1
\Ở ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
V.I.Lênin cho rằng, sau khi có đường lối, chính sách đúng, thì cán bộ
quyết định tất cả, quyết định ngay cả vận mệnh của đường lối, chính sách ấy:
“Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay, đó là then
chốt; nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy
lộn” [43, tr.449]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc” [52, tr.269], “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém” [52, tr.273]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ,
là khâu then chốt trong công tác xây dựng đảng” [27, tr.66]. Nghị quyết số 22NQ/TW, ngày 02/2/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
khóa X về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” đã nhấn mạnh:
Chăm lo đội ngũ cấp uỷ viên, trước hết là bí thư cấp uỷ và cán
bộ, đảng viên thật sự tiền phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức
cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Kiên quyết thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng
lực, không hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời đưa ra khỏi Đảng những
người không đủ tư cách đảng viên [36, tr.96].
Thực tiễn đã chứng minh tính chính xác của đường lối và việc cụ thể
hóa đường lối chính xác, kịp thời cũng như việc thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng có thắng lợi hay không đều tùy thuộc vào đội ngũ cán bộ.
Trong suốt hơn 80 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là những nhân tố quyết định sự
2
thành, bại của cách mạng. Đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở, coi
đây là vấn đề mấu chốt, quyết định toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Phường là đơn vị hành chính, cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính
bốn cấp ở nước ta. Đó là một loại cơ sở hành chính với đầy đủ các mặt: kinh
tế, chính trị, văn hố, xã hội,…nơi diễn ra cuộc sống hàng ngày của người
dân. Dù là cấp thấp nhất, cấp cuối cùng trong thang bậc quản lý, nhưng
phường là mắt khâu vô cùng quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của
cả xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX đã xác định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn là một
trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, trong
đó yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức vận
động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo
cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở [31, tr.167-168].
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung đã có bước
phát triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ những yếu kém, bất
cập về kiến thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ
mới. Vì vậy, một số cán bộ gặp khó khăn, lúng túng, thậm chí va vấp, vi phạm
trong thực thi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, một bộ phận cán bộ phường suy thoái về phẩm chất đạo đức, quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí... bị kỷ luật, thậm
chí bị truy tố, xét xử theo pháp luật. Qua thực tế tiếp xúc, làm việc với đội ngũ
cán bộ phường, khơng ít người dân tỏ ra bức xúc trước hiện tượng cửa quyền,
quan liêu, giải quyết công việc của người dân theo cơ chế “xin - cho”. Hiện
nay, ở khơng ít nơi, người dân vẫn phải chứng kiến những việc làm sai trái
3
của một bộ phận cán bộ cơ sở. Tại các cơ quan hành chính, vẫn cịn nhiều cán
bộ xử lý cơng việc thiếu trách nhiệm, có thái độ, tác phong khơng đúng mực
khi tiếp xúc với nhân dân. Thậm chí, khơng ít cán bộ vơ cảm trước nỗi đau
của người dân. Một số biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu, như cán bộ địa chính
vịi vĩnh người dân khi tiến hành đo đạc diện tích đất, làm giấy tờ "sổ đỏ, sổ
hồng"; cán bộ chính sách làm hồ sơ giả để hưởng chế độ thương binh. Và
khơng ít cán bộ phường có thái độ hách dịch, cửa quyền khi người dân địa
phương đến gửi đơn thư khiếu nại. Những hiện tượng tiêu cực trên chứng tỏ
chất lượng đội ngũ cán bộ phường hiện nay ở nhiều địa phương vẫn cịn
khơng ít tồn tại, bất cập. Chính những thái độ và cung cách làm việc không
đúng chuẩn mực ấy của đội ngũ cán bộ ở cơ sở ngày càng làm giảm lòng tin
của quần chúng nhân dân đối với Ðảng và bộ máy chính quyền; đồng thời đặt
ra địi hỏi bức thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ phường diện Ban Thường vụ Quận uỷ (BTVQU) quản lý.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là đô thị lớn nhất nước ta, trung
tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học cơng nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có
vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Trong hơn 25 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, 15 năm thực hiện phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư”, Đảng bộ và nhân dân thành phố đã phát huy huy cao
độ truyền thống cách mạng kiên cường, năng động, sáng tạo của một thành
phố trẻ, thành phố anh hùng để vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được
thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Thành phố đã và đang phát huy vai trị trung
tâm của mình trên nhiều lĩnh vực so với khu vực và cả nước, có những đóng
góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những thành tựu trên, Thành phố cũng cịn bộc lộ nhiều khó
khăn, tồn tại như Nghị quyết 20 - NQ/TW, ngày 18/11/2002, của Bộ Chính trị
đã nêu như sau:
4
Kinh tế phát triển chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh chưa cao; nhiều nguồn lực quan trọng và những yếu tố
thuận lợi, thế mạnh của Thành phố chưa được khai thác, sử dụng có
hiệu quả”, “Kết cấu hạ tầng (giao thơng vận tải, cấp thốt nước, vệ
sinh môi trường...) tuy được chú trọng, cải tạo và xây dựng mới
nhưng vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế, cải thiện đời sống nhân dân. Tình trạng ách tắc giao thơng, ngập
nước trong mùa mưa, ơ nhiễm mơi trường vẫn nghiêm trọng, có
mặt ngày càng gay gắt hơn.
Sự phát triển về văn hoá, nhất là các lĩnh vực văn hoá đỉnh cao
chưa tương xứng với sự phát triển kinh tế, với vai trò, vị trí là trung
tâm văn hố lớn của cả nước. Quản lý các hoạt động văn hố, báo
chí, xuất bản trên địa bàn chưa chặt chẽ, cịn những hoạt động
khơng lành mạnh”, “Công tác xây dựng Đảng, nhất là nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, của đội
ngũ cán bộ Thành phố chưa theo kịp với yêu cầu của thời kỳ phát
triển mới. Công tác tổ chức cán bộ, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng,
đánh giá, bố trí, luân chuyển cán bộ chưa có nền nếp, kết quả chưa
tốt; cơng tác quản lý, kiểm tra chưa phát hiện, ngăn ngừa, hạn chế
kịp thời được sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng
viên. Tình trạng mơ hồ, mất cảnh giác, phai nhạt lý tưởng, đặc biệt
là suy thoái đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng của một bộ
phận đảng viên đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và gây bất
bình trong nhân dân. Nhìn chung, trên địa bàn Thành phố vẫn cịn
tích tụ nhiều vấn đề phức tạp cản trở sự ổn định và phát triển mạnh
mẽ, vững chắc của Thành phố [10].
