Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố đông hà, tỉnh quảng trị hiện nay” khóa luận tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.76 KB, 77 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

VHCT:
Văn hóa chính trị
NXB:
Nhà xuất bản
GS.TS:
Giáo sư, tiến sĩ
PGS.TS: Phó giáo sư, tiến sĩ
UBND:
Ủy ban nhân dân
UBMTTQ: Ủy ban mặt trận tổ quốc
HTCT:
Hệ thống chính trị

1


MỤC LỤC
PHỤ LỤC..........................................................................................................................74

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành


công hay thất bại của cách mạng. Vị trí của công tác cán bộ gắn liền với vai
trò của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện và
lãnh đạo Đảng ta đã nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [22;
tr.487], “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [22;
tr.492]. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong suốt hơn 81 năm xây dựng
và phát triển, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ
là những nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng. Mỗi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam đều đánh dấu những bước trưởng thành, tiến bộ của
đội ngũ cán bộ của Đảng ta. Vì thế, Đảng ta luôn chú trọng tới yêu cầu xây
dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, toàn diện, coi đây là vấn đề mấu chốt, quyết
định toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ
đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: “Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng” [7; tr.66].
Để đội ngũ cán bộ thực hiện được sứ mệnh của mình thì vai trò của
văn hóa chính trị là hết sức quan trọng. V.I.Lênin đã từng khẳng định “mục
đích của văn hóa chính trị, của nền giáo dục chính trị là đào tạo nên những
người cán bộ chân chính, có khả năng thắng được sự dối trá và thiên kiến,
và có khả năng giúp đỡ quần chúng lao động thắng được chế độ cũ, xây
được một nhà nước không có bọn tư bản, bọn bóc lột và bọn địa chủ” [21;
tr.212,213]. Và suy cho cùng, trình độ văn hóa chính trị của cán bộ, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt
động chính trị của đất nước.
2


Thành phố Đông Hà là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của tỉnh Quảng Trị. Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ cơ sở của

thành phố đã và đang phấn đấu vươn lên về mọi mặt để hoàn thành những
trọng trách chính trị của mình. Trong quá trình đó, họ đã tạo nên sắc diện
văn hóa chính trị cho bản thân. Tuy nhiên, chất lượng văn hóa chính trị của
đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà vẫn còn nhiều hạn chế, chưa
ngang tầm với yêu cầu thực tiễn của địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, Đông Hà phải gánh chịu hậu quả
nặng nề của chiến tranh, kinh tế xã hội đang còn ở trong tình trạng khó
khăn, chưa ổn định. Thêm vào đó, điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết khắc
nghiệt luôn luôn là mối đe dọa đối với cuộc sống nhân dân. Trước tình hình
đó, đòi hỏi mỗi cán bộ cơ sở thành phố phải không ngừng nâng cao bản
lĩnh, năng lực hoạt động chính trị, phát huy những phẩm chất đạo đức cách
mạng, những truyền thống của một mảnh đất trung dũng, kiên cường…tức
là không ngừng nâng cao văn hóa chính trị để góp phần làm đổi thay bộ
mặt quê hương. Do đó, việc phân tích thực trạng, từ đó đưa ra những giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở
thành phố Đông Hà trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa cấp thiết hơn bao
giờ hết.
Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài: “Nâng cao
văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà, tỉnh
Quảng Trị hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ những góc độ khác nhau, có
những đề tài sau:
* Về văn hóa chính trị (VHCT)
Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và
hiện đại, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả đã tập
trung đi sâu vào nghiên cứu những giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt
Nam truyền thống và rút ra những vấn đề có tính phương pháp luận của việc kế
thừa các di sản văn hóa chính trị quá khứ trong quá trình đổi mới hiện nay.
Phạm Hồng Tung (2009), Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn

văn hóa chính trị, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình là tập hợp
có hệ thống của 14 chuyên luận, đề cập tới những vấn đề căn bản của môn
nghiên cứu văn hóa chính trị. Trên cơ sở của cách tiếp cận văn hóa chính trị,
tác giả đã đi sâu nghiên cứu một loạt vấn đề của lịch sử Việt Nam cận đại
3


nhằm chỉ ra những khía cạnh mới, bổ sung hoặc điều chỉnh nhận thức trước
đây về những vấn đề đó.
Ngoài ra là một số bài viết đăng tải trong một số sách chuyên đề và
tạp chí chuyên ngành bước đầu tìm hiểu về bản chất, đặc điểm và cấu trúc
của khái niệm văn hóa chính trị như: Trần Đình Huỳnh (1998), “Văn hóa
chính trị - một cách nhìn trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
10; Văn Hải (2001), “Về văn hóa chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5;
Lâm Quốc Tuấn (2001), “Văn hóa chính trị và sự phát triển con người - xã
hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4.
* Xuất phát từ cách tiếp cận Văn hóa chính trị trực tiếp hướng đến
việc xây dựng, bồi dưỡng cán bộ có các công trình sau
Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước
ta hiện nay (1999) do GS.TS Phạm Ngọc Quang chủ biên. Ở đề tài này, các
tác giả làm sáng tỏ nội dung khoa học của phạm trù văn hóa chính trị và vai
trò của nó trong hoạt động chính trị, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trong việc nâng cao năng lực và bản lĩnh lãnh đạo của đội ngũ cán bộ;
từ đó, đề ra phương hướng bồi dưỡng văn hóa chính trị cho cán bộ lãnh đạo
ở nước ta.
Văn hóa chính trị với việc nâng cao chất lượng cán bộ của thành phố
Đà Nẵng trong giai đoạn đổi mới hiện nay (2000), luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Thị Lệ Thủy. Trên cơ sở làm rõ lý luận chung về văn hóa chính trị,
luận văn đánh giá, phân tích thực trạng chất lượng cán bộ của thành phố Đà
Nẵng, từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu về văn hóa chính trị trong việc

nâng cao chất lượng cán bộ của thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đổi mới
hiện nay.
Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay (2005), luận án tiến sĩ của Lâm Quốc Tuấn. Luận án đã đã đưa
ra những tiêu chí cần thiết xác định cấu trúc nhân cách văn hóa chính trị của
người cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay cùng với phương hướng và giải pháp
để thực hiện được các tiêu chí đó.
Các công trình khoa học nêu trên là những tài liệu quý giá cho việc
nghiên cứu đề tài khóa luận. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu có hệ thống về vấn đề thực trạng và giải pháp mang tính thực
tiễn nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông
Hà, tỉnh Quảng Trị trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

4


Đề tài “Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở thành
phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay” là sự tiếp nối những công trình đã
có trên với tính cách như là hệ quy chiếu mới, góp phần giải đáp về phương
diện thực tiễn trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tỉnh Quảng Trị nói
chung cũng như đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng đến việc tìm hiểu quan điểm
của triết học Mác - Lênin về văn hóa và văn hóa chính trị; phân tích, đánh
giá thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông
Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay. Trên cơ sở đó, khóa luận đưa ra những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở
thành phố Đông Hà trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
* Nhiệm vụ

Để thực hiện được mục đích này, đề tài phải thực hiện những nhiệm vụ
sau:
- Làm rõ quan điểm của triết học Mác - Lênin về văn hóa và văn hóa
chính trị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ
cơ sở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay.
- Xác định một số giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính trị của
đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và
những nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính trị,
văn hóa, văn hóa chính trị, về cán bộ và công tác cán bộ…làm cơ sở nghiên
cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, so sánh và đối
chiếu.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

