TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
ĐÀN TRANH TRONG CUỘC SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT
NAM
Mã số đề tài: DTSV.07.2021
Chủ nhiệm đề tài
Lớp
Cán bộ hướng dẫn : TS. Nguyễn Tuệ Chi
TIEU LUAN MOI download :
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
ĐÀN TRANH TRONG CUỘC SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT NAM
Mã số đề tài: DTSV.07.2021
Chủ nhiệm đề tài
: Đào Trà Linh – 1805QLVB
Thành viên tham gia :
Vương Thị Kim Anh – 1805QLVA
Bùi Trà My – 1805QLVA
TIEU LUAN MOI download :
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................6
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................. 1
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:...............................................2
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU........................................................................... 3
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU...............................................3
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................3
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI............................................................................. 4
7. BỐ CỤC:..........................................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỀ CÂY ĐÀN TRANH......................................5
1.1 Vài nét về cây đàn Tranh.................................................................................. 5
1.1.1. Nguồn gốc....................................................................................................5
1.1.2. Những truyền thuyết cổ về cây đàn Tranh:............................................... 8
1.2. Cây đàn tranh trong thơ ca........................................................................... 11
1.3. Cấu tạo và đặc điểm diễn tấu của đàn Tranh.............................................. 14
1.3.1. Cấu tạo của cây đàn Tranh:..................................................................... 14
1.3.2. Kỹ thuật diễn tấu....................................................................................... 16
1.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến diễn tấu của cây đàn Tranh....................19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1:..................................................................................20
CHƯƠNG 2: ĐÀN TRANH - SỰ SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI VIỆT............21
2.1. Những q trình Việt hóa đàn Tranh...........................................................21
2.1.1. Hình thức...................................................................................................21
TIEU LUAN MOI download :
2.1.2. Cách diễn tấu.............................................................................................22
2.1.3. Phạm vi sử dụng........................................................................................26
2.2. Nghệ thuật đàn Tranh và đời sống tinh thần ba miền Việt Nam...............27
2.2.1. Khái niệm về đời sống tinh thần...............................................................27
2.2.2. Đàn Tranh và văn hóa đời sống tinh thần của người miền Bắc.............31
2.2.3. Đàn Tranh và văn hóa đời sống tinh thần của người miền Trung.........35
2.2.4. Đàn Tranh và văn hóa đời sống tinh thần của người miền Nam...........41
2.2.5. Trình diễn đàn Tranh tại các cơ sở dịch vụ.............................................46
2.3. Đàn Tranh và âm nhạc hiện đại trong văn hóa ngày nay........................... 49
2.3.1. Giữ gìn và đa dạng hóa các hoạt động nghệ thuật biểu diễn đàn Tranh.
49
2.3.2. Đổi mới nội dung và hình thức để phát triển nghệ thuật đàn Tranh.. . .51
2.3.3 Kết nối tinh thần của người Việt với đàn Tranh.......................................52
TIẾU KẾT CHƯƠNG 2:..................................................................................57
KẾT LUẬN........................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................59
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH..................................................................................... 60
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Đàn Tranh trong đời sống văn hóa tinh thần
của người Việt”, các kết quả được trình bày dưới đây là trung thực, khách quan, do
TIEU LUAN MOI download :
chính chúng em thực hiện tìm hiểu, nghiên cứu. Nếu có gì khơng đúng, chúng em
xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
TIEU LUAN MOI download :
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Tuệ Chi, cô
là người đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho nhóm em trong suốt quá trình
thực hiện đề tài này. Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa
Quản lý xã hội đã tạo điều kiện cho chúng em hoàn thành bài nghiên cứu khoa
học. Nhân đây cũng xin được cảm ơn những quán cà phê, quán bar và Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đã cho phép chúng em tham gia nghiên cứu
trong quá trình viết bài.
Do trình độ kiến thức chưa sâu, thời gian thu thập tài liệu tại chưa nhiều, người
viết cịn thiếu sót trong đề tài này. Kính mong các thầy cơ và các bạn đóng góp
ý
kiến để cơng trình đầu tay này của chúng em được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2021
Giảng viên hướng dẫn
Chủ nhiệm đề tài
Đào Trà Linh
TIEU LUAN MOI download :
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đàn Tranh làmộtnhac cu rậaậ̂́tphộabộ̂̉ iệaậ̂́n trong đòi sộaậ̂́ng ậm nhac ổViệtNam,
đuoc nhiệệ̀u nguòi yệu thichaậ̂́ tùnộng thộn đệaậ̂́n thành thi. Đàn Tranh là nhạc cụ cổ
truyền, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, cây đàn Tranh vẫn tồn tại và có
nhiều phát triển vượt bậc đến ngày nay.
Với tư cách là một trong những nhạc cụ sớm góp phần làm nên bộ mặt văn
hóa, nghệ thuật riêng và độc đáo của Việt Nam, cây đàn Tranh đã có sự gắn bó
khăng khít, mật thiết với đời sống tâm hồn của nhân dân ta trải qua nhiều thế kỷ.
Vốiậm sấctrong trểo, sấng suộ̂̉a, đàn Tranh cốthệaộ̂̉đẩm nhận nhiệệ̀u chuậ̂́cna ng biệaộ̂̉u
diệaệ̂̃nnhu độc tậaậ̂́u, hoàtậaậ̂́u trong cấctộaộ̂̉chuậ̂́c dàn nhac truyệệ̀n thộaậ̂́ng... Ma c dùcố
nguộệ̀n gộaậ̂́cxuậaậ̂́txuậ̂́tùđậaậ̂́tnuốckhấcnhung đàn Tranh đẫđuoc Việthoấrậaậ̂́tnhanh
vàtrổthành mộtloai nhac cu dận tộc đuoc động đẩo quậệ̀n chuậ̂́ng nhận dận đốn
nhận.
Đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện rất rõ sự đan
xen giữa các giá trị cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại. Đàn Tranh Việt
Nam là một cây đàn đã được lưu truyền từ thời trước, nhưng nó vẫn tiếp tục
được phát triển sao cho phù hợp với xu thế hiện tại. Đời sống tinh thần ở nước ta
đang diễn ra sự tương tác mạnh mẽ giữa giá trị dân tộc và quốc tế do sự ảnh
hưởng của tồn cầu hóa. Đúng vậy, khi đàn Tranh không chỉ tấu lên những khúc
nhạc cổ truyền mang tính dân tộc mà nó cịn có thể đem lại sự mới mẻ qua
những giai điệu của nước bạn.
