Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Vấn đề phòng chống bạo lực gia đình trên báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 134 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 25-11 hàng năm được Liên hợp quốc lấy làm ngày Quốc tế xóa
bỏ bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Liên hợp quốc và các nước trên thế giới
đã và đang có nhiều cố gắng trong việc phòng chống bạo lực gia đình và ban
hành nhiều văn kiện pháp lý liên quan đến phịng chống bạo lực gia đình.
Hiện đã có 89 nước trên thế giới có các quy định pháp luật riêng về chống bạo
lực gia đình, trong đó có 60 nước có luật riêng về phịng chống bạo lực gia
đình; 7 nước có luật riêng về bạo lực chống lại phụ nữ.
Bạo lực gia đình gây ra những hậu quả xấu về sức khỏe và tâm lí của
phụ nữ và trẻ em. Đối với phụ nữ, bạo hành gia đình gây ra những thương tật,
tàn tật vĩnh viễn và ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe sinh sản như viêm nhiễm
đường sinh sản, HIV/AIDS, rối loạn phụ khoa, nạo thai khơng an tồn, sảy
thai,… Ngồi những ảnh hưởng về thể chất, bạo lực gia đình cịn gây ra nhiều
hậu quả xấu về tinh thần cho người phụ nữ như stress sau chấn thương, rối
loạn/hoảng loạn, mất trí nhớ… Cịn trẻ em là nhân chứng hoặc nạn nhân của
bạo lực sẽ có thể đi đến niềm tin rằng: Bạo lực là cách duy nhất để giải quyết
xung đột giữa con người với nhau.
Thời gian gần đây các vụ bạo lực gia đình có xu hướng gia tăng, nguy
hiểm hơn, tinh vi hơn, phức tạp hơn. Theo nghiên cứu quốc gia về BLGĐ đối
với phụ nữ ở Việt Nam - do Tổng Cục thống kê tiến hành với trợ giúp kỹ
thuật của Tổ chức Y tế Thế giới (WTO) năm 2010, chỉ ra rằng cứ ba phụ nữ
có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người cho biết họ đã từng bị
chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục; 58% phụ nữ cho biết họ đã từng
là nạn nhân của ít nhất một hình thức BLGĐ; cứ mười phụ nữ thì có bốn
người nhận thấy gia đình khơng phải là nơi an tồn với đối với họ [3, tr.131].
BLGĐ được viện dẫn như nguyên nhân của 66% tổng số các vụ ly hôn.
Theo một nghiên cứu, hơn 32% số vụ BLGĐ có nạn nhân là đối tượng bị
kiểm sốt hành vi bởi bạn đời/ bạn tình của mình [3].



2
Tại một bệnh viện ở Việt Nam, mỗi ngày có trung bình 5-6 phụ nữ
nhập viện do hậu quả của BLGĐ; 50% tổng số vụ việc bị chấn thương đầu,
40% có vết thương khắp cơ thể; 15% đã bị lạm dụng tới 10 năm [59, tr.129].
Nhận thấy hậu quả nghiêm trọng từ các vụ bạo lực gia đình, những năm
gần đây Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đã có những hành
động thiết thực trong phịng chống bạo lực gia đình. Ngày 27-11-2007, Luật
phịng chống bạo lực gia đình ra đời, đồng thời Nhà nước cũng ban hành
nhiều văn bản pháp luật với chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi bạo lực
gia đình… Cùng với những chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước các
cấp, các ngành và các đoàn thể xã hội cũng đang đẩy mạnh các hoạt động can
thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng này.
Ở Việt Nam, BLGĐ vẫn cịn là một vấn đề gắn liền với tính riêng tư
trong mỗi gia đình, vì thế cịn bị che giấu, ít được chia sẻ hoặc tìm kiếm trợ
giúp. Tuy nhiên, thời gian gần đây vấn đề này đã, đang được dư luận xã hội
cũng như nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Đối với ngành truyền thông, vấn đề BLGĐ không chỉ là đối tượng phản
ánh, mà còn là trách nhệm xã hội. Tại điều 40 - Luật phịng chống bạo lực gia
đình đã quy định rõ trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông, cũng như
các cơ quan thông tin đại chúng: “Bộ Thơng tin và truyền thơng có trách
nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng thông tin, tun truyền chính
sách, pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình; cơ quan thơng tin đại chúng
có trách nhiệm thơng tin kịp thời, chính xác chính sách, pháp luật về phòng,
chống BLGĐ” [34].
Tại Điều 11, Luật phòng chống bạo lực gia đình cũng khẳng định vị thế
và vai trị của hình thức truyền thơng gián tiếp đặc biệt là thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng trong tiến trình tun truyền, giáo dục
vận động phịng ngừa, giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình.
Để góp phần xóa bỏ BLGĐ, báo chí có vai trị quan trọng trong việc

