Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Cảm nhận vẻ đẹp sông hương nơi thượng nguồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.13 KB, 6 trang )

: Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương nơi thượng nguồn.
Bài làm
“Xanh mượt bờ xanh Huế, Huế ơi!
Cỏ cây đây đã hóa vườn trời
Người đi bước nhẹ khơng nghe tiếng
Mà nặng lòng yêu biết mấy mươi”
(Huế vấn vương)
Nếu như trong địa hạt thi ca từng có một Huy Cận nặng lịng thương nhớ
với dải đất miền Trung trầm mặc, tự tình như thế thì trong thế giới của bút kí,
người ta khơng thể nào qn nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường với tâm hồn thấm
đẫm dáng hình, tình ý xứ Huế mộng, Huế thương. Huế trong lòng họ - mỗi người
nghệ sĩ đều là cố đô đọng lại bao xúc cảm, nỗi niềm cùng dịng sơng Hương thơ
mộng êm trơi. Qua ngịi bút un bác, dịu dàng của mình, Hồng Phủ Ngọc Tường
đã chắp bút cho “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”, họa lại bức tranh Hương Giang
khơng chỉ xinh đẹp như người con gái trữ tình xứ Huế mà còn giàu truyền thống, ý
nghĩa trong trang sử Việt Nam, đặc biệt chính là đoạn văn miêu tả sơng Hương nơi
thượng nguồn - một vẻ đẹp đầy tuyệt mĩ và thơ mộng đuợc nhà văn thể hiện một
cách đầy tinh tế và sinh động.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở Quảng Trị,
ông sống và học tập, hoạt động cách mạng tại Huế, cuộc đời gắn liền với Huế nên
rất tình cảm, tâm hồn đã thấm đẫm nền văn hóa mảnh đất này. Hồng Phủ Ngọc
Tường là cây bút tài hoa ở thể bút kí, ơng có lối viết rất riêng. Nét đặc sắc trong
sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình,
giữa nghị luận sắc bén và tuy duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong
phú về nhiều lĩnh vực. Bút kí của ông là ánh thơ văn xuôi thấn đẫm chất thơ mang
vẻ đẹp, nỗi buồn của hoài niềm, những suy ngẫm triết học về lẽ sống. Nhà văn đã
từng có nhiều lúc đứng lặng hàng giờ trên bờ đê sông Hồng mà so sánh rằng “Sông
Hồng như một mạch máu lớn nuôi sống Thủ Đô. Nước sông theo kênh mương tỏa
đi khắp nơi như mạch máu chảy dọc cơ thể người”.
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” là bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ
Ngọc Tường viết tại Huế ngày 4/1/1981, in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí có


ba phần, và đoạn trích trong SGK được nằm trong phần thứ nhất. Đây là bài bút kí
rất đậm chất tùy bút, người đọc tìm thấy ở đó một phong cách tài hoa, tự do, phóng
khống với lối văn hóa sâu rộng, một tâm hồn nhạy cảm, rất mực say mê với cái


đẹp của cảnh vật và con người xứ Huế thân u. Trong tình u có một câu danh
ngơn rất nổi tiếng: “Trong tình u đích thực, người ta vừa được dâng tặng, vừa
được khám phá và hồn thiện chính mình”, thì sơng Hương cũng được xem như
một mối tình. “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” câu hỏi bâng khng. Khơi gợi biết
bao sự tìm tịi và thích thú, sự tìm kiếm cái đẹp tiềm ẩn trong sơng Hương và thiên
nhiên xứ Huế. Thể hiện một cái tôi mê đắm, nồng cháy, suy tư trước vẻ đẹp đầy
quyến rũ của Hương Giang. Cách đặt tên độc và lạ của tác giả đã thu hút sự tò mò,
cho người đọc những suy lắng và cảm nhận về một con sông thiên phú, của một
“nhan sắc” làm mê đắm lòng người.
“Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm của con người, là sự
tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” (Lê Ngọc Trà). Tình cảm ấy trong tâm hồn người
nghệ sĩ được chưng cất và gạn lọc, chắt chiu từ chính sự quan sát, những trải
nghiệm trong đời sống xung quanh. Với bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”, từ
góc nhìn thiên nhiên, văn hóa, lịch sử cùng với trí tưởng tượng phong phú, tri thức
uyên bác về nhiều lĩnh vực của nhà văn, người đọc đã được nhìn ngắm và chiêm
nghiệm hành trình tuyệt vời của nàng Hương xứ Huế. Sức hấp dẫn của thể kí chính
là ở chỗ nó cho phép nhà văn kí khai thác những suy nghĩ riêng, góc nhìn riêng và
những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, độc đáo khi phản ánh mn mặt của cuộc
sống chính mình. Tính chủ quan, chất trữ tình trong cái tơi nhà văn càng được thể
hiện khéo léo, minh chứng cho sự tài hoa, cho phong cách độc đáo của tác giả.
Tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tinh tế, nhạy cảm trước cái đẹp trữ tình sâu
lắng của thiên nhiên cảnh vật xứ Huế. Nhà văn khơng chỉ nhìn nó bằng đơi mắt mà
cịn cảm nhận bằng tất cả tâm tư xúc cảm. Đầu tiên, sơng Hương được ví như một
bản trường ca của rừng già, bản trường ca ấy ấy cất lên cái âm vang mãnh liệt của
sự hùng vĩ giữa núi rừng đại ngàn. Một bản trường ca khiến người ta đắm say tha

