Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Đa nhân cách pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.78 KB, 6 trang )





Đa nhân cách


Đa nhân cách là sự thể hiện 2 hay nhiều nhân
cách khác hẳn nhau trong cùng một người.


Thế nào là đa nhân cách?

Trong hệ thống phân loại DSM-IV đa nhân cách không được xếp vào nhóm rối
loạn về nhân cách mà xếp vào nhóm I (rối loạn trí nhớ). Tuy nhiên, do đặc trưng
của nó liên quan đến nhân cách con người nên có thể được xếp vào nhân cách lệch
lạc.

Đa nhân cách là sự thể hiện 2 hay nhiều nhân cách khác hẳn nhau trong cùng một
người. Mỗi một nhân cách ở đây có một bộ khung trí nhớ, hành vi, cách suy nghĩ,
và cảm xúc riêng biệt. Vào một thời điểm nhất định, thì một nhân cách chiếm lĩnh
ý thức và tương tác với môi trường. Thông thường, một nhân cách cơ sở sẽ xuất
hiện thường xuyên hơn những nhân cách khác.

Sự chuyển từ dạng nhân cách này sang nhân cách khác thường diễn ra bất ngờ,
dưới ảnh hưởng của những sự kiện gây stress. Tuy vậy, thôi miên cũng có thể đem
lại sự chuyển này.

Một số nghiên cứu chỉ ra rằng có đến 97% số bệnh nhân đa nhân cách bị lạm dụng
thể xác (thường là tình dục) từ thưở ấu thơ (Ross, 1991; 1990; 1986; Dell và
Eisenhower, 1990).



Lý giải nguyên nhân bệnh đa nhân cách

Quan điểm phân tâm cho rằng bệnh đa nhân cách xuất hiện là do sự có mặt của
một cơ chế tâm lý cơ bản nhất - sự dồn nén thái quá: con người thoát khỏi sự lo hãi
bằng cách ngăn cản sự nhớ lại những kỷ niệm, suy nghĩ hay kích thích buồn từ
trong vô thức. Mọi người đều sử dụng cơ chế dồn nén ở một mức độ nhất định
nhưng những người bị bệnh đa nhân cách lại dồn nén ký ức của họ mãnh liệt một
cách thái quá đến mức huỷ hoại một số những chức năng tâm lý bình thường. Ở
những người bị bệnh đa nhân cách sự dồn nén diễn ra trong suốt một quãng đời.
Các nhà phân tâm cho rằng kiểu ứng phó này của họ xuất phát từ việc trải nghiệm
sự đau khổ quá mức từ thưở thơ ấu, thường là do sự lạm dụng của cha mẹ. Những
đứa trẻ này trở nên sợ hãi trước một thế giới nguy hiểm, vì thế chúng dựng lên và
sống trong những biểu tượng mà ở đó chúng được hoá thân thành những người
hoàn toàn khác, những người trông có vẻ an toàn hơn. Sự hoá thân này mạnh mẽ
hơn sự mơ tưởng vì chúng đã hành động thực sự như những người mà chúng hoá
thân vào. Những đứa trẻ bị lạm dụng cũng trở nên sợ những tác nhân kích thích mà
chúng tin rằng những cái đó sẽ làm chúng liên tưởng đến sự trừng phạt thái quá.
Họ đấu tranh để là những người "tốt", "có ích" và dồn nén trước những tác nhân
mà họ coi là "xấu", là "nguy hiểm". Khi những tác nhân "xấu" phá vỡ suy nghĩ của
họ thì ngay lập tức những đứa trẻ này cảm thấy ranh giới của sự từ bỏ và phủ nhận
chính mình và khi đó chúng chuyển một cách vô thức tất cả những suy nghĩ, những
tình cảm vốn không được chúng chấp nhận trước kia vào một nhân cách khác.
Trong tình huống này, nhân cách cơ bản của họ bị che đậy đi và những tiểu nhân
cách khác được tô màu thêm.

Quan điểm hành vi tin rằng đa nhân cách là một kiểu phản ứng đáp lại mà điều
kiện hoá chức năng (operant conditioning) đòi hỏi. Những người trải qua sự kiện
kinh khủng có thể tìm thấy sự khuây khoả tạm thời sau đó khi tinh thần của họ trôi
dạt vào những đối tượng khác. Với một số người, sự quên lãng tạm thời này đã làm

giảm được nỗi lo hãi và vì thế càng làm tăng sự quên lãng tương tự trong tương lai.
Tóm lại, những hành động lãng quên của họ đã được củng cố và họ thấy rằng sự
lãng quên này giúp họ tránh được nỗi lo hãi.

Trị liệu bệnh đa nhân cách

Những người bị bệnh đa nhân cách hiếm khi lấy lại được bản thân một cách tự
phát. Họ phải trải qua thời gian trị liệu thì mới có thể thay đổi được tình hình. Các
nhà trị liệu giúp họ bằng cách:

- Giúp họ nhận ra tình trạng rối loạn của mình một cách đầy đủ nhất: phương pháp
thôi miên hoặc phương pháp quay video về bộ mặt của những nhân cách khác
trong con người họ, sau đó cho họ xem lại thường được sử dụng trong giai đoạn
điều trị này.

- Tìm ra những kẽ hở trong trí nhớ của họ: giúp bệnh nhân tìm lại được những mẩu
trí nhớ đã mất về quá khứ. Thông thường phương pháp phân tâm được sử dụng
tương đối có hiệu quả.

- Thống thất các tiểu nhân cách thành một nhân cách: nhiều cách tiếp cận được áp
dụng trong giai đoạn này như phân tâm, nhận thức, và cả dùng thuốc nữa. Sau khi
đã thống nhất xong thì quá trình trị liệu vẫn tiếp tục để cung cấp cho bệnh nhân
những kỹ năng xã hội và cách ứng phó để có thể vượt qua sự lẫn lộn tương tự.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×