thơng tin, tuyên truyền về phòng chống BLGĐ nhằm thay đổi nhận thức, hành


3
vi về bạo lực. Mỗi loại hình truyền thơng đại chúng như báo viết, truyền hình,
phát thanh, báo điện tử … đều có thế mạnh riêng. Báo chí truyền thơng đã và
đang tham gia vào chiến dịch phòng chống BLGĐ, thể hiện sự đa dạng về nội
dung và hình thức. Truyền hình có thế mạnh về hình ảnh nhưng khung giờ,
chuyên mục cho tuyến đề tài riêng biệt này lại gần như khó thực hiện, chủ yếu
là sự đan xen vào các chương trình, các kênh truyền hình. Báo in vẫn có
lượng độc giả trung thành nhưng đối tượng cơng chúng của loại hình này cịn
hạn hẹp do sự phát triển và tốc độ của cuộc sống thường ngày, thói quen đọc
báo ít thấy ở người trẻ, người lao động, nông dân, dân tộc thiểu số...
Giải quyết mặt hạn chế này, báo phát thanh đáp ứng được tiêu chí về thời
gian, độ phủ sóng rộng, thiết bị đơn giản, khơng tốn kém, khơng địi hỏi người
tiếp nhận có học thức cao. Bên cạnh đó, báo mạng điện tử với ưu thế vượt trội về
việc áp dụng triệt để tính đa phương tiện và xu hướng xã hội hóa của báo chí, tạo
nên hiệu quả tích cực khi tham gia truyền thơng phịng chống BLGĐ.
Đã có những nghiên cứu về đề tài truyền thơng phịng chống BLGĐ,
chủ yếu lựa chọn đối tượng, phạm vi nghiên cứu trên báo in, báo mạng bởi
những thuận lợi trong quá trình tìm kiếm, tra cứu dữ liệu. Tác giả muốn
hướng đến là hình thức phát thanh hiện đại - phát thanh trực tiếp và báo
mạng điện tử có chuyên mục riêng biệt phản ánh BLGĐ để nghiên cứu
chuyên sâu, làm rõ những thành tựu, những hạn chế cần khắc phục, từ đó
rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các mơ hình, phương thức phản ánh
BLGĐ phù hợp nhất.
Đề tài: “Vấn đề phòng chống bạo lực gia đình trên báo chí”, (khảo
sát mục “Thức đêm của bạn” trên kênh VOV giao thông và mục “Gia đình”
của trang thơng tin điện tử từ 1/2011 đến 6/2012), được
tác giả lựa chọn và thực hiện với mong muốn sẽ phát hiện, thẳng thắn nhìn

nhận các vấn đề mà báo chí đã đạt được và chưa làm được trong cơng tác
truyền thơng phịng chống BLGĐ để góp phần vào việc nâng cao chất lượng
truyền thông về đề tài này trên báo chí hiện nay.