Những vấn đề trên phần nào đã cản trở sự đi lên của Thành phố, địi hỏi
chúng ta cần tìm hiểu thấu đáo mọi ngun nhân, từ đó đề ra những giải pháp
5
khả thi để khắc phục đưa thành phố từng bước phát triển ngang tầm giai đoạn
mới. Một trong những giải pháp có ý nghĩa sống cịn chính là cơng tác cán bộ.
Việc tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có năng lực, phẩm chất đạo đức, nhiệt tình cách mạng cao, am
hiểu về nội dung nhiệm vụ, thực hiện các giải pháp một cách sáng tạo để thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của thành phố như Nghị quyết của
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ IX (2010 - 2015) đã đề ra.
Năm 1997, Thành phố Hồ Chí Minh có từ 18 đơn vị hành chính (12
quận, 06 huyện) đến nay đã phát triển thành 24 đơn vị hành chính (19 quận,
05 huyện) được tách ra từ các huyện ngoại thành và quận ven của Thành
phố. Các quận mới được hình thành và phát triển hầu hết từ những vùng
nông thôn sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, đến nay đã từng bước hình
thành đời sống đơ thị với nhiều dự án, cơng trình trọng điểm, khu đơ thị
mới,….và như một tất yếu, đây cũng là những nơi có đơng dân cư từ các
tỉnh khác trên cả nước về làm ăn và sinh sống. Và cũng chính những điều
nêu trên đã đặt ra hàng loạt các nhiệm vụ nặng nề, phức tạp như: về quản lý
quy hoạch; quản lý đô thị, quản lý đất đai; giải phóng mặt bằng, xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,
phịng chống các tệ nạn xã hội, quản lý dân cư, vệ sinh môi trường, đảm
bảo an ninh chính trị - trật tự an tồn xã hội, các vấn đề lợi dụng dân tộc,
tơn giáo của các phần tử phản động nhằm kích động gây tư tưởng gây mất
đoàn kết trong nội bộ nhân dân,… Thực trạng ấy đang yêu cầu phải được
giải quyết một cách căn cơ, hiệu quả ngay từ cơ sở.
6
Tất cả những vấn đề trên đã đặt ra một địi hỏi bức bách đối với đội ngũ
cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ phường mới thành lập diện Ban Thường vụ
Quận uỷ quản lý nói riêng phải thật sự vững mạnh, có phẩm chất, năng lực,
phương pháp, phong cách công tác tốt, nhạy bén, năng động, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tình
hình mới. Với những lý do trên tôi chọn đề tài: "Chất lượng đội ngũ cán bộ
phường mới thành lập diện Ban Thường vụ Quận uỷ quản lý ở Thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay" làm luận văn Thạc sỹ Khoa học chính trị,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ, công tác cán bộ, đặc biệt về đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở là nội dung đã được nhiều bộ ngành và các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu các cơng trình đó đã được nghiệm thu, công
bố và đăng tải trên các sách, báo, tạp chí như:
* Sách và đề tài khoa học:
- Nghiên cứu của Học viện Nguyễn Ái Quốc, Đề tài khoa học cấp Bộ:
"Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt
cấp cơ sở", Hà Nội,1992.
- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Sầm chủ biên: "Xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới",
Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.
- Hồ Bá Thâm: "Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh
đạo hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, 2003.
- Trần Thành: "Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị
Quốc gia, 2006.
- Nguyễn Duy Hùng: “Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2008.
7
- Mai Đức Ngọc: “Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc
gia, 2008.
* Những luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ:
- Hồ Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã hiện nay", Luận án Tiến sỹ Triết học, 1994.
- Ngơ Kim Ngân: “Khắc phục sự thối hóa biến chất của đảng viên
trong cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sỹ Lịch sử chuyên
ngành Xây dựng Đảng, 1996.
- Phạm Công Khâm: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng
nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay", Luận án tiến sỹ Triết học, 2000.
- Nguyễn Mậu Dựng: "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay", Luận án tiến sỹ Lịch sử, 2000.
- Nguyễn Văn Côi: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sỹ lịch sử,
2002.
- Hà Thị Oanh: “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính
trị các xã ở tỉnh Sơn La hiện nay - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sỹ
khoa học chính trị, 2004.
- Trần Trung Trực: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính
trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay",
Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, 2005.
- Phan Thị Thúy Vân: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở
thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sỹ khoa học
chính trị, 2005.
- Trần Thị Bích Thuỷ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp phường, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay",
Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, 2006.
8
* Các bài đăng trên báo, tạp chí:
- Mai Đức Ngọc: “Nâng cao năng lực của người lãnh đạo chủ chốt cấp xã,
phường”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3-2002.
- Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2003.
- Mai Đức Ngọc: “Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong thời
kỳ mới”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 1-2004.
- Vĩnh Trọng: "Qui hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở", Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 1 và 2/2004.
Nhìn chung, những đề tài, sách, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài báo,
tạp chí nêu trên tập trung bàn về vị trí, vai trị của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã,
phường và đề ra những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ này trong giai đoạn hiện
nay. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều tác giả đã luận giải những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
về vị trí, vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, phường. Các cơng trình này đã
phác hoạ, làm rõ vai trị, vị trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở, với tư cách là kiến
thức nền và liên quan chặt chẽ đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
phường mới thành lập diện BTVQU quản lý ở TP.HCM mà luận văn đề cập đến.
Đặc biệt, quyển sách Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo phường hiện nay của tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng đã phân tích, làm rõ cơ
sở lý luận, thực tiễn về đặc điểm, chức năng, vai trò của phường, của đội ngũ cán bộ
phường, những căn cứ khoa học của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường; trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đã đưa ra những giải pháp để xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường trong giai đoạn hiện nay.