5


Do mục đích và nhiệm vụ quy định, đề tài tập trung khảo sát phạm vi
địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị với đối tượng cụ thể là cán bộ
cơ sở.
6. Đóng góp của đề tài
* Về mặt lý luận:

Góp phần làm rõ thêm quan điểm của triết học Mác - Lênin về văn
hóa và văn hóa chính trị.
* Về mặt thực tiễn:
Trên cơ sở phân tích thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ
cơ sở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, khóa luận góp tiếng nói vào việc
nâng cao và phát huy văn hóa chính trị của cán bộ trong sự nghiệp cách
mạng hiện nay, mà ở đây là trình độ văn hóa chính trị của cán bộ cơ sở ở
thành phố Đông Hà trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục các từ viết tắt và phụ lục, nội dung khóa luận được kết cấu gồm 2
chương, 5 tiết như sau:
Chương 1: Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về văn hóa và
văn hóa chính trị.
1.1. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về văn hóa.
1.2. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về văn hóa chính trị.
Chương 2: Bồi dưỡng văn hóa chính trị là một trong những động
lực để nâng cao ý thức chính trị và tinh thần cách mạng cho đội ngũ cán
bộ cơ sở thành phố Đông Hà.
2.1. Khái quát về thành phố Đông Hà.
2.2. Thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố
Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay.
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao văn hóa chính trị cho đội
ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà trong giai đoạn hiện nay.

6


Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VĂN HÓA

VÀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
1.1. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về văn hóa
1.1.1. Nguồn gốc và bản chất của văn hóa
Trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, bất kỳ một hệ thống
hay một trường phái triết học nào bằng cách này hay cách khác cũng đều lý
giải một cách tổng quát về vấn đề liên quan đến tồn tại người, đó là bản
chất, vai trò của con người trong thế giới. Chính con người trong quá trình
chinh phục, cải tạo tự nhiên nhằm mục đích phục vụ lợi ích của chính mình
đã làm phong phú thêm tri thức và đồng thời sáng tạo ra “thiên nhiên thứ hai”
bằng lao động sáng tạo và tri thức của mình, kết tinh những giá trị tinh thần
của mình. “Thiên nhiên thứ hai” đó chính là văn hóa. Do vậy, văn hóa là một
trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã
hội loài người. Nói một cách khác, văn hóa ra đời, tồn tại và phát triển gắn
liền với xã hội loài người và văn hóa ngày càng được bổ sung thêm những
nội dung mới, đáp ứng tầm cao của tri thức nhân loại.
Văn hóa là khái niệm đa nghĩa gắn liền với con người và đời sống xã
hội của con người. Nó thường có những nội dung khác nhau tùy thuộc vào
thời gian, không gian, đặc điểm của xã hội và của thời đại, đồng thời cũng
tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau. Có thể nói rằng, cho đến nay đã có
tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Thuật ngữ “Văn hóa” theo các nhà nghiên cứu, bắt nguồn từ chữ
Latinh Cultus (+ura) = Cultura: trồng trọt cây trái ở ngoài đồng, dần dần
chuyển thành nghĩa mới: trồng trọt tinh thần - sự giáo dục bồi dưỡng tâm
hồn con người. Theo nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588 - 1679): “Lao
động giành cho đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng
7


tinh thần”. Người Trung Quốc có thuật ngữ này từ thời nhà Hán: “văn”
nghĩa gốc là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra, hình thức đẹp (được thể hiện trong lễ,

nhạc, cách cai trị, ngôn ngữ, ứng xử…); “hóa” được hiểu là sự biến đổi giáo
hóa. Vì vậy, ở Trung Quốc thời cổ đại, khái niệm văn hóa biểu hiện thế ứng
xử đẹp, vẻ đẹp của con người nặng về văn hóa chuẩn mực, đạo đức xã hội.
Còn khái niệm văn hóa của Phương Tây nặng về chinh phục, cải tạo tự
nhiên. Sau này, nó phát triển và lý giải theo nhiều cách khác nhau tùy theo
cách tiếp cận.
Vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, nhà hùng biện thời La Mã
Cicéron đã nói đến triết học như là “Văn hóa của trí tuệ”. Ông cho rằng,
phải luôn luôn có sự vun xới trí tuệ như vun xới đất đai của nhà nông. Từ
đây, Cicéron đã nhìn thấy được cái cốt lõi của văn hóa là sự phát triển các
khả năng tinh thần của con người.
Trong xã hội Phương Tây từ thời phục hưng và cân đại, thuật ngữ
“Văn hóa” đã bắt đầu được sử dụng với nghĩa rộng của nó. Các nhà triết học
thời kỳ này tiếp cận văn hóa bằng nhiều cách khác nhau trên quan điểm của
chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa duy lý, quan điểm lịch sử hoặc chủ nghĩa tự
nhiên. “Văn hóa” thời kỳ này đều được nhìn nhận như sự tồn tại chân chính
của con người. Trong khái niệm này có sự đối lập giữa lĩnh vực “tính
người” với “tính tự nhiên” (tính động vật). Với ý nghĩa đó, văn hóa được
xem là sự phát triển của con người phù hợp với bản chất của chính mình.
Các nhà triết học tư sản trước C.Mác đã coi văn hóa là kết quả hoạt
động tinh thần của một số đại biểu thượng lưu xã hội, họ đã đem văn hóa
đối lập với hoạt động lao động sản xuất, có nghĩa là chưa nhìn nhận vai trò
của văn hóa trong hoạt động lao động của con người. Vì vậy, mà văn hóa
chỉ là kết quả sáng tạo của những cá nhân kiệt xuất mà thôi, còn quần chúng
nhân dân thì không có khả năng tự giác sáng tạo văn hóa và chỉ tiếp thu văn
hóa một cách thụ động.
Các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, dù giải thích lịch sử trên lập
trường duy tâm đã đưa ra một nhân tố quan trọng trong khái niệm văn hóa
và coi văn hóa là yếu tố có khả năng giải thoát con người khỏi những bất
công của xã hội. Họ thấy được nguồn gốc của sự bất công đó cũng chính là

do con người gây nên, vì vậy, phải gắn văn hóa với việc nâng cao nhận thức
của con người về tự nhiên để xác lập một trật tự xã hội mang tính “duy lý”.
Khi cho rằng, lý trí con người biểu hiện sự phù hợp giữa hành động con
người và yêu cầu tự nhiên thì họ đã chưa thấy được “cái tự nhiên” là sản
8