Người Việt đã Việt hóa đàn Tranh như thế nào? Và đàn Tranh đã tồn tại
trong đời sống tinh thần của người Việt ra sao, để đàn tranh trở thành một nhạc
cụ truyền thống của dân tộc Việt. Tất cả những suy nghĩ này đã thôi thúc chúng
em mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Đàn Tranh trong đời sống tinh thần của người
Việt”
1
TIEU LUAN MOI download :
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Hiện nay đã có khá nhiều người quan tâm tới đàn Tranh. Đặc biệt tại Học
viện Âm nhạc Quốc gia và các cơ sở đào tạo nghệ thuật khác có khá nhiều
nghiên cứu viết về đàn tranh.
Trong Luận văn Thạc sĩ “Giảng dạy tác phẩm viết cho đàn tranh tại
trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, của tác giả Ths. Nguyễn Khánh Chung,
ông đã nghiên cứu về thực trạng giảng dạy đàn Tranh và đưa ra các giải pháp bổ
sung vào phương pháp dạy và học đàn. Bên cạnh đó phải kể đến một số đề tài
cũng đi vào phương thức giảng dạy đàn Tranh như: Luận văn Cao học “Biên
soạn giáo trình và giảng dạy đàn Tranh bậc Trung học dài hạn tại Học viện Âm
nhạc quốc gia Việt Nam” của Ths. NSUT. Phạm Trà My năm 2005. Nội dung
của luận đề cập đến các tác phẩm viết cho đàn tranh diễn tấu, cùng với các
phương pháp giảng dạy, kiến thức và kỹ năng giảng dạy cho các giảng viên
giảng dạy môn nhạc cụ đàn tranh ở bậc học trung cấp.
Luận văn Thạc sĩ “Khai thác kỹ năng diễn tấu tác phẩm mới cho đàn
Tranh và ứng dụng trong giảng dạy tại Học viện Âm Nhạc Quốc gia Việt Nam”
của Ths. NSUT. Mai Thị Lai năm 2008, tác giả đã nghiên cứu ở góc độ về kỹ
thuật diễn tấu áp dụng cho đàn Tranh, tác giả đã khai thác và nghiên cứu cách
diễn tấu cho các tác phẩm mang hơi thở đương đại, để từ đó mang đến một màu
sắc mới, phong phú và năng động hơn trong cách diễn tấu của đàn Tranh.
Tất cả các bài viết nghiên cứu của các tác giả đi trước đều có đề cập đến
cây đàn Tranh, tuy nhiên mỗi tác giả lại đi sâu vào nghiên cứu những khía cạnh
khác nhau của cây đàn Tranh, cụ thể là nghiên cứu về phương pháp giảng dạy,
nghiên cứu về kỹ thuật diễn tấu, nghiên cứu những kỹ thuật mới trong các tác
phẩm đương đại. Trong số các tư liệu chúng em sưu tầm được đều không đề cập
đến vấn đề nghiên cứu của chúng em, nhưng đây cũng là những tư liệu quý giá
giúp chúng em nghiên cứu đề tài “Đàn Tranh trong đời sống tinh thần của người
Việt”.
2
TIEU LUAN MOI download :
Bản thân là sinh viên theo học ngành văn hóa, chúng em muốn đi sâu tìm
hiểu về văn hóa tinh thần của người Việt khi sáng tạo việt hóa để cây đàn Tranh
trở thành một nhạc cụ truyền thống của dân tộc Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tìm hiểu đời sống tinh thần của người với sự góp mặt của
đàn Tranh
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về tính tinh thần mà đàn Tranh mang
lại cho người Việt trong cuộc sống.
- Phạm vi nghiên cứu: Đàn Tranh trong cuộc sống sinh hoạt âm nhạc của
người Việt hiện nay (đàn Tranh trong các buổi biểu diễn nghệ thuật, trong các tụ
điểm sinh hoạt của giới trẻ...)
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này nhóm chúng em đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
-
Phương pháp điền dã thực địa phỏng vấn:
Ngày 17/4/2021, nhóm nghiên cứu đã có mặt tại Học viện Âm nhạc Quốc
gia Việt Nam, gặp mặt và có cuộc trò truyện phỏng vấn cùng NSUT. Vũ Thị Việt
Hồng. Cơ là một nhà giáo một nghệ sĩ đã có những cống hiến không nhỏ trong
lĩnh vực nghiên cứu giảng dạy,và biểu diễn đàn Tranh. Nhóm tác giả đã trao đổi
và nhận được nhiều thơng tin, kiến thức bổ ích phục vụ cho đề tài như: nguồn
gốc xuất hiện của cây đàn tranh, các kỹ thuật diễn tấu, sự khác biệt của cây đàn
tranh truyền thống của người Việt với đàn tranh Trung Quốc….
Cùng ngày hơm đó, nhóm nghiên cứu cũng đã được phỏng vấn các bạn
sinh viên đang theo học khoa Nhạc cụ truyền thống, bộ môn đàn Tranh của
trường. Những thơng tin mà nhóm tác giả nhận được từ các bạn sinh viên Học
viện Âm nhạc quốc gia trong kỹ thuật diễn tấu trong các bản phối mới. Phạm vi
và không gian mà đàn tranh thường biểu diễn.
3
TIEU LUAN MOI download :
Ngày 19/4/2021, nhóm nghiên cứu có chuyến khảo sát tại một số nhà
hàng, khách sạn, quán cà phê…để tìm hiểu nhu cầu thưởng thức đàn Tranh.
Nhóm đối tượng là khán giả cũng mang đến những tư liệu khá thú vị và quý giá
cho nghiên cứu này.
-
Phương pháp nghiên cứu tài liệu liên quan đến vấn đề:
Với đề tài nghiên cứu là nhạc cụ truyền thống, nhóm tác giả đã
khơng ngừng tìm kiếm những tài liệu nghiên cứu đi trước, đọc thêm
những tài liệu trên internet và sắp xếp, liên kết với nhau thành một
bài nghiên cứu hoàn chỉnh. - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng
hợp, so sánh:
Nhóm nghiên cứu đã lập ra một bảng thống kê về cách tiếp thu âm nhạc
từ đàn Tranh của nhiều đối tượng như: đối tượng chuyên nghiệp, đối tượng lớn
tuổi, đối tượng nhỏ tuổi. Qua đó, nhóm nghiên cứu sẽ thống kê và đưa ra kết
luận về sức ảnh hưởng của đàn Tranh đối với người Việt hiện nay.
6.
Đóng góp của đề tài
-
Đề tài của chúng em là những cố gắng nghiên cứu về vấn đề người Việt
đã tiếp thu, sáng tạo, sử dụng cây đàn Tranh như thế nào, vào hoạt động gì..để
mang lại giá trị tinh thần cho mình.
-
Sự liên quan mật thiết giữa cây đàn Tranh, âm thanh giọng nói của con
người, nó có sự ảnh hưởng lớn đến những vấn đề kỹ thuật của cây đàn.
7.
Đề tài là tư liệu tham khảo cho các ngành văn hóa học, văn hóa nghệ thuật
Bố cục:
Đề tài được kết cấu gồm các phần mở đầu, nội dung, tài liệu tham khảo và
phụ lục đính kèm.