Những cơng trình trên đây cũng như một số bài viết khác có liên quan
giúp cho tác giả tham khảo, kế thừa tư tưởng, nội dung và phương pháp trong
quá trình nghiên cứu viết luận văn. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có luận văn,
luận án, cơng trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề chất lượng đội ngũ cán
9
bộ phường mới thành lập diện BTVQU quản lý ở TP.HCM giai đoạn hiện nay.
Đó chính là những ý tưởng gợi mở cho tác giả tiến hành nghiên cứu vấn đề trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của chất lượng đội ngũ cán bộ phường
mới thành lập diện BTVQU quản lý, qua đó đề ra phương hướng, giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ phường mới thành lập diện BTVQU quản lý ở
TP.HCM giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
+ Làm rõ các khái niệm, quan niệm, tiêu chí chất lượng đội ngũ cán
bộ phường mới thành lập diện Ban Thường vụ Quận uỷ quản lý ở thành phố
Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
+ Khảo sát đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ
phường mới thành lập diện BTVQU quản lý, nêu nguyên nhân của thực trạng
và những kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ phường mới thành
lập diện BTVQU quản lý ở TP.HCM giai đoạn hiện nay.
+ Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ phường mới thành lập diện BTVQU quản lý ở TP.HCM giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Chất lượng đội ngũ cán bộ phường mới thành
lập diện BTVQU quản lý ở TP.HCM giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ
phường mới thành lập diện BTVQU quản lý ở TP.HCM qua khảo sát một số
quận mới thành lập (2, 7, 9, 12, Thủ Đức) từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
10
Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta
về cán bộ, công tác cán bộ, chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của đề tài là những tổng kết của Đảng ta, của thành
phố Hồ Chí Minh và của Quận uỷ các quận mới thành lập.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp lơgíc và lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra xã
hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm những luận cứ khoa học, quan điểm và quan
niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ phường hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, thiết thực, khả
thi góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ phường mới thành lập diện
BTVQU quản lý ở TP.HCM giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở trường Cán bộ Thành phố, các
Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện ở TP.HCM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
11
Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ PHƯỜNG MỚI THÀNH LẬP
DIỆN BAN THƯỜNG VỤ QUẬN UỶ QUẢN LÝ Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRỊ, ĐẶC ĐIỂM CỦA PHƯỜNG VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
PHƯỜNG DIỆN BAN THƯỜNG VỤ QUẬN ỦY QUẢN LÝ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH HIỆN NAY
1.1.1. Vị trí, vai trị của phường và đặc điểm các phường mới
thành lập ở Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Vị trí, vai trị của Phường
Theo Quyết định số 94/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) ngày 26-9-1981 thì “phường” là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội
thị, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng từ 7.000 đến 12.000
dân. Về phân cấp tổ chức, phường tương đương với “xã”, “thị trấn” là đơn vị
hành chính cơ sở ở ngoại thành, ngoại thị, khu vực nông thôn. Cũng như xã
và thị trấn, phường là cấp cơ sở có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hố, xã
hội, an ninh, quốc phịng ở cơ sở. Tuy nhiên, chính quyền phường khơng quản
lý tồn diện các hoạt động sản xuất như chính quyền xã, thị trấn, mà chỉ tập
trung vào một số mặt như quản lý đơ thị, quản lý dân cư, văn hố, xã hội,….
Hiện nay, tại thành phố lớn đang từng bước phân cấp quản lý cho chính quyền
phường. Theo đó, chính quyền phường chủ yếu thực hiện chức năng quản lý
và hướng dẫn thi hành pháp luật với nhiệm vụ cụ thể trong các lĩnh vực:
- Quản lý dân cư, hộ tịch, hộ khẩu và các chính sách khác của Nhà
nước có liên quan đến biến động dân số.
- Quản lý đất đai, trật tự xây dựng, biến động dân số.
12
- Quản lý an ninh, trật tự an toàn xã hội và thi hành Luật Nghĩa vụ quân
sự.
- Thực hiện chính sách lao động - thương binh, xã hội và các chính sách
khác có liên quan.
- Thu thuế đối với các đối tượng kinh doanh dưới vốn pháp định.
Các nhiệm vụ khác do chính quyền cấp trên và các cơ quan ngành dọc
trực tiếp thực hiện. Tuy không quản lý toàn diện các mặt hoạt động, phát triển
của địa phương, nhưng xuất phát từ tình hình đời sống kinh tế - văn hố - xã
hội của khu vực đơ thị đa dạng, tập trung, phức tạp, nhiều biến động và nhạy
cảm về lợi ích giữa các tầng lớp dân cư, trách nhiệm của phường rất nặng nề
và quan trọng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chăm lo xây dựng cấp xã. Người
đã tổng kết và rút ra bài học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: “Cấp xã là gần
gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
cơng việc đều xong xi” [52, tr.371]. Do vậy, cấp xã, phường có vị trí, vai
trị đặc biệt quan trọng đối với hệ thống chính trị nước ta.
Phường nói chung và tất cả các phường mới thành lập nói riêng đều là
đơn vị hành chính cuối cùng trong hệ thống quản lý nhà nước, là nơi trực tiếp
tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị cụ thể của mỗi cơ sở; nơi thực hiện
hóa nghị quyết của Đảng trong trong cuộc sống, đồng thời cũng là nơi khởi
đầu của những sáng kiến, kinh nghiệm để bổ sung, điều chỉnh chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn. Gần nhất với thực
tiễn và trực tiếp nhất với cuộc sống nên phường là nơi trực tiếp tổ chức thực
hiện đường lối, chính sách nơi tổ chức hành động. Mọi đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước có trở thành hiện thực hay khơng đều tùy thuộc vào việc
tổ chức triển khai thực hiện ở cơ sở. Phường còn là trường học thực tiễn để
giáo dục, rèn luyện cán bộ, làm cho cán bộ trưởng thành, phát huy được phẩm
13
chất, năng lực trong thực tiễn cơng tác, nhờ đó làm tăng uy tín, ảnh hưởng của
Đảng, Nhà nước đối với nhân dân.