4
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về vấn đề bạo lực gia đình, hay bạo lực đối với phụ nữ là
vấn đề khơng mới. Đã có nhiều cá nhân và tổ chức quan tâm nghiên cứu về
lĩnh vực này nhằm góp phần bình đẳng giới, bảo vệ người phụ nữ khỏi bạo
lực gia đình. Một số nhóm đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này được tổng hợp
dưới đây.
2.1. Một số cơng trình nghiên cứu về bạo lực gia đình
Với mục tiêu nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe và quyền bình
đẳng giới cho phụ nữ, cơng trình nghiên cứu “Thực trạng và một số yếu tố
liên quan đến bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện An Dương, Hải
Phòng” (thực hiện năm 2006), hai tác giả Lê Minh Thi và Nguyễn Thanh Hà
chỉ ra rằng: kiến thức của người dân về các hành vi bạo lực còn thấp, nhiều
hành vi BL như mắng, chửi, đánh khơng gây thương tích … đã bị bỏ qua hoặc
xem nhẹ mặc dù khi được hỏi thì hành vi bạo lực được nhắc đến nhiều nhất là
đánh đập, gây thương tích và chửi bới, lăng mạ [54].
Nghiên cứu các khía cạnh của bạo lực gia đình dựa trên các kết quả
nghiên cứu về bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam từ đầu những năm 90 của
thế kỷ XX đến nay, có thể kể đến “Bạo lực trong gia đình” của tác giả Bùi
Thu Hằng đăng Trên tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2/2001 [25] “Nghiên cứu
bạo lực gia đình trên cơ sở giới ở Việt Nam” của Nguyễn Hữu Minh và các
cộng sự, 2005 [38]; “Bạo lực của chồng đối với vợ ở Việt Nam trong những
năm gần đây” của nhóm tác giả thuộc Viện Gia đình và Giới, đăng trên tạp
chí Khoa học về phụ nữ, số 3/2006… Các cơng trình nghiên cứu này tóm
lược, so sánh các kết quả nghiên cứu trước đó và đưa ra bức tranh chung về

BLGĐ. Kết luận chung của các nghiên cứu này là nhận thức của nhân dân
nhất là phụ nữ về bạo lực, sự bình đẳng giới trong gia đình cịn nhiều hạn chế.
Những ngun nhân của tình trạng này được xác định bao gổm: nguyên nhân
về kinh tế, trình độ học vấn, nghiện ngập, do nhận thức hạn chế của người có
trách nhiệm và của chính quyền địa phương …


5
Tiếp cận theo hướng tìm hiểu nhận thức về bạo lực gia đình thơng qua
nhóm các cán bộ y tế cơ sở, cán bộ các ban ngành, đoàn thể. Nghiên cứu
“Bạo lực gia đình chống lại phụ nữ - thái độ và thực hành của nhân viên y tế
đối với nạn nhân của bạo lực gia đình chống lại phụ nữ” của Nguyễn Thị
Hoài Đức và các cộng sự, năm 2001, cho thấy cán bộ y tế và các ban ngành
đồn thể có những hiểu biết nhất định về vấn đề ngược đãi phụ nữ, các hành
vi ngược đãi về thể chất thường bị coi là nghiêm trọng hơn so với tinh thần.
Lạm dụng tình dục như hiếp dâm phụ nữ và trẻ em được coi là các hành vi vi
phạm pháp luật nghiêm trọng. Theo họ, những gia đình có bạo lực thường là
những gia đình nghèo, trình độ văn hóa thấp … [18].
Nghiên cứu “Bạo lực trên cơ sở giới” của Vũ Mạnh Lợi và các cộng sự
đã đi sâu tìm hiểu nhận thức, thái độ của cộng đồng và các thể chế xã hội về
BLGĐ trên cơ sở giới cũng như các phản ứng của cá nhân, luật pháp và các thể
chế đối với nạn nhân bạo lực trong gia đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngược
đãi về tình cảm, thân thể, và lời nói là phổ biến hơn các yếu tố khác [32].
2.2. Chủ đề giới trong sản phẩm truyền thông
Nghiên cứu theo hướng phân tích về vai trị giới, định kiến giới, bình
đẳng giới, nhạy cảm giới trên các phương tiện truyền thông đại chúng
(TTĐC), có thể kể tới một số cơng trình tiêu biểu: “Giới khơng có nghĩa là
phụ nữ” của Nguyễn Thu Phương đăng trên Kỷ yếu Hội thảo giới - truyền
thông và phát triển, năm 2003 [44]; “Một sự duy trì định kiến giới về vai trò
của nữ và nam trên báo in hiện nay” của Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hồng