phẩm của lịch sử phát triển con người, nó phản ánh bản chất xã hội con
người và các quan hệ xã hội khách quan xác định nội dung văn hóa và biểu
tượng con người về cái duy lý.
Các nhà triết học duy tâm Đức thì đi tìm cơ sở của văn hóa trong lĩnh
vực thẩm mỹ, lĩnh vực tinh thần và trong triết học. Vấn đề văn hóa trong hệ
thống triết học I.Kant bước đầu được xem xét như một chỉnh thể: “Ông chỉ
gọi những gì đem lại phúc lợi cho con người – một hệ thống các giá trị nhân
đạo là văn hóa”[42; tr.9] I.Kant đã hiểu văn hóa không phải là kết quả của tự
nhiên. Vị trí con người trong giới tự nhiên với tư cách là mục đích cuối cùng
của nó không phải là tuyệt đối. Vị trí này nằm trong con người dưới dạng
khả năng, sự tồn tại này chính là biểu hiện của mối quan hệ con người - tự
nhiên. Con người phải tự khẳng định mình một cách hiện thực với tư cách là
mục đích cuối cùng của tự nhiên và của chính bản thân mình, nghĩa là vừa
trở thành chủ thể lại vừa là khách thể của văn hóa. Cũng chính vì vậy, mà
những vấn đề chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học
trong triết học I.Kant được xem xét như các hình thái văn hóa, như các loại
hình hoạt động.
Với lập trường duy tâm khách quan, Heghen cho rằng bản chất của
văn hóa không phải được xác định bởi tính chất quyết định luận vốn tự có
của hành vi nhân loại và càng không phải do sức tưởng tượng sáng tạo của
các cá nhân kiệt xuất, mà là do mối quan hệ của cá nhân với thế giới (gồm
cả tự nhiên và lịch sử). Theo Heghen, con người trong hoạt động hiện thực
đã đối tượng hóa hình thức của tư duy, của hoạt động vào thế giới các đồ

vật, chuyển tư duy từ tự mình sang tư duy cho mình. Theo đó, khái niệm do
tư duy đưa ra “chính là chân lý, là hình thức của ý niệm tuyệt đối, của tinh
thần, của văn hóa”. Với góc độ này, Heghen xem văn hóa là phương thức
hay hình thức hoạt động của con người. Như vậy, văn hóa không chỉ là kết
quả của hoạt động vật chất và tinh thần của con người mà còn là khách thể
của quá trình nhận thức.
Từ việc tìm hiểu các quan điểm về văn hóa trước Mác, ta thấy rằng
các quan điểm đó đều thể hiện tính phiến diện. Các quan điểm duy tâm thần
bí cho rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm, ý niệm tuyệt đối hoặc của đấng
siêu nhiên nào đó ban phát, sinh ra. Các quan điểm sùng bái cá nhân thì cho
rằng, văn hóa là sản phẩm, là ý chí của bậc quân vương, của vĩ nhân - lãnh
tụ hoặc của anh hùng kiệt xuất. Còn quần chúng nhân dân không phải là chủ
thể sản sinh văn hóa cũng không phải là đối tượng của văn hóa mà chỉ tiếp
9


thu văn hóa một cách thụ động, hoạt động vật chất không phải là cơ sở cho
văn hóa nảy sinh cũng không phải là môi trường cho văn hóa tồn tại. Các quan
điểm duy vật cũ và duy vật tầm thường cũng nhìn nhận văn hóa ở những góc
độ khác nhau một cách phiến diện, không thấy được văn hóa là một phạm trù
có nội hàm và ngoại diên rất rộng, bao gồm nhiều thành tố, có mặt trong tất cả
các lĩnh vực kể cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Và từ việc tìm hiểu
các quan điểm về văn hóa trước Mác, có thể khẳng định rằng chỉ có quan điểm
mácxít mới vạch ra được nguồn gốc thực sự của văn hóa, bản chất cũng như
quá trình phát triển của văn hóa.
C.Mác và Ph.Ăngghen trong một số tác phẩm của mình đã không trực
tiếp bàn đến văn hóa như một lĩnh vực độc lập, song vấn đề văn hóa lại
được thể hiện một cách hết sức rõ nét trong hệ thống các quan điểm duy vật
biện chứng của C.Mác về con người và xã hội, đó là trong mối quan hệ biện
chứng giữa con người với xã hội.

Theo C.Mác, văn hóa là sự phát triển tất cả các thuộc tính của con
người xã hội và sức sản xuất của xã hội. Sức sản xuất của con người như là
sản phẩm toàn vẹn và tổng hợp của xã hội. Văn hóa là một đối tượng phi tự
nhiên để phân biệt với thế giới của các đồ vật tồn tại một cách tự nhiên.
Triết học Mác xuất phát từ việc nghiên cứu con người và trong triết
học Mác, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được nhìn nhận một cách
biện chứng. C.Mác chỉ ra rằng: con người là “một thực thể song trùng” giữa
“cái tự nhiên” và “cái xã hội” mà trước hết con người tồn tại với tư cách là
một thực thể tự nhiên - một bộ phận của giới tự nhiên, cũng có nghĩa là nó
chịu sự tác động của các quy luật tự nhiên. Giới tự nhiên là thân thể vô cơ
của con người, nhưng yếu tố làm nên bản chất của con người khác với động
vật lại chính là ở chỗ con người tồn tại với tư cách là một “thực thể xã hội”.
Trong “Luận cương về Phơbách”(1845), C.Mác viết: “…bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”[20;
tr.11]. Theo đó, C.Mác xem xét đời sống xã hội như một chỉnh thể hữu cơ
bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất con người, trong
đó sản xuất con người giữ vị trí trung tâm. Nếu hiểu văn hóa ở góc độ sản
xuất con người thì lôgíc phát triển văn hóa là quá trình biểu thị mức độ phát
triển tự do và sáng tạo của con người trong lịch sử. Trong quá trình hoạt
động, con người đã khách thể hóa lực lượng bản chất của mình vào giới tự

10


nhiên chưa được khai phá, tạo nên “thiên nhiên thứ hai” - cái mà con người
thường gọi là văn hóa.
Trong nhiều tác phẩm của mình, C.Mác bàn đến tính xã hội của con
người trong hoạt động sống của chính con người như là những tiền đề đầu
tiên của sự tồn tại và sáng tạo. “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi

không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều, đó là những
tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng mà
thôi. Đó là những cá thể hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như
những hoạt động của chính họ tạo ra” [42; tr.11]. Đối với C.Mác, yếu tố làm
nên sự khác biệt giữa con người với động vật chính là “hoạt động sống” của
con người. C.Mác viết: “con vật cũng sản xuất nhưng con vật chỉ sản xuất
cái mà bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, nó sản xuất một cách
phiến diện trong khi con người sản xuất một cách toàn diện;…con vật chỉ
sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên;
sản phẩm của con vật trực tiếp gắn với cơ thể, thể xác của nó còn con người
thì đối diện một cách tự do với sản phẩm của mình”[28; tr.13,14]. Vậy là
nếu nói “hoạt động” thì con vật cũng hoạt động nhưng sự khác biệt mang
tính bản chất giữa con người và động vật là ở chỗ con vật chỉ hoạt động theo
thước đo và nhu cầu giống loài của nó như là phương thức tồn tại, còn con
người thì có thể sản xuất theo thước đo của bất kỳ giống loài nào, bất kỳ đối
tượng nào tạo nên sự khác biệt bản chất của phương thức tồn tại người mà
C.Mác gọi đó là những hoạt động có tính tộc loại của con người trong sự tồn
tại phổ biến của nó, làm bộc lộ ra những lực lượng bản chất của con người.
Cho nên, bản chất hoạt động con người là “xây dựng theo các quy luật của
cái đẹp”[28; tr.14]. Đó là năng lực mang tính đặc thù của con người, gắn bó
với hoạt động của con người và sự thể hiện, phát huy những năng lực bản
chất trong tất cả các dạng hoạt động của con người, sự phản ánh tổng thể
các hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn, lịch
sử, xã hội của mình chính là văn hóa.
V.I.Lênin cũng đã vận dụng quan điểm biện chứng khi xem xét đời
sống xã hội để áp dụng vào thực tiễn, cải tạo xã hội và phát triển văn hóa xã
hội chủ nghĩa nhằm sản xuất ra con người tự do. Trong tác phẩm “Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin đã xem “ý thức
xã hội chính là toàn bộ văn hóa tinh thần của nhân loại như một chỉnh thể