Dù là ở cấp thấp nhất, cấp cuối cùng trong thang bậc quản lý, nhưng
phường là mắt khâu vô cùng quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của
cả xã hội. Là cấp thấp nhất nhưng lại là tầng sâu nhất, là nền tảng của cả hệ
thống chính trị, khơng thể thiếu trong sự vận hành tổng thể của cả hệ thống
chính trị. Sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục
tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ở nước ta chỉ có
thể đạt được khi nó bắt nguồn từ phường, xã. Nói cách khác, cơ sở là điểm
“dừng chân” của mọi chủ trương, chính sách của các cấp, các ngành về tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Đồng thời còn là nơi phản ánh tâm tư, tình cảm,
nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Nó cịn là địa chỉ
quan trọng nhất, vì xét đến cùng phường là nơi quyết định mà mọi chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phải tìm đến và thực hiện hóa trong
cuộc sống.
Phường là nơi hình thành và phát triển cộng đồng dân cư, có sự cố kết
và quan hệ mật thiết lâu đời với nhau về nhiều mặt, là nơi cư trú của nhiều
dân tộc và đa số tôn giáo. Cùng với xã, thị trấn, phường còn là một trong
những nơi lưu giữ nhiều giá trị lịch sử và giá trị hiện thực của văn hố q
hương, những di tích văn hố, di tích lịch sử cách mạng, văn hố truyền thống
của địa phương, có giá trị thẩm mỹ và giáo dục cao góp phần vào việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hố dân tộc.
Cùng với xã, thị trấn, phường được xem như những tế bào quan trọng
của hệ thống tổ chức Đảng và của bộ máy nhà nước. Xét về mặt tổ chức
Đảng, phường là tổ chức cơ sở Đảng giữ vị trí nền tảng của Đảng, đóng vai
trị là hạt nhân chính trị ở cơ sở, đảm bảo các hoạt động đi đúng đường lối,
quan điểm của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua các hoạt
động của Đảng bộ (chi bộ) phường mà Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu.
14
Đây còn là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện kết nạp đảng viên, tiến hành các
hoạt động xây dựng nội bộ Đảng.
Về mặt nhà nước, Theo Quyết định 94/HĐBT, phường là đơn vị hành
chính cấp cơ sở có chức năng “quản lý hành chính nhà nước, quản lý xã hội,
quản lý và chăm lo phục vụ đời sống dân cư” đảm bảo cho mọi đối tượng trên
địa bàn phường chấp hành đúng các chủ trương, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các quy định của Thành phố về quản lý kinh tế- xã hội và đơ thị.
Phường có chức năng, nhiệm vụ là:
Thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế nhiều thành phần đúng
chính sách, pháp luật, chú trọng phát triển sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ; đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch về kinh
tế- xã hội. Tạo thêm việc làm cho người lao động, đời sống của nhân
dân ổn định và được cải thiện. Lãnh đạo thực hiện tốt công tác quy
hoạch và quản lý nhà nước về đô thị; bảo vệ môi trường sinh thái; cơ
sở vật chất được tăng cường; xây dựng nếp sống văn hóa, đồn kết
khu dân cư, an ninh trật tự trên địa bàn; ngăn chặn có hiệu quả các tệ
nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy [32, tr.464 - 465].
Rõ ràng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có đến được với
dân hay khơng, tâm tư nguyện vọng của dân có được Đảng xem xét và giải
quyết kịp thời hay không, an ninh trật tự có được giữ vững hay khơng... phần
lớn cũng từ cơ sở. Phường có mạnh thì quận, thành phố mới mạnh. Ngược lại,
phường yếu kém, không ổn định, có nhiều điểm nóng thì quận, thành phố
khơng ổn định, khơng phát triển được, thậm chí đối với TP.HCM thì điều đó
cịn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của khu vực, của đất nước, đến uy tín
và thanh danh của toàn Đảng ta.
1.1.1.2. Đặc điểm của các phường mới thành lập ở TPHCM
* Những đặc điểm cơ bản của TP.HCM
15
Năm 1698, Chúa Nguyễn cử Thống soái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh
lược đất Phương Nam, khai sinh ra thành phố Sài Gòn. Vào ngày 5 tháng 6
năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước. Sau khi đất nước thống nhất, Sài Gịn được đổi tên thành
“Thành phố Hồ Chí Minh” vào ngày 2-7-1976. Với hơn 300 năm hình thành
và phát triển, thành phố có rất nhiều cơng trình kiến trúc cổ, nhiều di tích và
hệ thống bảo tàng phong phú.
Thứ nhất, đặc điểm địa lý:
TP.HCM nằm ở trung tâm Nam Bộ, phía Nam của Đơng Nam Bộ và rìa
phía Bắc của Tây Nam Bộ, gắn kết hai miền Đông - Tây Nam Bộ, có vĩ độ
Bắc từ 10038’ đến 11010’, kinh độ Đông từ 106.22’ đến 106.54’, được bao bọc
bởi 3 mặt đất liền tiếp giáp với Tây Ninh phía Tây - Tây Bắc, Bình Dương
phía Bắc, Bà Rịa - Vũng Tàu phía Đơng Nam, Long An phía Tây - Tây Nam
và một mặt phía Nam giáp biển Đơng. Diện tích đất tự nhiên của thành phố là
2.095,24km2, chiếm 0,67% diện tích của cả nước. Đơn vị hành chính được
chia thành 24 quận, huyện với 322 phường, xã và thị trấn và 1975 ấp - khu
phố (372 ấp, 1603 khu phố). Địa giới thành phố với chiều dài từ Bến Dược
(huyện Củ Chi) đến Cần Thạnh (huyện Cần Giờ) là 102km, chiều ngang từ
phường Linh Xuân (quận Thủ Đức) - tiếp giáp với xã Đơng Hịa (huyện Dĩ
An - Bình Dương) xuống huyện Bình Chánh là 47 km. Nơi hẹp nhất của
thành phố là ngã ba Nhà Bè - Cần Giuộc chỉ có 7 km.
