Trên cơ sở đó giúp Đảng,
Nhà nước điều chỉnh, sửa đổi đưa ra đường lối chính sách cho phù hợp.
- Hai là, cán bộ lãnh đạo chủ chốt xã, phường, thị trấn vừa là người
đứng ra tổ chức triển khai các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước trong hoạt động thực tiễn, đồng thời vạch ra các phương hướng, kế
hoạch phát triển cụ thể, phù hợp với đặc thù của địa phương.
- Ba là, bên cạnh việc vạch ra định hướng và tổ chức hoạt động thực
tiễn ở địa phương, cán bộ lãnh đạo chủ chốt xã, phường, thị trấn phải gánh
vác trách nhiệm nặng nề hơn, đó là lãnh đạo đảm bảo đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân địa phương.
Với vị trí, vai trị quan trọng đó, cán bộ chủ chốt cấp xã phải thực hiện
chức năng, nhiệm vụ hết sức nặng nề sau:
- Tuyên truyền, quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước trong quần chúng nhân dân; động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng
nhân dân thực hiện đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
- Tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước trong hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả; đẩy mạnh phát triển
kinh tế và hoạt động trên tất cả các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, từng bước
cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
- Củng cố, giữ vững mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với quần
chúng nhân dân, phát huy tính tự giác, năng động, sáng tạo của quần chúng
nhân dân trên cơ sở thực hiện đúng đắn quy chế dân chủ ở cơ sở.
Để thực hiện được những nhiệm vụ đó địi hỏi người cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã phải có một trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị nhất
định. Vì chỉ trên cơ sở nền tảng tri thức đó, đội ngũ cán bộ này mới có khả
22
năng quán triệt, nắm vững đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, để có thể giải thích, động viên, thuyết phục, tổ chức cho quần chúng
thực hiện. Và cao hơn nữa là vận dụng một cách sáng tạo những đường lối,
chủ trương đó vào địa phương mình nhằm đạt hiệu quả cao, thúc đẩy phong
trào ở địa phương phát triển.
Để thực hiện được trọng trách của mình, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt ở cấp xã khơng những phải có trình độ, năng lực mà cịn phải có đạo đức
cách mạng, theo Hồ Chí Minh là phải có đủ đức tính cơ bản, đó là: "Cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư ", ln ln biết hy sinh lợi ích cá nhân, đặt
lợi ích của cách mạng lên trên hết. Chỉ có như vậy, đội ngũ cán bộ này mới có
thể gần gũi quần chúng nhân dân, tạo niềm tin cho mọi người hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt xã, phường, thị trấn hầu
hết xuất thân từ nơng dân, sống ở nơng thơn, trình độ, nhận thức lý luận cịn
hạn chế so với mặt bằng chung, vì vậy đội ngũ cán bộ này cần được chú ý bồi
dưỡng về nhiều mặt.
1.1.2.4. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã,
phường, thị trấn tỉnh Thanh Hoá
Thứ nhất, do ảnh hưởng của tập quán lâu đời đã được hình thành trong
lịch sử, tính cách của người Thanh Hóa thể hiện rất đậm nét trong đội ngũ cán bộ
này. Đó là sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong công tác và trong đấu tranh.
Là một vùng đất chuyển tiếp giữa Bắc bộ và Trung bộ, thuận lợi ít,
khắc nghiệt nhiều, Thanh Hóa phải đương đầu đấu tranh chống lại những tai
họa do thiên nhiên gây ra. Để chiến thắng thiên tai, người dân không những phải
dũng cảm vượt qua khó khăn gian khổ mà còn phải rất năng động, sáng tạo trong
hoạt động của mình. Nét đặc trưng này khơng chỉ được phản ánh qua hoạt động
sản xuất mà còn được thể hiện rất rõ qua đấu tranh cách mạng. Qua những cuộc
đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống lại thế lực cầm quyền cũng như trong đấu
23
tranh chống giặc ngoại xâm, nhân dân Thanh Hóa ln thể hiện rõ khí phách của
mình. Chính q trình đấu tranh lâu dài này đã tơi luyện và hình thành nên
những nét đặc thù, tính cách riêng của người dân Thanh Hóa.
Kế thừa truyền thống và tính cách mạnh mẽ đó, đội ngũ cán bộ cơ sở
nói chung, cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn nói riêng ln phát huy nhiệt
tình, tính năng động, sáng tạo trong cơng tác. Là đội ngũ cán bộ mà đa số xuất
thân từ nông dân và trưởng thành trong kháng chiến, trong hoạt động sản xuất
nên họ rất giàu kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Những kinh nghiệm quý
báu thu nhận được từ thực tiễn đã tạo cho đội ngũ cán bộ này có thế mạnh về tư
duy cụ thể, tư duy thực hành, sự năng động, tự chủ trong công tác. Sự năng động
tự chủ này thể hiện qua việc dám nghĩ, dám làm, sáng tạo trong công việc.