được phát triển trong lịch sử…Văn hóa tinh thần được tạo thành từ sự tác
11


động qua lại biện chứng của vô vàn các ý thức cá nhân khác nhau” [11;
tr.191]. Như vậy, quan điểm về văn hóa của Lênin cũng khá rộng và bao
quát, Lênin quan niệm rằng, ở đâu có hoạt động con người là ở đó có văn
hóa, phạm vi của văn hóa không chỉ là văn hóa tinh thần mà còn là văn hóa
vật chất. Lênin luôn coi văn hóa là phương tiện quan trọng nhất trong tất cả
các loại hình hoạt động của con người, đồng thời là kết quả sáng tạo của tất
cả các hoạt động đó.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về văn hóa còn chỉ ra rằng kể từ
khi con người phát hiện ra lửa, biết ăn chín, uống sôi là dấu hiệu đầu tiên
của văn hóa. Thời điểm phát minh ra “lửa” là dấu mốc quan trọng ban đầu
cho sự ra đời và phát triển của văn hóa. Nói như vậy, có nghĩa văn hóa là
sản phẩm chỉ riêng có ở loài người, đi liền với sự phát triển của xã hội loài
người. Nó là sản phẩm mang tính trí tuệ đằng sau một chuỗi dài những hoạt
động vật chất và tinh thần của con người. Nhìn lại lịch sử, ta thấy rằng
“thềm trước” của nền văn minh lửa đốt là một bức tranh sinh hoạt mang tính
sinh học thuần túy của động vật bậc thấp, còn “sân sau” của nền văn minh
lửa đốt là ánh sáng tư duy của động vật bậc cao. Văn hóa chính là thành quả
đằng sau chuỗi tiến hóa lâu dài của loài người, gắn liền với phương thức
sống nhất định.
Khai mở như trên là nhằm chứng minh nguồn gốc của văn hóa từ
trong lao động. Lao động vừa là điều kiện cho sự xuất hiện của văn hóa,
nhưng đồng thời cũng là phương thức duy trì sự tồn tại và phát triển của văn
hóa. Nguồn gốc lao động của văn hóa chỉ ra rằng, văn hóa là hệ giá trị đặc
biệt, độc đáo chỉ có ở con người và gắn liền với xã hội loài người. Chính
quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm làm cho giới tự nhiên
bộc lộ những thuộc tính, cải tạo và biến đổi để phục vụ cho những nhu cầu

cơ bản và thiết yếu của mình đã tạo ra rất nhiều phức hệ giá trị, trong đó văn
hóa là một phức hệ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Hoạt động sống của con
người là hoạt động có ý nghĩa phân biệt rõ nhất với bất kỳ loài vật nào trong
sinh quyển. Cùng với sản xuất vật chất, tái sản xuất ra chính bản thân con
người được xác định là những hoạt động cơ bản, đầu tiên mang tính chất
quyết định đến sự trường tồn của lịch sử loài người. Từ trong lao động, sản
xuất con người không chỉ nảy sinh nhu cầu quan hệ với tự nhiên, với xã hội
mà còn thấy nhu cầu quan hệ với nhau là một bức thiết cần xác lập. Trong
các mối quan hệ, con người đóng vai trò là chủ thể tác động, điều chỉnh
nhằm làm cho các mối quan hệ đó tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất. Ở
12


đây, văn hóa là một thực thể sống trong cơ thể xã hội, xã hội đang vận động
và văn hóa được dung dưỡng một cách thường xuyên trong lao động.
Lao động cũng chính là dấu hiệu để phân biệt loài người với loài vật,
vì từ lao động là tiền đề vật chất tiên quyết cho sự ra đời của tư duy - cái chỉ
có ở loài người (còn loài vật thì không có). Xét về mặt quan hệ, tư duy là
sản phẩm của tiến trình tiến hóa lâu dài bởi sự tác động của con người vào
giới tự nhiên. Nói một cách khác, “tư duy chính là thực tiễn được cải biến đi
ở trong bộ óc con người”. Song, tư duy không phải là một hiện tượng thụ
động, bất biến. Nó mang “nội dung thực tiễn”, vừa có chức năng lưu trữ tri
thức, vừa có nhiệm vụ truyền tải tri thức. Sáng tạo là thuộc tính của tư duy
nhưng sáng tạo cũng chỉ có thể được thể hiện thông qua những điều kiện vật
chất nhất định. Nhưng điều kiện vật chất đáp ứng sáng tạo phải thông qua
lao động, đứng trên lập trường duy vật biện chứng cho thấy “Lao động như
một phạm trù kinh tế và lao động như hoạt động sáng tạo với nhau. Nếu
phương diện kinh tế của lao động là sự sản xuất ra của cải vật chất, thì
phương diện văn hóa của lao động là sáng tạo - biểu hiện của các lực lượng
bản chất người. Đó chính là quá trình sức sáng tạo được vật thể hóa trong

các hoạt động thích ứng và cải tạo thế giới, trong đó có bản thân con
người”[9; tr.29]. Cũng chính “sự sáng tạo văn hóa là động lực tiến bộ của
loài người, sự đa dạng của văn hóa là kho tàng quý báu nhất của văn hóa
nhân loại và là một yếu tố cần thiết của phát triển”[37; tr.51]. Vai trò của lao
động đối với sự hình thành văn hóa còn thể hiện ở chỗ nó là tác nhân quyết
định đến sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ được xác định bằng một hệ
thống dày đặc những tín hiệu có tác dụng trao đổi thông tin, duy trì và phát
triển các quan hệ giữa con người với con người trong quá trình cải biến tự
nhiên, xã hội và chính bản thân con người. Ở góc độ này, ngôn ngữ tham gia
tích cực vào sự hình thành văn hóa. Ngôn ngữ còn là một trong những
phương thức biểu hiện của văn hóa, thông qua ngôn ngữ mà tư duy được
biểu hiện, ngôn ngữ là một hình thức biểu hiện của tư duy, là “cái vỏ vật
chất của tư duy”. Sự thống nhất giữa tư duy và ngôn ngữ là một sự thống
nhất biện chứng không thể tách rời, tư duy và ngôn ngữ là những yếu tố
luôn tồn tại trong một chỉnh thể (người), đó là những yếu tố tồn tại khách
quan cùng với sự tồn tại và phát triển của con người. Như vậy, cùng với lao
động, tư duy và ngôn ngữ là cội nguồn, là điều kiện nhưng cũng là phương
thức tồn tại và phát triển của văn hóa.