TP.HCM nằm ở hạ lưu sơng Sài Gịn, sơng Đồng Nai và một phần của
chi lưu hệ thống sơng Vàm Cỏ. Có thể nói, Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh
thuộc lưu vực sơng Đồng Nai Bến Nghé- Cửu Long, nằm trọn phần hạ lưu và
được bồi đắp từ những con sông mang nặng phù sa nên thành phố có địa hình
tương đối bằng phẳng, thuận lợi nhiều mặt để phát triển kinh tế xã hội. Nằm
trên lằn ranh giữa miền đất cao và miền đất thấp của dải đất phía Nam Tổ
quốc, kéo từ Tây sang Đông, từ Tây Ninh xuống trung tâm thành phố và tiếp
16
tục chạy dài xuống Phước Lễ - Long Điền. Tuy địa hình kéo dài hơn 100 km
cắt ngang dải đất phía Nam nhưng độ cao của các nơi thành phố so với mặt
nước biển chênh lệch không đáng kể. Địa hình phía Bắc có cao trình từ 5m
đến 20m. Nó tương ứng với với địa hình chạy từ Tây Bắc Quận 9 qua Thủ
Đức lên vùng Đơng Nam của Bình Dương, ngược xuống Gị Vấp, qua Hóc
Mơn lên Củ Chi, tiếp giáp Tây Ninh. Ngược lại, địa hình phía Nam có cao
trình dưới 5m, có nơi chỉ cao tới 0,5m so với mực nước biển; thậm chí vùng
duyên hải thành phố cao so với mặt nước biển chỉ có 0,3m. Địa hình phía
Nam thành phố tương ứng với một vùng rộng lớn, chạy từ Đông Nam Quận 9
xuống Quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ qua Cần Đước Long An và từ Bình Thạnh
qua trung tâm thành phố xuống Quận 5, Quận 6, Quận 8, về Bình Chánh. Với
đặc trưng như vậy, thành phố hội tụ những điều kiện khá thuận lợi cho quá
trình lịch sử phát triển liên tục và mở rộng không ngừng, trở thành một đô thị
ngày càng sầm uất, năng động và hiện đại.
Thứ hai, đặc điểm về khí hậu:
TP.HCM nằm trong tổng thể khí hậu vùng Nam Bộ, với hai mùa mưa
nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa trung bình hàng
năm đạt từ 1500 đến 2000mm, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Khí
hậu nóng ẩm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 270 đến 370C, độ ẩm trung bình
hàng năm từ 73 đến 770. Vì vậy, TP.HCM có thuận lợi lớn là khí hậu ơn hịa,
ít khi bị bão tố, yếu tố địa lợi này có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện thuận
lợi cho Thành phố phát triển liên tục, trở thành trung tâm kinh tế và đô thị lớn
nhất cả nước.
Thứ ba, đặc điểm kinh tế:
TP.HCM nằm ở trung tâm Nam Bộ, phía Nam của miền Đơng Nam Bộ
và rìa Bắc của miền Tây Nam Bộ, là đầu mối giao thương lớn, nối liền với các
tỉnh trong vùng và là cửa ngõ giao thương với quốc tế.
17
Với diện tích tự nhiên là 2095,24 km2, dân số thường trú và tạm trú là
8,3 triệu người (theo kết quả điều tra dân số ngày 01/4/2009). Nếu cộng với
khoảng 1,4 triệu dân nhập cư sinh sống trên địa bàn, mật độ dân số 2687
người/km2, khu vực nội thành có diện tích 442,13km2, khu vực ngoại thành
có diện tích 1652,88km2. Về quy mơ thành phố chỉ chiếm 0,6% diện tích và
8,3% dân số cả nước nhưng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đã đóng góp
20,2% tổng sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công nghiệp và 44% dự
án đầu tư nước ngoài. Năm 2009, thu ngân sách của thành phố đạt 135.362 tỷ
đồng. Số dự án đầu tư vào thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án đầu tư
nước ngồi trên cả nước, có 3.536 dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi cịn hiệu
lực đến cuối năm 2009 với tổng vốn 27.390 triệu USD.
Là một trung tâm kinh tế lớn nhất nước, nằm trong khu kinh tế trọng
điểm phía Nam Tổ quốc có những đặc điểm riêng so với các địa phương khác.
Trước hết TP.HCM sớm đi vào kinh tế hàng hóa, sớm phát triển kinh tế thị
trường. Tuy ra đời sau nhưng TP.HCM với điều kiện thuận lợi nên đã nhanh
chóng trở thành trung tâm kinh tế hàng hóa của cả khu vực. Các hoạt động
kinh tế gắn với cơ chế thị trường từ rất sớm đã tạo ra cho thành phố một kiểu
hoạt động kinh tế năng động, tạo tiền đề cho thành phố đi trước “cả nước” về
“đổi mới”, về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn các địa phương khác trong cả nước và một số thành phố khác trên
thế giới, sự phát triển toàn diện của TP.HCM trong hơn 300 năm qua là liên
tục, sự phát triển trước hết là tốc độ tăng trưởng kinh tế dù chiến tranh hay
trong hịa bình, dù là thực dân cũ hay thực dân mới, dù là thời kỳ khủng hoảng
hay thời kỳ đổi mới. Trải qua các thời kỳ, tuy có mức độ thuận lợi và thách thức
khác nhau nhưng kinh tế thành phố đều tăng trưởng và phát triển. Trong 30 năm,
qua sự thống kê cho thấy trung bình sự tăng trưởng của thành phố thường gấp
1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng của cả nước.
18
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thành phố là kinh tế
mở, gắn kết với khu vực và quốc tế. Do điều kiện địa lý, lịch sử và mối giao
lưu khu vực mà kinh tế thành phố được phát triển trong sự quan hệ chặt chẽ
với kinh tế miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ và Tây Nguyên. Thường
xuyên quan hệ trực tiếp với kinh tế thế giới. Nội dung chủ yếu của mối quan
hệ là hoạt động thương mại (28 trung tâm mua sắm, 92 siêu thị và 230 chợ
truyền thống, trong đó, chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại
từ xưa đến nay của thành phố), hoạt động ngoại thương. TP.HCM là trung tâm
tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam. Thành phố dẫn đầu cả nước về số
lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng. Doanh thu của hệ
thống ngân hàng thành phố chiếm khoảng 1/3 tổng doanh thu toàn quốc. Sự
phát triển kinh tế thành phố không chỉ là yêu cầu nội tại mà còn giữ vai trò
động lực, vai trò đầu tàu cho cả khu vực. Kinh tế thành phố chịu ảnh hưởng
sớm nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất của các biến động kinh tế thế giới, nhất là
các nước trong khu vực.