đăng trên tạp chí Tâm lý học, số 6/2004 [19]; Báo cáo “Nhạy cảm giới trong
các chương trình truyền hình của Đài truyền hình Việt Nam” do Csaga và
Oxfam thực hiện tháng 3/2008, Bản tin nhặt sạn của Csaga … Điểm chung và
cũng là thành công của những công tình nghiên cứu trên, đó là các tác giả tập
trung chỉ ra tác hại của những quan điểm dập khuôn về bất bình đẳng giới đã
vơ tình cổ vũ cho BLGĐ.
Trong cuốn “Lịch sử và lý thuyết xã hội học“ - tác giả Lê Ngọc Hùng
cho rằng thông tin quảng cáo, chương trình thơng tin khuyến mãi khơng chỉ


6
phản ánh vai trị giới trong văn hóa nghe - nhìn mà cịn củng cố, khuyến khích
các hành vi giới, nhất là hành vi mua hàng theo vai giới. Ví dụ như những
hình ảnh về phụ nữ chọn mua bột giặt, mỹ phẩm, quần áo..., còn nam giới
mua sắm những thứ đắt tiền như xe ô tô hoặc được sử dụng những bàn ghế
tiện nghi, văn phòng làm việc sang trọng ...[28].
Những nghiên cứu này cho thấy cái nhìn nhiều chiều về vai trị của nam
và nữ thơng qua các hình ảnh quảng cáo trên báo hình và báo in. Những
nghiên cứu đó chỉ ra rằng những hình ảnh, vai trị giới cịn mang nặng khn
mẫu, định kiến giới. Điều đó có thể thấy lối mịn trong suy nghĩ của các cá
nhân, nhóm xã hội về vị thế của người phụ nữ: là phụ nữ thì phải làm cơng
việc nội trợ, phải thùy mị, nết na chăm lo cho các thành viên trong gia
đình...Và người phụ nữ nào khơng làm đúng vai trị đó thì đương nhiên là
khơng được đánh giá cao, thậm chí bị chì chiết hoặc bị các thành viên trong
gia đình hành hạ. Tuy nhiên, đây chỉ là những nghiên cứu trường hợp và chủ
yếu tập trung ở tìm hiểu hình ảnh của phụ nữ trên mục quảng cáo, còn các
chuyên mục khác chưa được nghiên cứu.
2.3. Vấn đề bạo lực giới được mô tả trên các phương tiện truyền
thông đại chúng
Nghiên cứu đề cập đến vấn đề này trên phương tiện truyền thông hiện

chưa nhiều và hầu hết được lồng ghép trong các nghiên cứu khác.
Nghiên cứu của khoa Xã hội học - Học viện báo chí và Tun truyền, tiến
hành năm 2006 là “Thơng điệp về tính dục trên báo mạng” (nghiên cứu trường
hợp báo vnexpress.net, thanhnien.vn, gioitinhtuoiteen.vn, dantri.com.vn) từ tháng
6-12/2006. Trong nghiên cứu này các tác giả cũng phân tích về những bài viết
đăng tải về bạo lực tình dục (bao gồm cả BL tình dục trong và ngồi gia đình).
Kết quả nghiên cứu cho thấy các bài viết về BL tình dục chủ yếu được đăng
trên hai tờ báo điện tử là dantri.com và vnexpress.net. Đặc biệt, khác với các
chủ đề khác trong tính dục, BL tính dục (hãm hiếp, BL liên quan đến bn
bán tình dục) thường liên quan đến luật pháp nên được đăng tải khá nhiều trên