Nội dung của đề tài bao gồm hai chương:
Chương 1: Tổng quát về cây đàn Tranh.
Chương 2: Đàn Tranh – sự sáng tạo của người Việt.
4
TIEU LUAN MOI download :
CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỀ CÂY ĐÀN TRANH
1.1 Vài nét về cây đàn Tranh
1.1.1. Nguồn gốc
Đàn Tranh khơng có nguồn gốc từ Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu thì
đàn tranh Việt Nam giống với loại đàn sắt (Se) và đàn cổ tranh (Guzheng) của
Trung Quốc.
Lịch sử của đàn Tranh kéo dài từ lịch sử Trung Quốc thời kỳ đầu. Đó là
một trong những nhạc cụ có dây quan trọng nhất được tạo ra ở Trung Quốc,
trước khi đàn cổ tranh ra đời, người Hoa đã chế tạo ra đàn sắt (sắt cầm hoặc cổ
sắt), có âm vực rộng tới 5 quãng tám.
Đàn sắt là một nhạc cụ rất phổ biến trong thời Tây Chu và thời Xuân Thu.
Các mẫu vật cịn sót lại đã được khai quật từ những nơi như tỉnh Hồ Bắc và Hồ
Nam và khu vực Giang Nam của Trung Quốc. Những nơi khác bao gồm Giang
Tô, An Huy, Sơn Đông và Liêu Ninh. Ở Hồ Bắc, lăng mộ của Tăng Hầu Ất (cuối
thập niên 400 trước Công nguyên) là một kho báu của các nhạc cụ cổ xưa của
Trung Quốc, bao gồm một bộ hoàn chỉnh của biên chung (chuông đồng), đàn sắt
và đàn cổ cầm, chng đá (biên khánh) và trống.
Đồn tùy tùng âm nhạc của ông gồm 21 cô gái và phụ nữ cũng được chôn
cất cùng ông. Vào thời Chiến Quốc, các loại cổ tranh ban đầu đã xuất hiện, được
phát triển từ đàn sắt.
Niên đại về đàn cổ tranh Trung Quốc - có sự khác biệt rất rõ rệt ở phần
đi đàn và hậu nhạc sơn theo từng thời kỳ
Vì vậy, đơi khi người ta nói rằng cổ tranh về cơ bản là một phiên bản nhỏ
hơn và đơn giản hơn đàn sắt rất nhiều. Đàn sắt cũng được trưng bày ở các bảo tàng
lịch sử và dân tộc ở Trung Quốc, nhiều nghệ nhân cũng chơi loại đàn này và nếu
như có bán ra thị trường thì giá của đàn sắt vơ cùng đắt đỏ so với cổ tranh. Chính vì
vậy đàn sắt vơ cùng hiếm đưa vào sử dụng trong dàn nhạc dân tộc để hoà tấu nên
đàn sắt ln trở thành thứ bị qn lãng. Cũng có nhiều đề cập trong văn học Trung
Quốc, như trong Kinh Thư (Cổ điển của thơ ca) và Luận ngữ của
5
TIEU LUAN MOI download :
Khổng Tử. Sắt cầm luôn là một nhạc cụ cao cấp. Ngay từ thời nhà Chu, nó đã
được sử dụng để chơi nhạc theo nghi thức để cúng tế.
Từ đó cổ tranh đã trải qua nhiều thay đổi trong lịch sử lâu dài của nó. Mẫu
vật lâu đời nhất được phát hiện là đàn tranh 14 dây và có niên đại khoảng 500
năm TCN, có thể trong thời Chiến Quốc (475 năm trước Công nguyên). Cổ
tranh trở nên nổi bật trong triều đại Tần (221 Tái 206 TCN). Vào thời nhà
Đường (618 TCN), cổ tranh có thể là nhạc cụ được chơi phổ biến nhất ở Trung
Quốc lúc bấy giờ.
Trong triều đại nhà Thanh (1644-1912 CE), các dây đàn Tranh được
chuyển sang dây đồng thau. Dây hiện đại hầu như luôn được bọc thép bằng
nylon. Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1970, các dây đàn đa vật liệu
này đã tăng âm lượng của nhạc cụ trong khi vẫn duy trì âm sắc chấp nhận được.
Cũng từ đàn sắt và đàn cổ tranh mà người Trung Quốc còn chế tạo ra hai
loại đàn là đàn trúc do Cao Tiệm Ly chế tác, sử dụng một que để gõ vào dây đàn
tương tự đàn tam thập lục, một tay dùng ngón để nhấn dây đàn. Đơi khi đàn trúc
cũng được dùng 2 que gõ, ban đầu đàn trúc cũng chỉ vỏn vẹn 5 dây và khơng có
con nhạn như cổ cầm, sau đó được mắc thêm con nhạn và kể từ đó đàn trúc có
ba loại: 5 dây, 12 dây và 20 dây; ngưu cân cầm cũng thuộc đàn tranh chi gõ là
loại đàn tranh kích thước từ nhỏ cho tới lớn như đàn sắt, sử dụng que tre để gõ
tương tự đàn trúc. Thân đàn hình chữ nhật lớn và nó chun trị dịng nhạc dân ca
ở Ơn Châu, Triết Giang và đàn yết tranh có từ thời nhà Đường, sử dụng cây vĩ
để kéo mà du nhập vào bán đảo Triều Tiên trở thành đàn ajaeng. Riêng với
người Choang, yết tranh của họ được gọi là tranh ni hay toả cầm, nhỏ hơn yết
tranh và văn chẩm cầm - yết tranh cỡ nhỏ chỉ vỏn vẹn 9 dây. Tuy nhiên thì văn
chẩm cầm khơng dùng từng con nhạn rời rạc mà dây đàn của văn chẩm cầm
được mắc bới một cầu đàn hình vịng cung. Nếu yết tranh Trung Quốc cũng như
ajaeng Triều Tiên kéo theo phương nằm ngang khi đặt đàn thì văn chẩm cầm và
tranh ni được đặt dọc để chơi, giống như kéo đàn cello. Cũng chính vì thế mà họ
đàn tranh Châu Á ngày càng trở nên phong phú.
6
TIEU LUAN MOI download :
Ngưu cân cầm là đàn tranh dùng que gõ truyền thống ở tỉnh Chiết Giang,
trong đó huyện Bình Dương là cái nôi ra đời của nhạc cụ này. Trước đây, dây
đàn được làm từ gân bị, trải qua cơng đoạn rửa sạch, lấy gân từ xương bị, tách
sợi, phơi khơ nhưng ngày nay ngưu cân cầm hầu như sử dụng dây cước hay
nhựa tổng hợp. Về giá trị bảo vệ, ngưu cân cầm có giá trị trong lịch sử, văn hóa,
thực tiễn và sự khéo léo. Về mặt giá trị lịch sử, nó đã được phát triển thành cơng
vào thời Quảng Đơng kể từ thời nhà Thanh và có lịch sử hơn 100 năm.