thiết. Đan quyện vào nhau hài hòa và ngân vang chính bởi hai nốt chủ âm: Đó là
những nốt mạnh, hùng vĩ, man dại, cuộc xoáy với chung bậc cao trào và âm réo rắt,
như xoáy người ta vào cái “hút nước” của khúc trình tấu đại ngàn; Đó cịn là những
nốt lặng dịu dàng, ngân nga khi Hương giang dịu dàng đi qua những dặm dài chói
lọi màu đỏ của ho đỗ quyên rừng – trong cái lạnh lẽo xuất hiện ngọn lửa ấm nóng
khiến con sơng rửa rỡ tỏa sáng.
Những âm thanh ấy đã tạo nên một nét mới mẻ và thú vị cho dịng
sơng nơi đây, vừa hoang dại, vừa đằm thắm, linh hoạt như một cô gái Huế thông
minh và cuốn hút. Dường như, trong những bước chân phong sương của người lữ
khách đi tìm và ngắm nhìn vẻ sóng sánh của mỗi dịng sơng, Hồng Phủ Ngọc
Tường vẫn chỉ tìm thấy sự son sắt, dành trọn một lịng mình cho “thành phố duy
nhất”, đó là sơng Hương - một dịng sơng khi mãnh liệt, khi êm đềm, khi dịu dàng,
rầm rộ. Câu văn dài với hình ảnh so sánh nổi bật cùng cấu trúc câu từ được điệp lại
liên tiếp và sự liên thanh liên tục của những động từ mạnh “rầm rộ”, “cuộn xoáy”
đã thể hiện tình cách sơi nổi, hoang dại của một dịng sơng đặc biệt nơi xứ Huế


mộng mơ. Hình ảnh rừng già, bóng cây đại ngàn, những ghềnh thác, cơn lốc,
những đáy vực bí ẩn như tiếp thêm cho câu văn một sức mạnh hùng vĩ của thiên
nhiên nơi đây. Những giữa những hùng vĩ, dữ dội ấy, dịng Hương cũng khơng
đánh mất đi vẻ dịu dàng và nên thơ của mình, nét tính cách như vừa hung bạo, vừa
trữ tình ở nàng Hương ấy khiến ta liên tưởng đến một Đà giang cũng ương ngạnh
và êm dịu khơng kém. Giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng, sông Hương đã phơi tỏ nét đẹp diễm lệ đặc biệt của mình, màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng cháy rực tròn tháng cũng giống như màu xn sắc của dịng sơng mềm
mại, bản lĩnh này.
Trong lịng Trường Sơn, sơng Hương mang vẻ đẹp hoang dại, nguyên sơ,
thánh thiện của tự nhiên: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa
cuộc đời của mình như một cơ gái di gan phóng khống và man dại…Rừng già đã
hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do trong sáng”. Như người