Hơn nữa thành phố lại có nguồn nhân lực dồi dào, trong chiến lược
phát triển ổn định và bền vững của mỗi quốc gia thì con người là yếu tố quyết
định trong phát triển kinh tế. TP.HCM là nơi hội tụ nguồn nhân lực, có thế
mạnh để thu hút nguồn nhân lực của cả nước. Theo thống kê, có khoảng 38%
các nhà khoa học của cả nước hoạt động trên địa bàn thành phố, có 28% các
trường đại học, cao đẳng cùng nhiều viện nghiên cứu tạo nguồn nhân lực có
chất lượng cao cho TP.HCM. Vì vậy con người ở TP.HCM có kiến thức, có
tay nghề, có kinh nghiệm quản lý, luôn năng động sáng tạo thường xuyên
được bổ sung nhân tố mới, thực sự là tiềm năng và thế mạnh của thành phố.
Vấn đề quan trọng là thành phố phải có chính sách tồn diện để thu hút, sử
dụng và điều chỉnh nguồn nhân lực đó cho phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế
thành phố, đặc biệt là quy hoạch, đào tạo bổ sung đội ngũ cán bộ có đủ đức,
tài cho cơ sở.
19
Thứ tư, đặc điểm văn hóa và tính cách văn hóa
Văn hóa Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh hình thành trên nền tảng
của truyền thống văn hóa Việt Nam bên cạnh đó lại mang những đặc điểm
riêng của vùng văn hóa Nam Bộ. Qua hơn 300 năm lịch sử đầy biến động, nó
đã hình thành và phát triển trong sự giao lưu mật thiết với văn hóa khu vực và
ngày càng có xu hướng tiếp cận và chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.
Nhưng dù phát triển đến đâu, thì trong bản chất, văn hóa Sài Gịn - Thành phố
Hồ Chí Minh vẫn là một nền văn hóa thống nhất, đa dạng trong nền văn hóa
truyền thống Việt Nam.
Người dân TP.HCM trước hết là những cư dân từ khắp các miền đất
nước đến lập nghiệp tại vùng đất Nam Bộ, ngay từ những ngày đầu tiên cũng
luôn tự ý thức mình là người Việt Nam, TP.HCM của mình là một bộ phận
của đất nước Việt Nam, do đó đã ln sống trong khn khổ nền đạo lý
truyền thống Việt Nam. Trong gần 2 thế kỷ Trịnh - Nguyễn phân tranh, mặc
dù các chúa Nguyễn đã thi hành một số cải cách về phong tục tập quán với ý
đồ cát cứ lâu dài song nhân dân hai miền vẫn tuân theo một số nền đạo lý
chung và cơ bản vẫn tồn tại cho tới ngày nay.
Nam Bộ do những năm dài ly cách cũng như do những điều kiện địa
lý, kinh tế, lịch sử khác với miền Bắc nên Nam Bộ cũng có những đặc điểm
riêng, nổi bật nhất tại TP.HCM, thành phố có vị trí trung tâm và có tính hội tụ
văn hóa cao ngay từ khi thành lập. Những đặc điểm đó khiến cho người dân
TP.HCM có một phong cách riêng, một tính cách văn hóa riêng. Ở đây, chúng
ta cần tìm hiểu tính cách văn hóa riêng ấy, đã và đang biểu hiện trong mọi lĩnh
vực hoạt động của người dân TP.HCM, trong lễ nghĩa cũng như trong cách
ứng xử văn hóa và lý giải nó trên cơ sở những đặc điểm của Sài Gịn - Nam
Bộ. Xét từ bối cảnh tự nhiên (địa lý - khí hậu), bối cảnh xã hội (lịch sử - kinh
tế) và nguồn gốc cư dân dưới góc độ văn hóa, những bối cảnh nêu trên chính
là một trong những ngọn nguồn cơ bản dẫn đến sự hình thành tính cách văn
hóa của TP.HCM.
20
Thứ năm, về đội ngũ cán bộ
TP.HCM hiện có gần 100.000 cán bộ, công chức và viên chức làm việc
tại các đơn vị, tổ chức, cơ quan hành chính thuộc hệ thống chính quyền các
cấp. Trong đó, đội ngũ cơng chức thừa hành cơng vụ có khoảng 11.000 người.
Tuy nhiên, theo ước tính chỉ có chưa đến 10% trong đội ngũ trên có đủ trình
độ, năng lực đáp ứng được u cầu xây dựng nền hành chính cơng. Theo kết
quả thống kê số liệu phục vụ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần IX (tháng 9 năm
2010), 89,3% CB, ĐV có học vấn tốt nghiệp THPT, 9,3% trung học cơ sở và
1,3% tiểu học. Về trình độ LLCT, có 10% CB, ĐV có trình độ cao cấp, cử
nhân; 28,5% trung cấp, 34,6% sơ cấp, 26,9% chưa được đào tạo, bồi dưỡng
về LLCT. Về chun mơn, nghiệp vụ, có 72,2% CB, ĐV được đào tạo từ trình
độ trung cấp trở lên, 27,8% chưa qua đào tạo [21]. Cán bộ công tác tại các cơ
quan, ban ngành quận, huyện và phường, xã đa số trưởng thành trong giai
đoạn đổi mới, chịu khó học tập, nâng cao trình độ kiến thức, có quan điểm
chính trị rõ ràng và phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm. Một số
cán bộ trẻ năng động, tích cực nhiệt tình với cơng việc, có trình độ năng lực
công tác chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của giai đoạn mới.
Trong tương lai, thành phố sẽ phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, trở thành
một thành phố văn minh hiện đại có tầm cỡ ở khu vực Đông Nam Á.