Toả cầm - đàn tranh dùng vĩ, cùng họ với yết tranh và văn chẩm cầm
trong họ đàn tranh, chi kéo. là một nhạc cụ cổ xưa và đặc biệt, chỉ được tìm thấy
ở Thanh Châu. Nguồn gốc của nghệ thuật đàn tỏa cầm Thanh Châu liên quan
đến nguồn gốc của âm nhạc dây Trung Quốc và thậm chí cả thế giới của âm
nhạc có dây. Nó có giá trị lịch sử cao để nghiên cứu sự phát triển của âm nhạc cổ
đại. Đàn tranh này có thể nói là có nghĩa là "hóa thạch sống". Loại toả cầm được
sử dụng phổ biến nhất ở Thanh Châu là toả cầm sử dụng dây kép.
Đàn tranh của người Triều Châu Trung Quốc gồm có hai loại: truyền
thống và cách tân; có ý kiến cho rằng nó được sản xuất năm 1800 tại Quảng
Châu, Trung Quốc. Loại này được thiết kế theo phong cách thời nhà Tống. Đàn
tranh Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nặng từ loại đàn tranh Triều Châu truyền
thống: có trục đàn và dây bằng thép mảnh, trong khi loại cách tân chốt dây được
giấu trong hộp điều âm. Đàn tranh Triều Châu ảnh hưởng mạnh tới các trường
phái lớn của hệ thống trường phái đàn tranh Trung Quốc. Âm nhạc Triều Châu
là một trong những loại nhạc dân gian cổ xưa của Trung Quốc, chủ yếu lan rộng
ở phía đơng Quảng Đơng, miền nam Phúc Kiến, Đài Loan, Hồng Kông và
Macao và những nơi người Triều Châu sống ở các nước Đơng Nam Á. Nó có
một lịch sử lâu dài, nền tảng đại chúng của nó là vững chắc và sâu sắc, và tiết
mục của nó khá phong phú. Có hàng ngàn âm nhạc hiện có. Với sự thay đổi của
lịch sử, âm nhạc Triều Châu đã hình thành những đặc trưng và phong cách nghệ
thuật độc đáo. Đây là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa nghệ
thuật và là một di sản âm nhạc dân gian có giá trị.
7
TIEU LUAN MOI download :
Như vậy, niên đại về đàn tranh Trung Quốc cũng cho thấy qua từng thời
kỳ và từng triều đại Trung Hoa mà hậu nhạc sơn và đuôi đàn của đàn tranh có sự
biến đổi khác nhau theo thời gian. Loại cổ tranh ngày nay của Trung Quốc có
tiền nhạc sơn dạng chữ S gợn sóng, hoặc chữ C…1
Khoảng từ đời Trần, những dòng đàn sắt và đàn cổ tranh được du nhập từ
Trung Quốc sang nước Việt. Các dòng đàn được sử dụng dưới nhiều dạng như 9
dây, 15 dây, 16 dây và thường xuyên được cải tiến biến đổi số dây cũng như chất
liệu dây đàn từ dây tơ đến dây cước, dây đồng hay dây thép.
Qua 7, 8 thế kỷ, người nước Việt dùng và bản địa hóa nó, tạo cho nó
phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang âm điệu
thức, biến nó trở thành một loại nhạc cụ bản địa mang tính dân tộc, phù hợp với
quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngơn ngữ âm nhạc Việt Nam.
Đúng vậy, người Việt đã “Việt hoá” cây đàn, tạo ra những đặc điểm phù hợp với
nền âm nhạc và đời sống của Việt Nam, khiến nó mang một phong cách đặc sắc,
mang âm hưởng dân tộc Việt.
1.1.2. Những truyền thuyết cổ về cây đàn Tranh:
Với một xuất xứ từ nơi nước bạn và có mặt từ lâu đời, đàn Tranh cũng có
khá nhiều những câu truyện truyền thuyết rất hay dành riêng cho nó.
Như đã nêu ở trên, đàn Tranh có nguồn gốc từ Trung Quốc, người ta cho
rằng ngày xưa Phục Hy đã tạo ra cây đàn Sắt có 50 dây, nó đi thành một đơi với
đàn Cầm. Cầm là giống trống, Sắt là giống mái, vì vậy mới có câu "duyên Sắt
Cầm đừng lợt phai". Về sau đến thời vua Huỳnh Đế thấy có nhiều dây quá nên
giảm lại cịn 25 dây.
Truyền thuyết thứ hai thì kể rằng: ngày xưa có một ơng già sống chung
với hai cậu con trai rất ngoan và rất thích đàn. Trong nhà, ơng bố có một cây đàn
Tranh 25 dây. Một hôm bỗng dưng hai cậu cùng muốn đàn Tranh một lúc mà
trong nhà chỉ có mỗi một cây đàn. Lúc đầu còn lời qua tiếng lại, dần dần thành
1 Wikipedia: />8
TIEU LUAN MOI download :
cãi nhau dữ dội. Ông bố nghe tiếng cãi lộn, mới đi vào hỏi cớ sự ra làm sao . Khi
hiểu ra sự tình, ơng bố mới khun mơt trong hai người nên nhường cho người kia
đàn trước. Nhưng rốt cuộc cũng khơng sao hịa giải được. Q tức giận, ông ta mới
đi tìm một cây rừu, rồi xách cây đàn chặt ra làm đôi theo chiều dọc để làm thành
hai cây đàn tranh: một cây 13 dây, bây giờ còn thấy ở miền Bắc Trung Quốc và ở
Nhật Bản, còn cây kia 12 dây hiện vẫn còn thấy ở Mơng Cổ và Đại Hàn.
Lại có một giả thuyết khác cho rằng cây đàn Tranh Trung Quốc là do ông
Mông Điềm sáng chế ra vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Hình thù cây đàn
Tranh Trung Quốc rất giống cây đàn Tranh Việt Nam nhưng to hơn. Bề dài cây
đàn khoảng 1m5, mặt đàn làm bằng cây ngô đồng. Đàn có 13 dây tơ theo truyền
thống Bắc Kinh hay 16 dây sắt theo truyền thống Quảng Đông, được căng dài
trên mặt âm bảng , cũng có một hàng trục và một hàng nhạn xê dịch được.
Người đàn dùng ngón tay trỏ, ngón giữa và ngón áp út của bàn tay phải để gảy
và ba ngón trỏ, giữa và áp út của bàn tay trái để nhấn. Họ chỉ dùng móng tay để
khảy và rất ít khi dùng móng sắt, hay đồi mồi như người Việt.