thiếu nữ Đà giang với mái tóc dài vơ tận, cô gái Hương giang năng động, tự do,
không theo chuẩn quy nào, khơng chịu gị bó mà cứ phơi hết cái sức sống căng
tràn, mơn mởn của “tuổi trẻ”. Biện pháp nhân hóa đã giúp nhà văn hình dung sơng
Hương như một cô gái Digan – một trong những tộc người mang vẻ đẹp hoang dã,
phóng khống, tự do, đầy khỏe khắn - đặc trưng vốn có của bộ lạc du mục Digan.
Sắc vóc ấy thật xinh đẹp mà cũng thật hoang dại, thật cá tình và khiến người ta
phải mải miết đi tìm. Và với Hồng Phủ, ơng đã trân trọng nhìn ngắm vẻ đẹp ấy,
liên tưởng đến sắc nước hương trời nơi Hương giang của Huế thơ, Huế tình mà gửi
gắm vào thiên bút kí. Sơng Hương như nàng thơ tinh nghịch của rừng già Trường
Sơn, chính rừng già là cội nguồn để sông Hương tỏa sáng; chở che cho sơng
Hương và u thương dịng sơng bằng tất cả sự trân trọng dành cho cá tình của
nàng. Động từ “hun đúc” thể hiện một mối quan hệ gắn bó sâu đậm giữa rừng già
và sơng Hương, cánh rừng đã rèn luyện, đã dõi theo và hình thành cho dịng sơng
nên thơ một bản lĩnh gan dạ, kiến cường nhưng không tước mất đi sự tự do, sáng
trong tâm hồn dịng sơng son trẻ. Thiên nhiên rừng, sơng như hịa lẫn trong trang
bút kí, phơi bày một tấm lịng người nghệ sĩ chưa bao giờ thơi dành lịng u đất
trời nước Việt. Cuộn chảy trong nàng Hương là cá tính và nét khỏe khoắn, man
dại đầy cuốn hút, “Nhưng chính rừng già nơi đây, với trúc đặc biệt có thể lý giải
được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình”.
Sơng Hương như một sinh thể cá tính và sống động được rừng già tôi luyện và uốn
nắn, để rồi người con gái ấy ln sáng tỏa nên hình dung của một cô gái uyển
chuyển, khéo léo. Rừng già đã thực hiện sứ mệnh tuyệt vời với đầy dủ thương yêu,
bởi cánh rừng ấy đã chế ngự được sức mạnh bản năng của dịng sơng, giúp giúp
dịng sơng có thể trở thành như cách lớn lên của mỗi người con gái.
Cá tình và man dại như một cơ gái Digan, phóng khống rồi chốc lại dịu
dàng đằm thắm như một cơ gái tinh tế khéo léo bộc lộ mình, Hương giang đã vững
vàng qua từng gai đoạn của đời sông. Đến khi “Ra khỏi rừng sông Hương nhanh


chóng mang một màu sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ trở thành người mẹ phù sa của

một vùng văn hóa xứ sở”. Nhà văn đã nâng dịng sơng từ một người con gái trở
thành một người mẹ, một hành trình thiêng liêng đã góp phần tạo nên, gìn giữ, bảo
tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Sông Hương lúc này không cong chỉ
là một cô gái với bản năng mãnh liệt, với cá tính cuộn trào nữa, mà nàng Hương đã
trưởng thành theo những dòng chảy của cuộc đời, đằm thắm một sắc đẹp dịu dàng
và trí tuệ - tính cách cần có nơi những người phụ nữ, người ẹ tuyệt vời. Từng câu
văn của Hoàng Phủ như một bức tranh vẽ sống động, khiến người ta hình dung đến
một người mẹ ơn nhu, dịu hiền nhưng rất mực tinh tế. Qua đó, ta càng có thể khẳng
định: Sơng Hương mang trong mình thiên tình nữ, dù là cơ gái hay người mẹ thì
cũng mang vẻ đẹp tài sắc vẹn tồn bởi ngoại hình xinh đẹp, trái tim trong sáng, bản
lĩnh gan dạ, trí tuệ uyên bác mà nó đã mang theo làm hành trang qua khắp xứ sở.
Sơng Hương đã góp phần bồi đắp văn hóa Huế, nếu khơng có sơng Hương, Huế
dường như mất đi một linh hồn, Huế dương như sẽ chẳng còn là Huế. Sông Hương
đã là Huế làm nên “một vùng văn hóa xứ sở”.
Trong hành trình ấy, sơng Hương muốn giấu kín đi tất thảy phần bản
năng hoang dại biến đổi một cách hoàn toàn, lột xác trở thành một con người khác
trước khi tìm về quá khứ: “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khn mặt kinh thành của
nó, tơi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sơng
Hương với cuộc hành trình gian trn mà nó đã vượt qua, khơng hiểu thấy phần
tâm hồn sâu thẳm của nó mà dịng sơng hình như khơng muốn bộc lộ, đã đóng kín
lại ở mọi cửa rừng và nén chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim
Phụng”. Sông Hương không chỉ chủ động biến đổi lột xác để có thể hịa hợp với
nét dịu dàng của xứ Huế mà ở đây còn hiện lên từ hình ảnh người con gái đầy cá
tình, nổi loạn trưởng thành mang vẻ đẹp dịu dàng, trẻ trung, sẵn sàng cho hành
trình tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm một nửa của chính mình. Một dịng sơng như
thế, làm sao có thể khiến người ngắm nhìn thơi thương mến và quý trọng? Để rồi
giữa mọt chiều nhạt nắng, ta dương như khơng thể ngắn mình thơi thổn thức trước
một dịng dơng tình tự như thế:
“Ta về thăm Huế mộng mơ
Câu thơ ai thả lững lờ trên sông