Song do được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm, nên sự năng động tự
chủ này một mặt phát huy được khả năng sáng tạo, mặt khác cũng dễ rơi vào
sự tự do, tùy tiện. Năng động, sáng tạo là điều kiện cần thiết đối với cán bộ
lãnh đạo để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình, nhưng để đạt được hiệu
quả cao, tránh được những sai lầm trong công tác cần phải khắc phục hạn chế
trên. Để khắc phục được sự tự do, tùy tiện, rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm đội
ngũ cán bộ này cần được nâng cao nhận thức chính trị, cũng như trình độ lý
luận chính trị nói chung.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn ở Thanh Hóa có
sự nhạy cảm về chính trị
Sự nhạy cảm về chính trị của đội ngũ cán bộ này cũng là kết quả của
sự tôi luyện, thử thách qua chiến tranh. Thông qua những cuộc chiến tranh
chống xâm lược, họ đã hiểu sâu sắc bản chất của kẻ thù, có ý thức rất rõ trong
quan hệ giai cấp. Chính vì vậy trong hoạt động thực tiễn, những cán bộ này
rất nhạy bén trước những vấn đề chính trị, ln có ý thức cảnh giác đối với
thủ đoạn, âm mưu của kẻ địch, đồng thời có ý thức giác ngộ cách mạng cao,
trung thành với lý tưởng cách mạng, tin tưởng vào đường lối của Đảng và con
24
đường đi lên CNXH. Đây là một yếu tố quan trọng đối với người cán bộ làm
công tác cơ sở. Chỉ với sự nhạy cảm và nhận thức chính trị như vậy họ mới có
thể động viên, giáo dục, hướng dẫn quần chúng nhân dân hoàn thành sự
nghiệp cách mạng.
Thứ ba, trình độ học vấn, trình độ chun mơn, đặc biệt là trình độ
LLCT cịn hạn chế. Những hạn chế này do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong
đó có những yếu tố chủ yếu sau:
-Do ảnh hưởng của những năm tháng chiến tranh, thời kỳ bao cấp kéo
dài, điều kiện học tập bị hạn chế, hầu hết cán bộ khơng những khơng có điều
kiện học tập mà cịn phải tập trung sức lực cho công tác, cho chiến đấu, sẵn
sàng chiến đấu.
- Do điều kiện tự nhiên và xã hội. Trước hết do điều kiện tự nhiên: Địa
bàn rộng, diện tích miền núi chiếm tỷ lệ lớn, đi lại khó khăn, cản trở rất nhiều
đến việc học tập ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, cũng chính do giao
thơng khó khăn nên việc chuyển sách báo, tài liệu, thông tin khoa học kỹ
thuật, các phương tiện phục vụ sinh hoạt văn hóa đến các vùng sâu, vùng xa
cũng bị hạn chế. Do đó, việc học tập nâng cao trình độ cho cán bộ, quần chúng
nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đây chính là lý do vì sao cán bộ ở các vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa có trình độ thấp kém hơn ở các vùng đơ thị.
1.2. ĐỔI MỚI CƠNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TỈNH THANH HĨA - QUAN NIỆM, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG ĐỔI MỚI
1.2.1. Quan niệm về đổi mới cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn
1.2.1.1. Quan niệm về giáo dục lý luận chính trị
* Quan niệm về lý luận
Nói về lý luận, Hồ Chí Minh đã định nghĩa rất đơn giản và dễ hiểu là:
"Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem
25
xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng
minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính" [46, tr.233].
Như vậy, về thực chất, lý luận chính là "hệ thống những tri thức đã
được khái quát tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên
hệ cơ bản của hiện thực" [58, tr.341]. Hay nói một cách hồn chỉnh, "lý luận
là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người; là toàn bộ
những tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các
tri thức có tác dụng tái hiện trong lơgíc của các khái niệm cái lơgíc khách
quan của các sự vật" [58, tr.342].
Vì vậy, lý luận khơng thể chỉ là sự mô tả hiện thực khách quan, là sự
sao chép giản đơn các kinh nghiệm trong thực tiễn, mà trên cơ sở phản ánh
hiện thực của thực tiễn, nó phát hiện ra những quy luật vận động và dự báo
những xu hướng, những vấn đề được đặt ra cần giải quyết trong thực tiễn. Lý
luận và thực tiễn nằm trong một thể thống nhất gắn bó, cái này là tiền đề tồn
tại và phát triển của cái kia, ln tác động lẫn nhau trong q trình phát triển.
Thực tiễn đóng vai trị quan trọng trong sự hình thành lý luận. Trong mỗi
bước phát triển, hoạt động thực tiễn lại làm nảy sinh những yêu cầu mới, đòi
hỏi được nghiên cứu khái quát phản ánh và do đó bổ sung vào lý luận những
nhận thức mới. Nhờ đó lý luận hoàn thiện và phát triển hơn. Ngược lại, trong
mỗi hoạt động thực tiễn, lý luận luôn hướng dẫn, mở đường cho thực tiễn
phát triển bằng những tổng thể tri thức nhất định. Khơng có hoạt động thực
tiễn nào đơn thuần là kinh nghiệm cụ thể, cũng như khơng có hệ thống tri
thức lý luận nào không xuất phát từ sự tổng kết thực tiễn. Như C.Mác đã nói:
"Trong một dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo một mức độ
mà cách mạng là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy" [39, tr.582].
Vì vậy, giữa lý luận và thực tiễn không thể tuyệt đối hóa một mặt nào.
Tuyệt đối hóa thực tiễn sẽ dẫn đến sự sùng bái chủ nghĩa kinh nghiệm, coi
kinh nghiệm vượt lên tất cả, có kinh nghiệm là có thể thành cơng, có thể giải