Lý giải về cái tên đàn Tranh, có tích khá giống với truyền thuyết thứ hai
kể rằng xưa kia có một viên ngoại giàu có đã đặt người làm một cây đàn Sắt để
trong phủ. Nhà có hai cơ con gái đều biết âm luật, một hôm nọ trùng hợp cả hai
người đều cao hứng muốn đàn mà lại không ai chịu nhường ai đàn trước. Cả hai
tranh cãi nảy lửa, cha thấy vậy tức giận bổ dọc cây đàn thành hai mảnh, một bên
13 dây, bên còn lại 12 dây để mỗi người giữ một khúc. Cũng vì vậy mà cây đàn
khơng ngun vẹn, chẳng đánh nhạc được nữa. Hành động giành giật cây đàn
của hai chị em trong tiếng Hán gọi là "zheng" qua tiếng Việt là Tranh. Chữ
Tranh ở đây mang sắc nghĩa tranh giành.
Ở
Nhật cũng có một loại đàn Tranh, hay còn gọi là đàn Koto. Theo truyền
thuyết kể rằng vào thế kỷ thứ 7 ở Phù Tang có một người nữ thuộc dòng quý tộc
tên là Ishikawa Iroko, trong một lần đi ngao du ở miền q cơ vơ tình đi ngang
một hang động và nghe được âm thanh thánh thoát vang lên. Trong hang là một đạo
sĩ Trung Hoa đang gảy đàn cổ tranh, cơ đem lịng cảm mến ngay lập tức xin thọ
giáo. Iroko trở về thuật lại cho mọi người nghe nhưng không ai tin, lúc dẫn tất
9
TIEU LUAN MOI download :
cả lên núi xem thì chỉ thấy một vầng mây trắng bay ra rồi lơ lửng trên đỉnh núi.
Cô trở về mở lớp dạy đàn tranh và thành lập môn phái Kyushu. Về sau đàn được
nhà sư Kenjun cải tiến và sáng tác cho những nhạc khúc riêng, người Nhật gọi là
đàn Koto.
Khi Trung Quốc có rất nhiều thể loại đàn Tranh như Guzheng, Cổ Cầm…
thì Hàn Quốc một trong những quốc gia được hội nhập với cây đàn Tranh cũng
có tới ba cây đàn là: Geomungo, Gayaguem và Ajaeng. Về hai cây đàn
Geomungo và Gayaguem, người ta kể lại rằng: thuở xưa ở nước Cao Ly (Đại
Hàn và Triều Tiên ngày nay) dưới vương triều Goguryeo có một cây đàn tranh
được tiến cống sang từ Trung Quốc. Thế nhưng người Guguryeo khơng biết đây
là loại nhạc khí gì và cách sử dụng ra sao. Bấy giờ tể tướng hiền đức Wang San
Ak đã chỉnh sửa lại cây đàn và nghĩ ra cách tấu riêng cho nó. Lần đầu ngài chơi
đàn đã có một con hạc đen bay xuống nhảy múa ngay trước mặt, trong tâm thức
người phương Đơng thì hạc là loài vật xuất hiện ở những nơi thái bình, thịnh
vượng. Từ đó người ta truyền tai nhau rằng Wang San Ak chính là thần linh
xuống trần gửi một điềm báo tốt lành cho triều đại Goguryeo.
Ajaeng là cây đàn được biết đến ít hơn nhưng cũng xuất hiện ở Hàn Quốc từ
thời Cao Ly. Tới thời Joseon, nhạc cụ này chủ yếu chỉ được dùng để tấu nhạc cung
đình. Trọng tâm của âm nhạc cung đình Hàn Quốc là sự hài hịa với vũ trụ, thế
gian, chứ khơng mang mục đích lay động lịng người nên có nhịp điệu chậm, hùng
tráng. Bởi vậy, âm thanh trầm và sâu lắng của đàn tranh Ajaeng rất phù hợp với âm
nhạc cung đình. Một câu truyện truyền thuyết được kể ở thời Joseon rằng: Thời
Joseon, có một nhà quý tộc có tên là Kim Un-ran, ông bị bệnh về mắt và mất thị lực
từ khi còn rất trẻ. Lúc bấy giờ, những người mù thường làm thày bói là cơng việc
của tầng lớp dân hạ đẳng nhất trong xã hội. Nhà quí tộc Kim Un-ran thường mượn
tiếng đàn tranh Ajaeng thổ lộ nỗi hận và tâm cảm buồn rầu của mình. Có lần nhà
q tộc Kim Un-ran dừng bước và ngồi kéo đàn tranh Ajaeng bên ngồi hàng rào
một ngơi đền. Tiếng đàn nghe da diết não nùng buồn thảm. Bỗng dưng ơng nghe
thấy tiếng khóc vọng ra từ trong đền. Tiếng đàn Ajaeng của Kim Un-ran đã làm các
hồn ma trong đền chùa thức tỉnh. Ông hoảng hốt cầm đàn
10
TIEU LUAN MOI download :
bỏ chạy, còn các hồn ma chắc cũng thán phục khả năng chơi đàn Ajaeng xuất
chúng của ông.
Về đàn Tranh Việt Nam cũng có một truyền thuyết thú vị về cái tên Tranh
của nó. Có một giả thuyết cho rằng tiếng đàn khi đánh lên nghe giống như âm từ
“tranh”. Nhưng hiện tại giả thuyết này đã không được chấp nhận vì sự phi lí của
nó. Theo một ý nghĩ đơn giản hơn thì người Việt nói chung và người miền Bắc
nói riêng đã đổi tên cho cây đàn vì nó đã được cải tiến lên khơng cịn là 16 dây
nữa. Khi đàn đã có 17-19 dây thì gọi là đàn Thập Lục sẽ không được hợp lý, nên
người miền Bắc đã gọi nó bằng một cái tên khác là đàn Tranh, còn người miền
Nam vẫn gọi với cái tên cũ.
1.2. Cây đàn tranh trong thơ ca.
Đàn Tranh Việt Nam có âm thanh vơ cùng trong trẻo, ngân vang, giàu tình
cảm. Loại nhạc cụ này vừa thích hợp để diễn tấu những bản nhạc da diết, tình
cảm, lại vừa phù hợp để thể hiện những bản nhạc tươi vui, phù hợp với mọi lứa
tuổi. Đàn Tranh với thanh âm trong trẻo như nói lên bao tâm tư, tình cảm của
người gảy đàn. Càng nghe ta càng thấy bồi hồi. Để có được những thanh âm
ngân vang, đi vào lịng người, các nghệ nhân đàn Tranh phải sử dụng và phối
hợp tốt các kỹ thuật nhấn, rung, vỗ, … để thổi hồn vào tiếng nhạc. Cũng chính
vì sự linh hoạt cũng như cái hồn ẩn trong những âm thanh trong trẻo, đàn Tranh
được chọn dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho hát, ngâm thơ và được chơi trong
nhiều thể loại âm nhạc như dàn nhạc Tài tử, Cải lương, dàn nhạc Chèo, dàn Nhã
nhạc, dàn nhạc dân tộc tổng hợp... Đàn Tranh cịn có thể đổi bậc dây Hị tùy theo
hơi cao thấp của người ca. Nhờ điều đó, Đàn Tranh không chỉ được sử dụng
rộng rãi trong âm nhạc mà còn xuất hiện nhiều trong thơ ca.