13


Từ thực tiễn vật chất và tinh thần của văn hóa, cho thấy văn hóa là
một lĩnh vực có nội hàm và ngoại diên rất rộng lớn, vô cùng đa dạng và
phong phú nhưng cũng không kém phần phức tạp. Xuất phát từ nhiều cách
tiếp cận mà có những quan niệm và cách lý giải khác nhau về văn hóa.
Edward Burnett Taylor trong “Văn hóa nguyên thủy” - 1871 ở Luân
Đôn đã đưa ra định nghĩa đầu tiên trên thế giới: “Văn hóa hiểu theo nghĩa
rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng tập quán khác mà

con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”[23; tr.431]. Khái niệm này cho thấy rõ nguồn gốc của văn hóa bao giờ
cũng do con người sáng tạo ra, nói đến văn hóa là nói đến con người, do vậy
văn hóa bao giờ cũng có tính nhân văn và tính xã hội.
Trong Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm
1970 tại Venise, Federico Mayor - Tổng giám đốc UNESCO đã đưa ra khái
niệm: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời
trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa
bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ
những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập
quán, lối sống và lao động”. Đây là khái niệm được đưa ra trong bối cảnh
thế giới còn có sự phân biệt văn hóa dân tộc lớn, dân tộc nhỏ, văn hóa dân
tộc này cao, dân tộc kia thấp, văn hóa dân tộc này văn minh, văn hóa dân
tộc kia lạc hậu. Khái niệm nêu trên có ý nghĩa chính trị rất lớn về việc khẳng
định mỗi dân tộc có bản sắc riêng. Quan điểm này càng được khẳng định tại
Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô để bắt đầu thập kỷ văn hóa
UNESCO. Tại Hội nghị này, người ta đã đưa ra trên 200 định nghĩa về văn
hóa. Cuối cùng Hội nghị chấp nhận một định nghĩa như sau: “Trong ý nghĩa
rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất,
trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối
14



sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị,
những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người những
khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành
những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân
một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức
được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để
xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý
nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới mẻ và tạo nên những
công trình vượt trội lên bản thân”[42; tr.15].
Khái niệm trên vừa nói đến văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, vừa
nói đến hệ giá trị và đặc biệt là nêu lên những nét riêng biệt về văn hóa của
một xã hội hay một nhóm người trong xã hội.
Vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Tổng giám đốc
UNESCO trong cuốn “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa” đã viết: “Văn
hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một
hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc
tính riêng của mỗi dân tộc”[38; tr.20].
Từ lập trường duy vật biện chứng truy cứu về văn hóa, thấy rằng, xét
theo nghĩa rộng, Văn hóa là “trình độ phát triển lịch sử nhất định của một xã
hội, là sức sáng tạo và năng lực của con người trong xã hội được biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hoạt động sáng tạo của con
người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra…
Văn hóa bao gồm những kết quả khách quan của hoạt động con người (sản
xuất, máy móc, thiết bị, kết quả nhận thức, tác phẩm nghệ thuật, chuẩn tắc
đạo đức và pháp luật) cũng như của sức sáng tạo và năng lực con người
được thể hiện trong hoạt động (tri thức, kỹ năng, thói quen, trình độ trí tuệ,
sự phát triển đạo đức và thẩm mỹ, thế giới quan, phương thức và hình thức
giao tiếp giữa con người với nhau. Xét theo nghĩa hẹp, văn hóa là lĩnh vực

đời sống tinh thần của con người”[26; tr.516].
Trần Ngọc Thêm trong “Cơ sở văn hóa Việt nam” cũng đã đưa ra
một định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội”[35; tr10].

15


Nhìn chung, mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hóa mà
có nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hóa nhưng chung quy lại thì tất
cả các định nghĩa về văn hóa đều xuất phát từ quan điểm chung về nguồn
gốc, bản chất của văn hóa, đó là đều coi văn hóa là sự sáng tạo của con
người. Văn hóa là một trong những căn cứ để phân biệt con người với loài
vật. Nguồn gốc lao động của văn hóa khẳng định một cách khách quan, duy
vật về một hình thái ý thức xã hội. Từ trong văn hóa, chúng ta tìm thấy được
những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội loài người qua các thời kỳ lịch
sử khác nhau. Văn hóa xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có
ý thức của con người đối với tự nhiên, văn hoá chính là kết quả của sự thích
nghi ấy và đó là một sự thích nghi có sự sáng tạo phù hợp với giá trị chân thiện - mỹ.
Nói tới văn hóa là nói tới việc phát huy những năng lực bản chất con
người nhằm hướng tới sự phát triển của xã hội. Vì vậy, tính chất nhân văn
luôn được chứa đựng trong văn hóa. Quan điểm của triết học Mác - Lênin
về văn hóa bao hàm cả cơ sở lý luận về sự hình thành những chuẩn mực,
thái độ khách quan, khoa học trong việc đánh giá các giá trị văn hóa, đó là
“chân - thiện - mỹ”, đây cũng chính là cái khung của các thang bậc giá trị.
Chuẩn mực của sự đánh giá các giá trị văn hóa dù được trình bày dưới hình
thức nào thì nó vẫn nhằm mục tiêu là hướng tới sự phát triển con người và
xã hôi trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.

Bản chất của văn hóa vì vậy là những hoạt động nhằm sản xuất hoặc
sáng tạo ra các giá trị vật chất cũng như tinh thần. Tất cả các hoạt động đó
của văn hóa đều hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Văn hóa không nằm
ngoài kinh tế và chính trị, nhưng văn hóa có đời sống riêng của nó, có quy
luật hoạt động riêng của nó. Mục tiêu cao cả nhất của hoạt động văn hóa là
vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện của con người. Tư duy mới
không cho phép chúng ta coi văn hóa như hoạt động thuần túy có ý nghĩa
minh họa và tuyên truyền cho các đường lối, chính sách về kinh tế, về chính
trị. Văn hóa cũng không chỉ là phương tiện để đạt những phúc lợi trong cuộc
sống, nó phải nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện con người. Xã hội cần
đến văn hóa vì con người là chủ thể và là bộ mặt trung tâm của xã hội. Văn
hóa tạo nên môi trường và là nguồn năng lượng để hình thành nhân cách, bản
lĩnh, đạo đức và lương tâm. Văn hóa có sức mạnh tạo nên mối quan hệ hài
hòa giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên, tạo nên mối
quan hệ cảm thông giữa các dân tộc và các thời đại.
16


Tóm lại, văn hóa là một hiên tượng phong phú và không kém phần
phức tạp, nó luôn mở ra một phạm vi rộng cho sự nghiên cứu. Văn hóa là
sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ
qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc
tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn
hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội
của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội
được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần mà do con
người sáng tạo ra.
1.1.2. Chức năng của văn hóa

Triết học duy vật biện chứng chỉ ra rằng bất kỳ sự hiện hữu nào cũng
đều mang trong mình một chức năng nhất định, từ đó vạch rõ một vị trí
trong tồn tại. Văn hóa là một hiện tượng có xuất xứ trong nguồn gốc phát
triển xã hội loài người nên có tầm quan trọng to lớn trong dòng thác chảy
liên tục của lịch sử nhân loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với
xã hôi loài người, văn hóa đóng vai trò là nhân tố “điều tiết” cho sự vận
động xã hội về cả mặt vật chất lẫn tinh thần.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra một luận điểm hết sức quan trọng
rằng, mỗi bước mà con người tiến đến văn hóa là mỗi bước con người tiến
đến tự do. Điều này, thể hiện rõ ở những chức năng cơ bản sau của văn hóa.
1.1.2.1. Chức năng giáo dục
Là chức năng bao trùm và quan trọng nhất của văn hóa. Thông qua
chức năng này, văn hóa định hướng cho con người hành động phù hợp với
lý tưởng, đạo đức, chuẩn mực xã hội. Với nó, văn hóa thỏa mãn nhu cầu tồn
tại và phát triển của xã hội. Sức mạnh và hiệu quả giáo dục của văn hóa thể
hiện ở việc nó tác động và huy động được tất cả năng lực tinh thần của
con người. C.Mác đã khẳng định được tầm quan trọng của chức năng này
khi viết: “Sự ngu dốt, đó là cái sức mạnh quỷ sứ và chúng tôi sợ rằng nó
sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch”[19; tr.37]. Văn hóa góp phần
định hướng việc hình thành nhân cách, phẩm chất của con người, giáo
dục con người bằng cách tác động, định hướng sự nhận thức và cảm xúc
con người theo các giá trị mang tính chuẩn mực “chân - thiện - mỹ”.