7
chuyên mục Pháp luật còn những chuyên mục khác như Khoa học, Sức khỏe
hay chuyên trang về Sức khỏe sinh sản/ tình dục lại rất ít.
Trong luận văn thạc sĩ truyền thơng đại chúng năm 2007, tại Học viện báo
chí và Tuyên truyền, với đề tài “Bạo hành đối với phụ nữ trên báo chí hiện nay”,
tác giả Nguyễn Thị Hoa đã khảo sát ở 5 tờ báo: Phụ nữ Việt
Nam, Gia đình và Xã hội, Cơng an nhân dân, Công an nhân dân điện tử, trong
khoảng thời gian từ 1/2006 đến 6/2007. Nghiên cứu này đã cho thấy: số lượng bài
viết về chủ đề bạo hành gia đình khá nhiều, nội dung phản ánh đa dạng ở các khía
cạnh như bạo hành giới, bạo hành trong gia đình, nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em
gái, hiện tượng xâm hại tình dục …Tác giả khẳng định vai trị của báo chí trong
việc làm chuyển biến, thay đổi nhận thức của cộng đồng, của cả bản thân người
phụ nữ. Sức mạnh của báo chí thể hiện ở chỗ tạo ra một dư luận xã hội rộng rãi để
phanh phui, lên án những hành vi bạo lực đối với phụ nữ…[24].
Khi nghiên cứu về “Thông điệp về bạo lực gia đình trên báo mạng điện
tử ở Việt Nam hiện nay”, khóa luận tốt nghiêp chuyên ngành xã hội học năm
2010, Học viện báo chí và tuyên truyền, tác giả Nguyễn Thị Huệ muốn đề cập
đến việc thông tin về bạo lực giới nói chung, bạo lực gia đình nói riêng trên

hệ thống truyền thơng có tác động tích cực đến nhận thức của cơng chúng, từ
đó có sự thay đổi, nhìn nhận vấn đề một cách đúng đắn, ngăn chặn BLGĐ.
Dưới cách tiếp cận xã hội học, tác giả đã có những phân tích, đánh giá về thực
trạng cách thể hiện bài viết về BLGĐ trên báo mạng điện tử [27].
Trong các “Bản tin nhặt sạn” [4,5] - bản tin nội bộ, Csaga đã tập trung
đánh giá về nhạy cảm giới trong các sản phẩm truyền thông về vấn đề BLGĐ.
Nhóm tác giả khẳng định bên cạnh những bài báo phản ánh thực trạng, đưa ra
những bàn luận về nguyên nhân hậu quả của BLGĐ thì vẫn cịn nhiều bài
chưa phản ánh đúng bản chất của BLGĐ, gây ra những ngộ nhận không tốt
với công chúng.
Trong cuốn “Bạo lực giới trong gia đình Việt Nam và vai trị của truyền
thơng đại chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ”, do TS Hoàng Bá Thịnh


8
chủ biên, 2003, [57] đã đăng tải một số nghiên cứu của các tác giả về BLGĐ:
Trong nghiên cứu Giải pháp phịng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ,
tác giả Lê Thị Thu khẳng định nguyên nhân của BLGĐ là do nhận thức của xã
hội về bình đẳng giới, và quyền của người phụ nữ đã có tiến bộ, nhưng do tư
tưởng phong kiến lạc hậu ảnh hưởng nặng nề, nên nhận thức về vấn đề này
vẫn còn hạn chế; Trong nghiên cứu Phương tiện truyền thông đại chúng với
việc tuyên truyền phổ biến pháp luật cho phụ nữ, 2003, tác giả Phan Thị
Thanh đã chỉ ra tầm quan trọng của việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật cho phụ nữ qua phương tiện truyền thông đại chúng. Lợi thế sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng là: tốc độ truyền tải nhanh cho phép công
chúng ở nhiều địa bàn khác nhau tiếp cận thông tin kịp thời, nhất quán, số
lượng người hưởng thụ lớn, sự hưởng thụ của người này không làm cản trở
người khác mà trái lại dễ tiếp cận đại chúng với chi phí thấp.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp nhiều thơng tin có giá trị lý
luận và ý nghĩa thực tiễn về vấn đề truyền thơng phịng chống BLGĐ.