Nghe mênh mang, thổn thức lịng
Con thuyền bng lái giữa dịng Hương Giang.”
Bằng những hình ảnh đầy ấn tượng với việc sử dụng biện pháp tu từ nhân
hóa, Hồng Phủ Ngọc Tường đã gợi ra tình cách “man dại”, “mãnh liệt” của sơng
Hương ở thượng nguồn. Chính bởi lẽ đó mà nhà văn nhắc nhở ta ý nghĩ rằng
“người ta sẽ không hiểu đầy đủ bản chất của sơng Hương với cuộc hành trình đầy
gian trn mà nó đã vượt qua, khơng thấu hiểu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà
dịng sơng hình như khơng muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa
khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Ngay từ đầu trang viết,


người đọc đã cảm nhận được sự tài hoa của ngịi bút Hồng Phủ Ngọc Tường: liên
tưởng kì thú, xác đáng, ngọn từ gợi cảm… tất cả tạo sự cuốn hút, hấp dẫn về một
con sơng có linh hồn, sự sống. Ai đó đã từng nói: “Nhà văn phải là người sống sâu
với cuộc đời do đó hết sức nhạy cản với vấn đề xã hội và những vấn đề ấy thôi
thúc khiến nhà văn biến chúng thành cảm hứng. Tuy nhiên để có những tác phẩm
lớn nguoifw viết cần phải có những tư tưởng, quan niệm và phải có năng khiếu
nghệ thuật, đó là sự tưởng tượng và những kĩ năng sáng tạo”. Đi trên thiên chức
của một nhà văn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lặn sâu vào từng nết sông qua mỗi
mùa, qua mỗi khúc giao cảm, qua mỗi chặng hành trình của Hương giang để thấu
hiểu mọi ngõ ngách của dịng sơng. Nếu như tạo hóa đã dành tặng cho nước Việt
một dịng sơng tuyệt vời thì cuộc đời đã riêng dành cho thế giới văn chương một
người nghệ sĩ với khả năng quan sát, đôi mắt thấu suốt và một tấm lòng rộng mở
với mọi liên tưởng, sáng tạo đặc sắc.
Nói rằng Hồng Phủ Ngọc Tường u Huế và hiểu Huế, thì đó là một
lẽ đương nhiên. Tơi muốn đi xa hơn, tìm một căn ngun thầm kín để cắt nghĩa
cho sự thành cơng mỹ mãn của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một sự
hịa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với
một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tưởng giao, đến
mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần

thứ hai viết được như thế. Ngỡ như không khác được: viết về sông Hương là phải
vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được
chọn lựa cân nhắc kĩ càng, vì hình ảnh được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong
phú bất ngờ, mới mẻ (Phạm Xuân Ngun”.
Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” đã mang đến những phát hiện
mới lạ và độc đáo của sơng Hương cho độc gải cả nước. Nó là một dịng sơng man
dại, hoang tàn ở khúc thượng nguồn, sơng Hương đi vào trong trang văn của
Hồng Phủ Ngọc Tường khơng vơ tri vơ giác mà nó cịn cảm xúc, có tình u. Tác
phẩm đã thể hiện được tình yêu quê hương, xứ sở nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, một kí giả nặng lịng với Huế:
“Dịng sơng ai đã đặt lên
Để người đi nhớ Huế mãi không quên
Xa con sông mang bao nhiêu nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ”.




×