17


Với bản chất là những giá trị, những chuẩn mực xã hội tương đối ổn
định, văn hóa có chức năng giáo dục con người, gây ảnh hưởng và xâm
nhập vào mọi mặt của đời sống.
1.1.2.2. Chức năng nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội

Văn hóa là cái “thiên nhiên thứ hai” do chính con người tạo ra và văn
hóa còn tạo ra con người với tính cách nhân bản, một sinh vật cao cấp có ý
thức xã hội, có tình cảm, có lý tính. Văn hóa có tác dụng nâng cao nhận thức
của con người và cũng là phát huy vai trò của con người trong việc tạo ra
những giá trị mới của văn hóa. Chức năng nhận thức nằm trong mọi hoạt
động văn hóa, gắn bó chặt chẽ với giáo dục, đào tạo và khoa học, kỹ thuật.
Nó nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết để khám phá và
làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Đây là cơ sở quan trọng để
con người xác định phương hướng hoạt động trong xã hội, tiến hành các
hoạt động thực tiễn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hóa ra đời trong quá
trình hoạt động thực tiễn của con người. Khi những tri thức, giá trị, chuẩn
mực được khẳng định, nó trở thành cơ sở lý luận, tư tưởng, tình cảm, ý chí
của con người trong hoạt động nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hôi. Như
vậy, chức năng nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội của văn hóa đã giúp
con người nhận ra và hành động theo đúng quy luật của tự nhiên.
1.1.2.3. Chức năng thẩm mỹ
Là một trong những chức năng của văn hóa được C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định có tầm quan trọng đặc biệt đối với xã hội. Cùng với
nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hướng tới cái đẹp, C.Mác coi
nhu cầu và khả năng hướng tới cái đẹp là dấu hiệu cơ bản phân biệt con
người với con vật. Theo C.Mác, luôn có nhu cầu “nhào nặn hiện thực theo
quy luật của cái đẹp”, chỉ có con người mới chủ động tác động vào giới tự
nhiên và cải biến nó theo nhu cầu thẩm mỹ của mình.
Văn hóa là sự sáng tạo của con người theo quy luật của cái đẹp, trong
đó văn hóa nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất sự sáng tạo ấy. Với tư cách
là khách thể của văn hóa , con người tiếp nhận chức năng này của văn hóa
và tự thanh lọc mình theo hướng vươn tới cái đẹp và khắc phục cái xấu
trong mỗi con người. Sự hoàn thiện của con người và của xã hội được hình
thành dần dần từ đó. Chức năng thẩm mỹ do đó không tách rời chức năng

nhận thức và đều hướng tới chức năng bao quát là chức năng giáo dục con

18


người, tạo nên động lực cho hành động của con người trong quá trình sáng
tạo và hướng đến chuẩn mực của xã hội.
1.1.2.4. Chức năng dự báo
Văn hóa như trên đã nói là tổng thể những hoạt động về tinh thần và
trí tuệ, là sự phát hiện dần dần những quy luật của tự nhiên, của xã hội và
của con người, nhằm mở rộng sự hiểu biết, sức tưởng tượng khám phá và
sáng tạo của con người. Chính với ý nghĩa đó, văn hóa có thể đưa ra những
dự báo cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người.
Chính con người luôn luôn tìm hiểu những quy luật của tự nhiên và
xã hôi, phát hiện những quy luật và hành động theo quy luật. Khoa học sinh
ra là vì cái đó, nó luôn tìm quy luật, dựa vào đó để hoạt động sáng tạo có
hiệu quả. Chức năng dự báo của văn hóa cũng là để cho hoạt động của con
người có hiệu quả. Văn hóa, theo nghĩa rộng, chinh phục cả không gian và
thời gian, cho nên nó là hành trang của con người, dự báo cho con người,
hướng dẫn tư duy và hành động của con người.
Ngoài các chức năng cơ bản trên, văn hóa còn có các chức năng khác
nữa đó là chức năng tổ chức, giải trí, chức năng định hướng, đánh giá, xác
định, chuẩn mực của hành vi, chức năng điều chỉnh các quan hệ ứng xử,
chức năng giao tiếp. Tuy nhiên, ở đây chỉ làm rõ 4 chức năng của văn hóa:
chức năng giáo dục; chức năng nhận thức,cải tạo tự nhiên và xã hội; chức
năng thẩm mỹ; chức năng dự báo. Là 4 chức năng được các nhà nghiên cứu
cho rằng là được đề cập đến trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Các chức năng cơ
bản đó của văn hóa có liên quan chặt chẽ với nhau và làm thành một thể
thống nhất. Sự “cắt lát” ra các chức năng đó chỉ là tương đối. Chức năng
này có thể làm tiền đề hoặc nó có trong chức năng kia.

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một quan điểm tổng quát
nhất về vai trò của văn hóa là: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Nhìn
nhận ở vai trò tổng quát này, có thể nói văn hóa, trước hết định hướng phát
triển cho cả một dân tộc. Chính văn hóa được coi là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội, văn hóa thể
hiện bản sắc/cốt cách dân tộc…là nói lên tính định hướng của văn hóa. Hai
là, trong sự phát triển của dân tộc, văn hóa điều chỉnh sự hoạch định cương
lĩnh, đường lối, chính sách của hệ thống chính trị. Ba là, văn hóa chính là
thước đo của sự phát triển xã hội. Một chỉ số phát triển chung hay bất kỳ chỉ
số phát triển cụ thể trên bất kỳ một lĩnh vực nào đó của xã hội trong một dân
tộc đều phải được coi là chỉ số phát triển của văn hóa. Bởi vậy, Đảng ta đã
19


xác định tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội. Đảng ta yêu cầu
“đưa nhân tố văn hóa, tinh thần nhân văn thấm sâu vào các lĩnh vực của đời
sống xã hội”[6; tr.112] nhằm mục tiêu xây dựng nền văn hóa mới, lối sống
mới, con người mới, góp phần đem đến thắng lợi trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước.
1.2. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về văn hóa chính trị
1.2.1. Khái niệm chính trị
Chính trị là một lĩnh vực của đời sống xã hội kể từ khi xã hội phân
chia thành giai cấp và tổ chức thành nhà nước, là lĩnh vực hoạt động rộng
lớn và quan trọng của con người. Về khía cạnh cơ bản, chính trị là hoạt
động phổ biến của xã hội. Lịch sử loài người từ khi phân chia thành giai cấp
là lịch sử của chính trị - đó là lịch sử đấu tranh giai cấp (C.Mác). Và nói tới
lịch sử đấu tranh giai cấp là nói tới lịch sử từng tập đoàn người đấu tranh
cho quyền lực của mình, dùng quyền lực để thực hiện lợi ích giai cấp, xây
dựng cuộc sống, đáp ứng nhu cầu và khát vọng của giai cấp. Cho nên, nói
một cách quy giản, chính trị là lý luận và thực tiễn, khoa học và nghệ thuật

giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc,
quốc gia.
Chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất và có vai trò ngày
càng tăng. Từ lâu, vào thời cổ đại, chính trị đã được nhiều nhà tư tưởng
quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay vẫn còn những quan điểm khác nhau về
phạm trù chính trị.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất, có thể xem “chính trị là hoạt
động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như giữa các dân tộc và
các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước;
là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động
chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước
nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã
đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích”[27; tr.13].
1.2.2. Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong
xã hội có giai cấp, nhưng điều đó không có nghĩa văn hóa chính trị là phép
cộng giản đơn giữa văn hóa với chính trị, mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập
vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn
hóa. Vì vậy, VHCT là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng lớn.
20


Xênôphôn (427-355TCN) với những quan điểm về thủ lĩnh chính
trị đã phác hoạ nên những tiêu chí giá trị VHCT của những lãnh tụ chính
trị: giỏi kĩ thuật, giỏi thuyết phục, phục vụ những người mà anh ta chỉ
huy, biết tập hợp lại và phát huy sức mạnh của mọi người… Những tiêu
chí đó vẫn mang ý nghĩa thiết thực đối với việc hình thành nhân cách
chính trị cho chủ thể lãnh đạo hiện nay.
Platon (428-347 TCN) và Aristôt (384-322 TCN) khi đưa ra quan
niệm coi chính trị là khoa học và nghệ thuật, mặc dù triết lí chính trị - xã hội

của các ông còn nhiều hạn chế lịch sử nhưng vẫn chứa đựng hạt nhân hợp lý
trong quan niệm về VHCT.
Khổng Tử (551-479 TCN) là một đại diện tiêu biểu cho những tư
tưởng gia phương Đông cổ đại. Tư tưởng chính trị về “nhân và lễ”, “chính
danh định phận”, tôn trọng người hiền, tư tưởng về giáo dục… hàm chứa
nhiều giá trị văn hoá sâu sắc, vẫn mang ý nghĩa thời đại đối với VHCT
phương Đông nói chung và VHCT Việt Nam nói riêng.
Môngtexkiơ (1689-1755), trong các học thuyết về nguồn gốc nhà
nước, về sự phân quyền, lý luận về chính phủ và Rútxô (1712 -1778) với tư
tưởng cách mạng dân chủ tư sản, tư tưởng về chủ quyền tối thượng của nhân
dân cũng đưa ra nhiều tư tưởng lớn về VHCT cùng với những giá trị trí tuệ,
tài năng, quyền lực, nghĩa vụ…của các chủ thể chính trị.
Đến những năm 1950, hai nhà chính trị học Mỹ H.Almond và H.Paul
đã đưa ra định nghĩa văn hóa chính trị mà cho đến ngày nay vẫn được coi là
kinh điển: “Văn hoá chính trị là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá
nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ
quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý
nghĩa. Những định hướng cá nhân bao gồm một số thành tố, cụ thể là:
- Định hướng nhận thức: là hiểu biết đúng sai về các khách thể và các
tư tưởng chính trị. Những hiểu biết này có thể là hiểu biết trực quan về
chính trị, cũng có thể là tư duy chính trị đã được khoa học hoá.
- Định hướng tình cảm: đó là cảm giác về những mối liên hệ, sự lôi
cuốn, về mâu thuẫn…với các khách thể chính trị nào đó.
- Định hướng đánh giá: là ý kiến, nhận xét về khách thể trên cơ sở căn
cứ vào những hệ thống giá trị và tiêu chuẩn để đánh giá” [21; tr.216].
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm VHCT,
nhưng trong hệ thống học thuyết của các ông đều toát lên những tư tưởng,
quan điểm cơ bản về VHCT trên mọi khía cạnh đời sống chính trị của giai
cấp vô sản và nhân dân lao động như: vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn
21



đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; vấn đề xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa; vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa…
Theo V.I.Lênin, VHCT thể hiện trong văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản
lý và tổ chức; trong hành vi ứng xử giữa người có chức có quyền với quần
chúng, trong quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Để chính trị trở
thành VHCT, chủ thể cầm quyền phải giải quyết các mối quan hệ giữa chính
trị với khoa học, chính trị với đạo đức và pháp luật, giữa quyền lực và chân
lý một cách có văn hóa, giữa người lãnh đạo, quản lý nắm quyền lực với
giới trí thức khoa học và với các tầng lớp xã hội khác. “Một người không
biết chữ là người đứng ngoài chính trị; trước hết phải dạy a, b, c cho họ đã.
Không thế, thì không có chính trị; không thế, thì chỉ có những tin đồn đại,
những chuyện nhảm nhỉ, những chuyện hoang đường, những thiên kiến, chứ
không phải là chính trị”[17; tr.218]. C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin đều
cho rằng chỉ có thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở nền học
vấn hiện đại và nếu không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ
là nguyện vọng. Giai cấp công nhân cần có văn hóa, văn hóa trong chính trị,
VHCT - hạt nhân của văn hóa ấy là tư tưởng mình vì mọi người. Đặc điểm
của VHCT của giai cấp công nhân là chủ nghĩa tập thể, trung thực, thẳng
thắn, có trách nhiệm, thương yêu con người, tôn trọng danh dự và phẩm giá
con người.
Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong
xã hội có giai cấp. Nó biểu hiện khả năng, năng lực của con người trong
việc giác ngộ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, trong việc tổ chức, hoàn thiện
hệ thống tổ chức quyền lực, nhằm hiện thực hóa lợi ích giai cấp hay lợi ích
nhân dân, phù hợp với mục tiêu chính trị và sự tiến bộ xã hội. VHCT còn
biểu hiện khả năng, mức độ điều chỉnh những quan hệ chính trị, phù hợp với
truyền thống và những chuẩn mực giá trị xã hội do đời sống cộng đồng của
con người đặt ra. VHCT phản ánh trình độ tự do, dân chủ, công bằng, văn

minh vì sự tiến bộ của xã hội.
Tập thể các tác giả cuốn Từ điển chính trị rút gọn của Liên xô (cũ)
cho rằng: “Văn hóa chính trị là trình độ và tính chất của những hiểu biết
chính trị, những nhận định, những hành vi của công dân, cũng như nội dung,
chất lượng của những giá trị xã hội, của những chuẩn mực xã hội và sự hoàn
thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù hợp với phát triển và tiến bộ xã
hội, góp phần điều chỉnh những hành vi và quan hệ xã hội”[43; tr.341].