Với thanh âm trong trẻo, tiếng đàn Tranh dễ chạm sâu vào trong trái tim
người thưởng nhạc. Có lẽ vì thế, trong thơ ca chúng ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh
ẩn dụ của đàn tranh đặc biệt là những bài thơ, bài ca dao về tình cảm đơi lứa.
“Đàn tranh dậy xệaậ̂́dậy xang
Anh còn thuo ng ban, ban khoan lậaậ̂́y chộệ̀ng”
11
TIEU LUAN MOI download :
Câu ca dao lục bát tuy ngắn gọn nhưng lại khiến người đọc người nghe
cảm nhận được cái gì đó rất buồn, rất day dứt, cũng đầy tiếc nuối cho một mối
tình cịn dang dở của đơi trẻ. Thanh âm của đàn tranh vốn trong trẻo, đặt vào
trong hoàn cảnh một mỗi tình dang dở lại càng chạm đến sâu trái tim người đọc,
người nghe. Dường như cảm nhận được cả tiếng đàn buồn man mác đâu đây.
Hay như ở một bài thơ khác:
“Đàn tranh sánh với đàn cầm
Một đây, một đấy đáng trăm lạng vàng
Còn đang tạc đá ghi vàng
Ngơ đồng nỡ bỏ phượng hồng ngẩn ngơ
Mấy năm em cũng xin chờ
Cầm bằng tóc bạc như tơ cũng đành”
2
Theo như cách ví von của người xưa, mặt đàn tượng trưng cho vòm trời,
đáy đàn tượng trưng cho mặt đất, trời đất giao nhau, gặp gỡ giữa năm cung. Còn
ngày nay, hình ảnh ấy vượt ra ngồi cách nhìn của cổ nhân và được diễn tả khác
đi. Cầu đàn và con nhạn dùng đỡ dây cũng hóa sinh động hơn qua đôi mắt của
nhà thơ Nguyễn Hải Phương:
"Tay em như ướp bằng thơ
Hóa thân thành bướm vờn hoa sóng dài
Mặt đàn như nước sơng đầy
Cho cầu nổi sóng, cho bầy nhạn sa…"
Người đàn vui thì điệu nhạc rộn ràng, người đàn buồn thì điệu nhạc như
thở dài chua xót… Đàn tranh quả là có biết bao điều lý thú! Dường như đến với
âm thanh của đàn tranh người ta bỗng muốn sống sâu sắc hơn, bởi tự trong tiếng
nhạc luôn ẩn chứa những dư tình. Càng nghe ta càng cảm thấy bồi hồi. Học một
nhạc cụ dân tộc mà ta ngẫm ra nhiều điều có ích.
2 />12
TIEU LUAN MOI download :
Nhạc sĩ Phạm Thúy Hoan đã minh họa về cây đàn tranh rất sinh động bằng rất
nhiều áng thơ của các thi hữu. Có lẽ các nhà thơ với tâm hồn đa cảm của mình
khi nghe tiếng đàn tranh đã cầm lịng khơng đặng mà viết nên những lời ca ngợi:
"Thoạt tiên gieo một chuỗi cười
Ngón mềm nhún nhảy trên mười sáu dây"
(Nguyễn Văn Thinh)
Cái ngón Á độc đáo chỉ có ở đàn tranh qua đơi tai của nhà thơ Nguyễn
Văn Thinh nghe như "một chuỗi cười". Có người lại nghe như tiếng nước chảy,
có người lại nghe thành tiếng gió thổi lá cây… Thật vơ vàn hình tượng!
Trong văn hóa phương Đơng, đàn cầm đứng đầu các loại nhạc cụ, tượng
trưng cho đức hạnh của người quân tử bới được làm từ nguyên vật liệu rất quý.
Còn đàn Tranh cũng được xem là “một chín – một mười” khi được đặt cạnh
nhau. Câu thơ này không đơn thuần là thể hiện sự “đơi bên xứng lứa vừa đơi”
mà cịn ẩn sau đây cả cái chí làm việc lớn, cơng thành danh toại rồi mới tính đến
lập thân của người qn tử. Và song song với đó là hình ảnh người phụ nữ sắt
son chờ đợi dẫu cho bao năm tháng. Ở bài thơ này, đàn tranh không chỉ gợi lên,
khơng chỉ là hình ảnh ẩn dụ tượng thanh nữa. Mà nó gợi lên cho người đọc một
hình ảnh về người phụ nữ cao quý, tài giỏi, đầy đủ những phẩm chất của người
phụ nữ xưa. Để thật xứng đáng khi đứng cạnh một “đàn Cầm” quý giá.
Chỉ qua hai đoạn thơ rất gắn, ta đã có thể thấy được hình ảnh của đàn Tranh
trong thơ ca. Nó khơng chỉ đem đến cho người đọc, người nghe nhưng thanh âm
vạng vọng mà cịn gợi lên những hình ảnh rất đỗi sống động, Khiến người đọc,
người nghe dễ cảm nhận hơn về dụng ý của tác giả gửi gắm trong bài thơ ấy.
Trải qua bao thế kỷ, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, đến nay, đàn
Tranh có thể coi là nhân chứng sống trong cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của
người dân Việt Nam. Và hi vọng rằng, những giá trị tốt đẹp của đàn Tranh cũng
như văn hóa chơi đàn sẽ được bảo tồn và lưu giữu mãi về sau.
13
TIEU LUAN MOI download :
1.3. Cấu tạo và đặc điểm diễn tấu của đàn Tranh
1.3.1. Cấu tạo của cây đàn Tranh:
Với tư thế về kiểu dáng gọn nhẹ, đặc biệt âm điệu giàu sức biểu cảm và
khả năng diễn tấu phong phú, từ vị trí cây đàn “q tộc” chốn cung đình xa hoa,
dần dần đàn tranh càng hịa mình với đời sống của tầng lớp nhân dân lao động
bình dân; bên cạnh các nhạc cụ dân tộc khác như: nhị, sáo, đàn bầu… Trải qua
hằng trăm năm phát triển, chịu ảnh hưởng của nền âm nhạc thế giới, đàn tranh
Việt Nam có các loại đàn tranh: đàn tranh 15 dây, đàn tranh 16 dây, đàn tranh
Việt Nam 17 dây và đàn tranh Việt Nam loại 19 dây.