*Khái quát về các phường mới thành lập ở TP.HCM
TP.HCM từ 18 đơn vị hành chính vào năm 1997, đến nay đã phát triển
thành 24 đơn vị hành chính, trong đó có 7 quận mới được thành lập gồm:
quận 2, 7, 9, 12, Thủ Đức (được thành lập theo Nghị định 03/CP, ngày 6 tháng
1 năm 1997của Chính phủ) và quận Tân Phú, Bình Tân (được thành lập theo
Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05/11/2003 của Chính phủ). Các quận
mới này được tách ra đa số từ các huyện ngoại thành. Đặc điểm kinh tế - xã
hội lớn nhất của các vùng này là đang trong q trình chuyển dịch từ sản xuất
nơng nghiệp sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ; đời sống nông thôn đang
21
chuyển từng bước sang đời sống đô thị. Điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi
dẫn đến sự thay đổi trong đời sống tâm lý, lối sống, nếp nghĩ của người dân
trong những vùng đơ thị hóa này. Lối sống thanh bạch vốn có của người nơng
dân đã từng bước được thay thế bằng lối sống của người dân thành thị.
Bảy quận mới của TP.HCM được hình thành hầu hết từ các huyện
ngoại thành và vùng ven của thành phố, như: Quận 2 và quận 9 nằm ở cửa
ngõ phía Đơng của thành phố, quận Thủ Đức nằm phía Đơng - Đơng Bắc;
Quận 7 nằm phía Nam; Quận 12 nằm về phía Tây Bắc; quận Tân Phú, Bình
Tân nằm về phía Tây Nam. Do q trình phát triển và tăng nhanh dân số, nhất
là tăng dân số cơ học do sự phát triển nhiều cụm công nghiệp thu hút nhiều
lao động, nhiều khu dân cư mới được hình thành.
Một đặc điểm chung của các quận mới thành lập tại TP.HCM là diện
tích đất nơng nghiệp thu hẹp rất nhanh do sự hình thành các khu cơng nghiệp,
khu chế xuất và các cụm dân cư mới, như: khu chế xuất Tân Thuận - quận 7,
chiếm 300 ha, khu công nghiệp Tân Bình - quận Tân Phú, chiếm 250 ha, khu
cơng nghiệp Linh Trung 1 và 2 - quận Thủ Đức chiếm 120 ha, khu cơng
nghiệp Tân Tạo - quận Bình Tân chiếm 422 ha…và nhiều khu dân cư mới
hình thành từ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nơng nghiệp như khu dân
cư Phú Mỹ Hưng - quận 7 chiếm gần 600 ha…đã dẫn đến việc thay đổi cơ
cấu kinh tế của các quận này từ sản xuất thuần nông sang cơ cấu kinh tế dịch
vụ, công nghiệp.
Tổng diện tích tự nhiên của 7 quận mới thành lập là 397,23km 2, chiếm
88,4% diện tích của các quận nội thành. Là vùng đất mới nên có sự đầu tư
quy hoạch và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của thành phố đầu tư cho các
quận mới, các quận mới là nơi tiếp nhận dân cư từ các quận trung tâm thành
phố giãn dân ra do công tác chỉnh trang đơ thị và việc quy hoạch xây dựng
các cơng trình giao thơng, cơng trình cơng ích, đồng thời giảm mật độ dân cư
dày đặc trong nội thành. Từ đó cho thấy các quận mới có vai trị quan trọng
22
tác động đến sự phát triển chung của thành phố cả về kinh tế (có nhiều khu
chế xuất, khu cơng nghiệp tập trung) lẫn văn hoá xã hội.
Trong điều kiện đó, các phường của những quận mới thành lập ở
TP.HCM hiện nay có những đặc điểm như sau:
Một là, các phường là nơi tập trung nhiều cơ sở công nghiệp lớn (Khu
công nghiệp Cát Lái - Quận 2, chiếm 124ha; khu chế xuất Tân Thuận - quận
7, chiếm 300 ha; khu công nghiệp Phú Hữu - quận 9 chiếm 114ha; khu chế
xuất Linh Trung 1 và 2 - quận Thủ Đức chiếm 120 ha; khu cơng nghiệp Bình
Chiểu - quận Thủ Đức chiếm 27,34ha; khu công nghiệp Tân Thới Hiệp - quận
12, chiếm 28,41ha).
Đây là thế mạnh hàng đầu của các quận và đó cũng là sức mạnh của các
phường trong quận để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH trong giai đoạn hiện
nay. Với đặc điểm này, các phường có nhiều thuận lợi trong việc phối hợp với
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước để học tập kinh
nghiệm, khai thác tiềm năng về cơ sở vật chất, nguồn lực tham gia đóng góp
vào các hoạt động của địa phương nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị của phường. Với chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, các phường
phải tạo môi trường thuận lợi, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn để phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác, đặc điểm
này cũng đặt ra hàng loạt vấn đề mà phường phải quan tâm giải quyết như:
việc giải tỏa, bồi hồn để xây dựng cơng trình; việc quản lý lao động nhập cư
và giải quyết các vấn đề xã hội đi kèm với nó như nhà ở, tệ nạn xã hội, việc
học hành của con cái người lao động nhập cư, vấn đề môi trường v.v... Tất cả
những vấn đề ấy tất nhiên không chỉ là trách nhiệm của cơ sở nhưng rõ ràng
vai trò của phường là rất quan trọng.
Hai là, nhiều phường là nơi đặt trụ sở của các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp,... Đây là thế mạnh của các phường mới thành lập
trong việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác, phát huy, tận dụng tiềm năng trí
23
tuệ, kinh nghiệm của đội ngũ trí thức, chuyên gia, của cơ sở vật chất, kỹ thuật
ở các đơn vị này cho sự nghiệp xây dựng, phát triển phường và quận.