22


Các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam cũng đang trong quá trình cùng
nhau xây dựng một quan điểm đầy đủ về VHCT trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh thực sự có ý nghĩa xuất phát điểm cho quá trình tìm tòi, nghiên
cứu vừa mới mẻ, vừa phức tạp này.
Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục các mục tiêu của văn hóa chính trị
theo cả mô thức dân tộc – khoa học – đại chúng trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, đồng thời Người xác lập quan hệ văn hoá - chính trị trên
nền tảng dân tộc với nội dung xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng
xã hội chủ nghĩa. VHCT được tạo lập trong quan hệ chính trị mới, mà trong
những quan hệ đó đánh dấu sự trưởng thành về nhân cách chính trị của nhân
dân, làm gia tăng các khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân.
Trên cơ sở quan điểm mang tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí
Minh, các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt
khác nhau về khái niệm VHCT.
PGS.TS. Hoàng Chí Bảo quan niệm: “Văn hoá chính trị là chất lượng
tổng hoà của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức chính trị
công dân, thúc đẩy họ tới những hành động chính trị tích cực phù hợp với lý
tưởng chính trị của xã hội, là thói quen và nhu cầu tham gia một cách tự

giác chủ động vào các quan hệ chính trị xã hội của công dân, góp phần
hướng dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi ích chung của xã hội vì tiến bộ và
phát triển” [46; tr.115,116].
GS.TS. Phạm Ngọc Quang đưa ra khái niệm: “Văn hoá chính trị là
một phương diện của văn hoá trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng
lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan
hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị tiến bộ đựơc lập ra để
thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với
sự phát triển lịch sử. Văn hoá chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt
động chính trị của con người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để
thực hiện những lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng” [32; tr.19].
Căn cứ vào phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, cùng với việc kế thừa các giá trị trong quan niệm về VHCT
của các nhà nghiên cứu lý luận gần đây, có thể hiểu theo một nghĩa khái
quát nhất: Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn hoá
trong xã hội có giai cấp, nói lên chất lượng tổng hợp những giá trị vật chất
và tinh thần với hạt nhân là các giá trị chính trị nhân văn được con người
23


sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị, để thực thi trong quan hệ về
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhằm thực hiện lợi ích chính trị cơ
bản của giai cấp phù hợp với sự phát triển lịch sử; là sự phản ánh trình độ
trưởng thành nhân cách chính trị của các chủ thể chính trị trong đời sống
xã hội.
Là một phương diện của văn hóa, VHCT được biểu hiện tập trung
thông qua tính nhân văn, nhân đạo, dân chủ và tính trí tuệ, sáng tạo trong
chính trị.
Trước hết, chính trị là một lĩnh vực hết sức tinh tế, nhạy cảm, nó liên
quan đến sinh mệnh của hàng triệu con người, nên giá trị nhân văn, nhân

đạo là phương diện tồn tại cơ bản của VHCT. Mặt khác, chính trị nhân văn,
nhân đạo phải là chính trị của dân, do dân, vì dân, bởi vậy giá trị nhân văn,
nhân đạo có quan hệ chặt chẽ với giá trị dân chủ.
Bên cạnh đó, một phương diện tồn tại khác của VHCT chính là giá trị
trí tuệ, sáng tạo trong chính trị, như Lênin đã nói “chính trị vừa là khoa học,
vừa là nghệ thuật”. Chính trị đòi hỏi tính khoa học rất cao, đòi hỏi phải có
trí tuệ, và theo như Lênin thì đối với bất cứ hoạt động chính trị nào cũng cần
phải có sự chuẩn bị khoa học hết sức nghiêm túc. Chính trị cũng là một
nghệ thuật, nghệ thuật tìm những biện pháp đạt lợi ích có hiệu quả nhất,
nghệ thuật giải quyết những xung đột mâu thuẫn bằng con đường hòa bình,
nghệ thuật tiến hành các hoạt động chính trị một cách khôn khéo…Là nghệ
thuật, chính trị biểu hiện năng lực sáng tạo rất cao của chủ thể. Tất cả những
giá trị đó chính là văn hóa chính trị.
1.2.3. Cấu trúc của văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị có một cấu trúc rất phức tạp, bao gồm những thành
tố cơ bản có mối quan hệ hữu cơ, thống nhất trong một chỉnh thể. Có thể có
những cách tiếp cận khác nhau khi xem xét cấu trúc của văn hóa chính trị.
1.2.3.1. Văn hóa chính trị với tư cách là chủ thể chính trị - cá nhân và tổ
chức
Với tư cách là chủ thể, phản ánh trình độ của con người về chính trị,
VHCT được tạo thành bởi kết quả của sự thống nhất và tác động qua lại của
văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức (cộng đồng).
a. Văn hóa chính trị cá nhân
Cá nhân là phạm trù chỉ một con người, một cá thể người, một nhân
cách. Sự phát triển đầy đủ và toàn diện VHCT cá nhân phản ánh trình độ

24


chín muồi của chế độ dân chủ. Văn hóa chính trị cá nhân được thể hiện trên

ba mặt:
- Trình độ hiểu biết về chính trị.
- Khả năng, năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị.
- Mức độ hoàn thiện nhân cách.
VHCT cá nhân chịu sự chi phối bởi các tư tưởng xã hội, động cơ
chính trị và lợi ích giai cấp; phụ thuộc vào trình độ dân chủ xã hội và truyền
thống của dân tộc, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào toàn bộ kinh nghiệm
sống, kết quả đào tạo, tự đào tạo, sự phát triển trong hoạt động thực tiễn, sự
tự ý thức, tự phát triển. VHCT cá nhân thường được bộc lộ qua văn hóa ứng
xử, giao tiếp, tranh luận, bởi vì giao tiếp, ứng xử, tranh luận không chỉ thuần
túy là thái độ, là biểu hiện của lòng trung thành, mà còn là trình độ giác ngộ
chính trị, là năng lực trí tuệ, là đạo đức và tác phong, là động cơ chính trị
hướng về một lợi ích chính trị, một mục tiêu lý tưởng nhất quán cơ bản và
lâu dài.
VHCT cá nhân không chỉ thể hiện qua quan hệ giao tiếp, ứng xử, mà
còn bộc lộ đầy đủ ở năng lực, khả năng hoạt động sáng tạo, đặc biệt trong
việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền
lực chính trị. Con đường đi tới hoạt động sáng tạo bắt đầu từ tri thức, sự
hiểu biết chính trị, cơ sở để có hành động đúng; tiếp đến là tình cảm, động
lực cho hoạt động, yếu tố tạo cho tri thức trở nên sống động; từ hiểu biết
khoa học và tình cảm trong sáng, dẫn đến niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng,
con đường, mục tiêu đã chọn. Toàn bộ tri thức, tình cảm, niềm tin là cội
nguồn cho hoạt động sáng tạo, đồng thời thông qua hoạt động sáng tạo mà
tri thức được bổ sung, kiểm chứng và nâng cao, tình cảm thêm sâu sắc, niềm
tin được củng cố và hành động trở nên tự giác hơn, mãnh liệt hơn, văn hóa
hơn.
Ở Việt Nam, VHCT ở mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với những nhà lãnh
đạo, chính trị là sự thực hành VHCT Hồ Chí Minh với phương châm:
thường xuyên trau dồi kiến thức, tư duy khoa học, thực hành đạo đức cách

mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, nghiêm khắc với mình, khoan dung, độ
lượng đối với mọi người…
b. Văn hóa chính trị của tổ chức
VHCT cá nhân chỉ thực sự thể hiện và phát huy trong quan hệ với
VHCT của một tổ chức xác định, bởi con người bất cứ ở đâu và bất cứ bao
25


×