Hình dáng đàn Tranh dài, có 16 dây bằng kim loại, mặt đàn nhơ lên hình
vịng cung, từ trục đàn đến chỗ gắn dây đàn. Khoảng giữa của mỗi dây đều có
một con nhạn, gọi là nhạn đàn. Để tăng âm từ nửa cung lên một cung thì đàn cần
chuyển đổi dây.
Sau này, đàn Tranh rất phổ biến, được đứng thứ 3 trong bộ tam huyền của
dàn nhạc tài tử. Vì đàn Tranh được thiết kế theo thể thức nhiều dây nên khi tấu
nhạc đàn phát ra âm thanh đanh tiếng, khi tấu chữ đàn thường là song thanh.
Chính vì thế, khi hết một câu, một đoạn nhạc nào đó, đàn thường lặp lại một nốt.
Ngồi khả năng diễn tấu giai điệu, ngón chơi truyền thống của đàn là
những quãng tám dài hoặc chậm, ngón đặc trưng nhất là vuốt trên các dây.
Đàn Tranh là nhạc khí dùng hòa tấu, độc tấu, đêm cho hát, ngâm thơ, đàn
tranh cũng để chơi cho nhiều loại nhạc như dàn nhạc tài tử, nhã nhạc, nhạc chèo,
nhạc dân tộc tổng hợp…
Cho tới ngày nay, đàn tranh không chỉ dừng lại ở 16 đây mà được phát
triển thành đàn tranh 17 dây, đàn tranh 19 dây và đàn tranh 21 dây để đáp ứng
được hình thức diễn tấu. Đàn tranh càng nhiều dây thì quãng bass, quãng trầm
càng rộng. Đàn càng to, âm càng vang và trầm, ấm, ngân dài và lâu
Dù được biến tấu thành 17 dây hay 19 dây, đàn tranh đều có dạng hình
hộp dài. Phần khung đàn tranh thiết kế hình thang có chiều dài dao động từ 110–
120 cm.
14
TIEU LUAN MOI download :
Đầu lớn của đàn rộng khoảng từ 25–30 cm đây là là phần đầu đàn có
thanh chốt đàn có tác dụng mắc dây. Đầu nhỏ của đàn rộng khoảng 15–20 cm có
gắn khoảng 16 tới 25 khóa lên.
Mặt đàn làm bằng các loại gỗ khác nhau có độ dày khoảng 0,05 cm được
uốn thành hình vịm. Ngựa đàn (cịn có tên gọi khác là con nhạn) được đặt ở
giữa đàn có tác dụng gác dây có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Dây dàn
Tranh có nhiều loại khác nhau, nhưng chủ yếu là làm bằng kim loại với kích cỡ
khác nhau. Ngày xưa khi kim loại cịn q hiếm, đàn dùng dùng dây tơ. Nghệ
nhân sử dụng các móng đàn riêng biệt đeo vào ba ngón cái, ngón trỏ và ngón
giữa của bên tay phải có tác dụng gẩy khi biểu diễn. Phụ kiện đàn tranh móng
gẩy có thể được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như móng đồi mồi, móng
kim loại, móng làm từ sừng
Đàn Tranh tốt chủ yếu là chất lượng gỗ. Nếu là gỗ ép thì sau một thời gian
gỗ sẽ bị nứt, các dây đàn sẽ không được chuẩn và âm thanh cũng trở nên rất kinh
khủng. Phải là gỗ miếng, chắc chắn và không bị nứt sau một thời gian sử dụng.
Ngày nay, đàn tranh thường được chế tác từ gỗ cẩm lai, gỗ hương, trắc dùng làm
thân đàn, gỗ Ngô đồng dùng làm mặt đàn.
Để tấu lên được một bản nhạc đúng giai điệu, tất cả các bộ phận đàn tranh
cần được thiết kế “chuẩn từng milimet”, đặc biệt là bộ phận dây và mặt hộp.
Thang âm trong cây đàn Tranh cũng có thể coi là một phần cấu tạo cho
âm thanh của cây đàn.
Đàn Guzheng của Trung Quốc được chơi theo thang âm ngũ cung: cung –
thương - giốc - chủy – vũ tương ứng với các nốt Fa – Sol – La – Do – Re.
Tương tự, người Việt cũng chơi đàn Tranh theo thang âm ngũ cung, nhưng
đã sáng tạo ra ngũ cung của riêng mình là hị - xự - xang – xê - cống tương ứng với
Do – Re – Fa – Son - La. Không chỉ dừng lại ở thang âm này, âm nhạc truyền thống
Việt Nam qua từng vùng miền có sự khác biệt rõ rệt nên đàn Tranh cũng phải chơi
theo những thang âm ấy như: điệu Bắc, điệu Nam, điệu oán, …
15
TIEU LUAN MOI download :
1.3.2. Kỹ thuật diễn tấu
Phong cách chơi đàn truyền thống sử dụng trước đây thường dùng 2 ngón
gẩy, ngày nay phổ biến là 3 ngón.
Tuy nhiên cách gẩy 3 ngón là cách gẩy thơng dụng nhất là ngón cái (số 1),
ngón trỏ (số 2) và ngón giữa (số 3). Với những cách gẩy cơ bản: liền bậc, cách
bậc, gẩy đi lên và đi xuống liền bậc hay cách bậc. Móng gẩy đàn làm từ đồi mồi
hoặc inox. Đối với đàn sắt khơng dùng móng gẩy mà gẩy đầu bụng ngón tay, sử
dụng ngón rung và vê thì phải có móng tay dài.
Tư thế: bàn tay phải nâng lên, ngón tay khum lại, thả lỏng, ngón đeo nhẫn
tì nhẹ lên cầu đàn. Khi đánh những dây đàn thấp, cổ tay tròn lại, hạ dần về phía
trước đàn. Khi đánh những dây cao, cố hạ dần theo chiều cong của cầu đàn, cánh
tay cũng hạ khép dần lại, tránh không đưa cánh tay ra phía ngồi. Ba ngón tay
gảy mềm mại, từng ngón thả lỏng này nhẹ nhàng nâng lên hay hạ xuống gảy vào
dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh gãy ngón.
Kỹ thuật lướt dây:
-
Là một lối gảy rất phổ biến của đàn tranh và đàn sắt cũng như cổ tranh
Trung Quốc, đây là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc, thường kỹ
thuật này hay ở vào phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh đầu hay cuối
câu nhạc. Ngón cái tay phải dùng thủ pháp "thác" liên tục vài dây với tốc độ
nhanh. Có 2 dạng lướt là lướt trước phách dùng ở đầu câu nhạc, lúc diễn tấu
không chiếm giá trị thời gian thuộc về hiệu quả mang tính "trang trí"; có tác
dụng tăng thêm màu sắc cho giai điệu. Và lướt trùng phách thường xuất hiện ở
phách sau, dùng để bổ khuyết tiết tấu.