Ba là, nhiều phường có địa giới hành chính giáp ranh với các quận,
huyện khác của tỉnh khác, đây cũng chính là nơi mà tội phạm và tệ nạn xã hội
thường xuyên di chuyển từ nơi khác tập trung cư ngụ. Điều này đặt ra cho các
phường nhiệm vụ quan trọng là phải tăng cường lãnh đạo, quản lý, phát động
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phát huy quyền làm chủ và
phong trào tự quản của quần chúng để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội, đảm bảo sự bình n cho xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho
mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát triển trên địa bàn.
Bốn là, các phường có số người nghỉ hưu, mất sức; cán bộ, công nhân
viên chức, người lao động đang công tác tại các cơ quan Đảng, Nhà nước,
đoàn thể ở thành phố, quận, các doanh nghiệp nhà nước cư trú tại phường
đông. Số người này, nhất là đảng viên, thường có trình độ mọi mặt khá cao,
có uy tín, năng lực cơng tác, có kinh nghiệm sống và cơng tác dày dạn. Trong
số đó, nhiều người đã là cán bộ trung, cao cấp, nguyên là lãnh đạo cấp thành
phố, quận, huyện, nguyên là cấp tướng, cấp tá quân đội, công an......Đây thực
sự là tiềm năng, thế mạnh của các phường trong việc phát huy, khai thác sự
đóng góp của họ đối với cơng tác lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các
phường, cũng như vai trị nịng cốt, tích cực, gương mẫu của họ trong các
phong trào thi đua yêu nước của quần chúng và các cuộc vận động xã hội ở
địa phương. Do đó, nếu các phường biết phát huy tốt thì họ sẽ đóng góp trí
tuệ, kinh nghiệm cho các phường; đặc biệt là các đảng viên.
Năm là, các phường ở các quận mới có thể phân chia thành các dạng
sau:
- Các phường đã đơ thị hóa hồn tồn, tại các phường này, toàn bộ đất
đai cơ bản đã được xây dựng thành đường phố, khu dân cư. Đời sống nhân
dân ở đây cao hơn các phường đang đơ thị hóa. Nhiệm vụ của các phường này
24
chủ yếu là phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, buôn bán dịch vụ, quản lý
đô thị, bảo vệ an ninh, trật tự, bảo vệ môi trường, xây dựng đường phố văn
minh đô thị.
- Đa số các phường đang trong q trình đơ thị hóa, ở những nơi này,
vẫn còn một số đất xen kẽ trong các khu dân cư, hoạt động thường rất đa
dạng, phức tạp như sản xuất tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ; hoạt động
xây dựng diễn ra phổ biến trong nhân dân cũng như trong cơ quan, doanh
nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang trên địa bàn. Là nơi tập trung đông dân cư,
thành phần dân cư đa dạng, phức tạp, nhiều biến động, nguồn gốc không
thuần nhất; tập quán, lối sống khác nhau, nhu cầu của đời sống vật chất, tinh
thần phong phú, đa dạng. Các tệ nạn xã hội cũng diễn biến phức tạp. Nhiệm
vụ của các phường này tập trung phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp,
buôn bán dịch vụ, quản lý đất đai, quản lý trật tự xây dựng đô thị theo qui
hoạch, bảo vệ môi trường, xây dựng đường phố văn minh đơ thị, phịng chống
tệ nạn xã hội.
- Các phường có nhiều cơ quan, doanh nghiệp (có nhiều doanh nghiệp
nhà nước, tư nhân), các công ty liên doanh, cổ phần, các văn phịng đại diện
của các cơng ty trong và ngồi nước…Các trụ sở cơng quyền, các tụ điểm văn
hoá, vui chơi; trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, khu chung cư
cao tầng. Là nơi tập trung chủ yếu các hoạt động kinh doanh và thương mại
của đô thị; Kinh tế phát triển năng động, đa ngành chủ yếu là kinh tế hàng hố
phi nơng nghiệp, tập trung các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thương mại, dịch vụ.
- Các phường được chuyển thành từ xã, ở những phường này vẫn còn
một số đất nông nghiệp đang chuẩn bị được Nhà nước thu hồi vì mục đích phát
triển kinh tế - xã hội. Cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, nhiều yếu kém, kinh tế
chậm phát triển, chủ yếu là sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp, bn bán nhỏ, nếp
sống, phong tục cịn mang tính chất làng xã, tệ nạn xã hội dễ phát sinh. Tuy vậy,
25
ở đây có lợi thế là quỹ đất cơng cịn nhiều, có điều kiện để đầu tư phát triển hạ
tầng kinh tế - xã hội theo qui hoạch đô thị văn minh, hiện đại. Nhiệm vụ trọng
tâm của các phường này là quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, quản lý đô
thị, đặc biệt là quản lý trật tự xây dựng đô thị theo qui hoạch; tập trung xây
dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, tạo điều kiện
để phường phát triển kinh tế - xã hội.
Nhìn chung, đây là các phường của các quận mới được thành lập
khoảng hơn 10 năm, đang trong q trình đơ thị hóa rất nhanh, đặt ra những
yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày càng nặng nề cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, hệ
thống chính trị các phường, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế
theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, quản lý đô thị theo quy
hoạch, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng đô thị, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo vệ sinh mơi trường, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội. Để đảm bảo hồn thành thắng lợi nhiệm vụ
chính trị nêu trên, cần phải xây dựng HTCT ở phường trong sạch, vững mạnh;
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của HTCT ấy nói chung và đội ngũ cán bộ
phường diện BTVQU quản lý nói riêng một cách chủ động, đồng bộ, đủ về số
lượng, có chất lượng ngày càng cao, có cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu trước
mắt và lâu dài của phường, quận và cả Thành phố.
1.1.2. Vị trí, vai trị, đặc điểm của đội ngũ cán bộ phường mới thành
lập diện Ban Thường vụ Quận ủy quản lý ở Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ phường diện Ban Thường
vụ Quận ủy quản lý
Lịch sử từ xưa đến nay cho thấy để tiến hành đấu tranh cách mạng có
hiệu quả cần có những cán bộ để lãnh đạo, tổ chức phong trào. Đúng như
C.Mác và Ph.Ăngghen, những người đã đặt nền móng cho vấn đề cán bộ của
giai cấp vơ sản - đã khẳng định “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những
con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [50, tr.181]. Con người mà hai ông đã