-
Lướt xuống: theo lối cổ truyền, là cách lướt liền các âm liền bậc, từ một
âm cao xuống các âm thấp, tức là sử dụng ngón cái của tay phải lướt nhanh và
đều qua các hàng dây, từ cao xuống thấp.
-
Lướt lên: là kỹ thuật lướt qua hàng dây, nhưng vuốt bằng ngón 2 hoặc
ngón 3 từ một âm thấp lên các âm cao.
-
Lướt kết hợp: kết hợp lướt lên và lướt xuống, kỹ thuật diễn tấu này thường
chuẩn bị cho mở đầu hoặc kết thúc một câu nhạc, có trường hợp nó được sử dụng
16
TIEU LUAN MOI download :
để tả cảnh sóng nước, gió thổi, mưa rơi và có thể sử dụng kỹ thuật lướt liên tiếp
với nhiều âm hơn.
-
Song thanh: 2 nốt cùng phát ra một lúc, song thanh truyền thống chỉ
dùng quãng 8, các nhạc sĩ hiện đại còn kết hợp dùng các quãng khác.
Kỹ thuật bàn tay trái:
-
Tư thế: Ðầu ba ngón tay giữa đặt trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên,
ngón tay hơi khum, hai hoặc ba ngón (trỏ, giữa, áp út) chụm lại, ngón cái và ngón
út tách rời, dáng bàn tay vươn về phía trước. Khi rung, nhấn, bàn tay được nâng lên
mềm mại, ba ngón chụm lại cùng một lúc chuyển từ dây nọ sang dây kia.
Kỹ thuật rung âm
-
Ngón rung (rung âm): là cách dùng một, hai hoặc ba ngón tay trái rung nhẹ
trên sợi dây đàn, bên trái hàng nhạn đàn mà tay phải vừa gảy. Nó là 1 kỹ thuật tay
trái vô cùng quan trọng trong diễn tấu cổ tranh Trung Quốc và đàn tranh Việt
Nam. Nó tơ điểm vẻ đẹp, trau chuốt và kéo dài cùng nhiều tác dụng khác cho
nhạc khúc. Chủng loại của rung âm rất nhiều. Sau khi tay phải gảy gây xong thì
tay trái nhấn, thả trên dây đàn tương ứng bên trái con nhạn; khiến cho âm mà tay
phải gảy sản sinh hiệu quả rung động dạng sóng có quy luật. Diễn tấu rung âm
cần 1 quá trình huấn luyện lâu dài. Lúc đầu mới học, luyện tập với tốc độ chậm
trước, nắm được cách phát lực và thả lỏng chính xác. Sau khi thành thục mới
tiến hành luyện tập tăng tốc.
-
Nhấn dây tay trái: Tay phải đặt cần bằng trên hộp điều âm, tay trái duy trì
thủ hình nửa nắm tay. Nhấn thả dây đàn lên xuống chậm rãi đều đặn. Mỗi 1 nhịp
có 2 động tác nhấn & thả, sau mỗi lần nhấn phải ngay lập tức thả ra. Tay trái và
phải đặt dây chính xác trên trung âm 5 (Sol). Sau khi tay phải gảy trung âm 5 thì
tay trái trên dây đàn tương ứng với bên trái con nhạn. Nhấn, thả dây đàn đều đặn.
Khi người chơi mới học rung âm có thể áp dụng phương pháp luyện tập đếm nhịp.
Tay phải gảy trung âm 5. Sau mỗi lần nhấn dây phải lập tức thả ra. Sau khi nắm
vững diễn tấu chậm, tăng tốc độ nhấn dây thích hợp cho tay trái. Lưu ý:
17
TIEU LUAN MOI download :
+
Khi tay trái nhấn dây, vai phải thả lỏng. Sức lực của cánh tay trái nén
xuống tự nhiên tập trung vào đầu ngón tay. Sau khi nhanh chóng nhấn dây thì
lập tức trở về vị trí cũ.
+
Biên độ nhấn của tay trái bắt buộc phải nhỏ mà đều đặn. Tuyệt đối không
được làm biến đổi độ cao của âm gốc. Thứ tự diễn tấu của tay trái & phải là gảy
trước rồi rung sau. Tay trái nhấn và thả dây đàn trên dư âm sau khi tay phải gảy
đàn. Nghiêm cấm làm cả hai tay cùng 1 lúc.
Ngón nhấn luyến (hoạt âm)
-
Là thủ pháp sử dụng các ngón nhấn để luyến hai hay ba âm có độ cao
khác nhau, âm thanh nghe mềm mại, uyển chuyển gần với thanh điệu tiếng nói.
Có hai loại nhấn luyến:
-
Nhấn luyến lên (hoạt âm lên): gảy vào một dây để vang lên, tay trái nhấn
dần lên dây đó làm âm thanh cao lên hoặc tiếp tục nhấn cho cao lên nữa. Sau khi
tay phải gảy dây, tay trái ở bên trái con nhạn đem âm mà tay phải gảy nhấn
"trượt" tới cao âm của dây đàn phía trên. Đặt dây giống rung âm, sau đó tiến
hành luyện tập nhấn dây cho tay trái. Lấy trung âm 5 làm ví dụ: tay phải đặt cân
bằng trên hộp điều âm, tay trái đặt trên dây đàn bên trái. Đếm 1 thấy bất động
nhưng đếm 2 thì tay trái nhấn dây xuống dưới.
-
Sau khi tay trái hoàn thành hoạt âm, không được thả tay ra cho tới khi dư
âm biến mất mới được thả tay. Nắm vững phương pháp gảy trước nhấn sau. Khi
tay trái nhấn dây, vai hạ xuống; đem sức lực tập trung vào đầu ngón tay. Tay trái
từng bước thực hiện hoạt âm chuẩn xác. Chú ý diễn tấu, khủy tay không được
nhấc lên cịn cổ tay thì khơng được sụp xuống.
-
Cao âm của hoạt âm lên phải chuẩn xác, bởi sức dãn của mỗi dây là khác
nhau nên lực dùng để nhấn dây cũng khác nhau. Nhấn dây ở khu âm cao tương
đối dễ dàng. Nhấn ở khu âm trung, thấp thì lực độ mạnh hơn chút. Nghe và
luyện nhiều mới có thể nắm bắt chính xác cao âm của hoạt âm.
ở
Nhấn luyến xuống (hoạt âm xuống): tương phản với hoạt âm lên. Tay trái
bên trái nhạn, đem trung âm 5 nhấn đến cao âm của dây trên trước là trung âm
6, sau đó tay phải gảy dây. Sau khi gảy dây xong thì mới từ từ thả tay trái ra khiến
18
TIEU LUAN MOI download :