Cho đến nay chưa có cơng trình nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu một
cách chuyên biệt, có hệ thống về vấn đề bạo lực gia đình trên mục “Gia đình”
của trang Thơng tin điện tử và chương trình “Thức đêm
cùng bạn” của kênh VOV giao thơng. Vì vậy, luận văn “Vấn đề phịng chống
bạo lực gia đình trên báo chí” có kế thừa và phát huy các luận điểm đã được
nghiên cứu của các tác giả về vấn đề BLGĐ, nhưng khơng trùng lặp với bất
kỳ cơng trình nào đã được cơng bố từ trước đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đè tài là hệ thống hóa lý luận về vấn đề phịng
chống bạo lực gia đình. Nhận diện nội dung, phương thức truyền thơng phịng
chống bạo lực gia đình thông qua khảo sát chuyên mục “Thức đêm cùng bạn”
trên kênh VOV giao thơng của Đài Tiếng nói Việt Nam, mục “Gia đình” của
trang thơng tin điện tử http//giadinh.net.vn.Trên cơ sở phân tích, đánh giá các


9
vấn đề đặt ra và khuyến nghị khoa học nhằm nâng cao hiệu quả truyền thơng
phịng chống BLGĐ trên báo chí hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích nghiên cứu trên, tác giả xác định nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về truyền thơng phịng chống BLGĐ và
thực tiễn hoạt động truyền thơng về BLGĐ trên kênh báo chí phát thanh và
trang thông tin điện tử làm cơ sở phát triển nội dung đề tài.
- Khảo sát, phân tích nội dung và phương thức truyền thơng phịng
chống BLGĐ trên chun mục “Thức đêm cùng bạn” của kênh VOV giao
thông và mục “Gia đình” của trang thơng tin điện tử http//giadinh.net.vn; Từ
đó rút ra những nhận định khoa học về thực trạng và đặc thù của vấn đề
truyền thơng bạo lực gia đình trên báo chí hiện nay.

- Đề xuất khuyến nghị và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng truyền thơng phịng chống BLGĐ trên diện khảo sát.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề
phòng chống bạo lực gia đình trên loại hình báo chí phát thanh và trang thông
tin điện tử ở Việt Nam hiện nay, được thể hiện qua nội dung, phương thức và
những đặc thù của vấn đề PCBLGĐ trên diện khảo sát.
- Phạm vi khảo sát: Luận văn tập trung khảo sát những tác phẩm báo chí
đăng tải trên mục “Gia đình” của trang thơng tin điện tử http//giadinh.net.vn, và
chun mục “Thức đêm cùng bạn” của kênh VOV giao thông của đài Tiếng nói
Việt Nam.
Thời gian từ 1/2011 đến hết tháng 6/2012 tại Hà Nội
5. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý thuyết
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò


10
của báo chí và các phương tiện truyền thơng đại chúng trong tổ chức, quản lý,
giám sát xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục tư tưởng và định hướng
chuẩn mực đạo đức, giá trị xã hội hiện nay.
Luận văn sử dụng lý thuyết chức năng và lý thuyết thuyết phục (nằm
trong hệ thống lý thuyết truyền thông) nhằm viện dẫn cho những luận điểm
được phân tích gắn với nội dung và phương thức tổ chức hoạt động truyền
thông phịng chống BLGĐ trên các sản phẩm báo chí truyền thông.
- Lý thuyết chức năng: Đại diện của thuyết này là R.Merton, ơng cho rằng,
TTĐC có chức năng cơng khai và chức năng tiềm ẩn. Trong đó chức năng cơng
khai là hiệu quả thực sự mà nhà truyền thông mong muốn đạt được còn chức năng
tiềm ẩn là những hiệu quả xảy ra mà nhà truyền thông không ngờ đến. Theo đó,

những nội dung truyền thơng phịng chống BLGĐ trên diện khảo sát, bên cạnh
mục đích cung cấp thơng tin, tuyên truyền về các hình thức biểu hiện, nguyên
nhân gây ra BLGĐ, luật PCBLGĐ, tuyên truyền về bình đẳng giới… nó cịn có
vai trị làm thay đổi cách ứng xử trong các nhóm xã hội. TTĐC được coi như một
thiết chế xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu duy trì tính ổn định, tính liên tục của một
xã hội, cũng như nhu cầu hội nhập và thích nghi của các cá nhân trong xã hội ấy.
Vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu, tác giả xem xét nội dung truyền
thông về vấn đề BLGĐ trên diện khảo sát có đảm bảo được những chức năng như
định hướng dư luận xã hội, giải trí, thơng tin, xã hội hóa … hay không.
- Lý thuyết thuyết phục: Trong hơn 20 lý thuyết truyền thông trực tiếp
được đưa ra trong cuốn Truyền thông - lý thuyết và kỹ năng cơ bản, do tác giả
Nguyễn Văn Dững chủ biên [15], luận văn này lựa chọn lý thuyết thuyết phục một trong những lý thuyết truyền thông khẳng định nội dung thông điệp được
phản ánh có mối quan hệ với cơng chúng tiếp nhận.
William McGuire cho rằng, để có thể thuyết phục được cơng chúng
nhằm thay đổi được nhận thức, thái độ, hành vi của họ, trong hoạt động
truyền thông cần trải qua 10 bước. Trong đó, bước đầu tiên là tiếp cận thơng
điệp, có nghĩa là tạo môi trường truyền thông để công chúng có khả năng tiếp


11
cận với thông điệp đã thiết kế. Bước thứ 2 cho rằng thông điệp khi xây dựng cần
được chú ý bới khả năng thuyết phục của truyền thông sẽ mất đi nếu thông điệp
không thu hút, kém hấp dẫn công chúng. Hơn nữa, trong bản thân mỗi thông
điệp công chúng phải tìm thấy được mối quan tâm nhất định với thơng điệp mà
mình nhận được (bước 3), sau khi họ thấy chú ý tới thơng điệp thì giai đoạn tiếp
theo là hiểu thơng điệp (bước 4) từ đó cá nhân suy nghĩ kỹ hơn về thông điệp và
liên hệ với những kinh nghiệm mình có hoặc với những vấn đề liên quan đến đời
sống của chính họ để từ đó cá nhân điều chỉnh suy nghĩ của mình cho phù hợp
(bước 5) rồi từ đó chấp nhận thay đổi (nhận thức, thái độ, hành vi) (bước 6).
Bước tiếp theo (bước 7) khẳng định nhà truyền thông cần làm để công chúng ghi

nhớ thông điệp và không ngừng ủng hộ thông điệp, chuyển đổi tận gốc thái độ
dựa trên cơ sở hiểu biết và tư duy về thông điệp (bước 8) cơng chúng ra quyết
định cho chính họ về việc chuyển đổi hành vi gì, ở mức độ nào và như thế nào
(bước 9). Và cuối cùng (bước 10) hành vi của công chúng đã biến đổi nhưng nếu
không được củng cố, nhất là không được dư luận xã hội hỗ trợ, củng cố thì nó
chỉ thay đổi vài lần rồi lại dừng lại [15, tr.68-72].
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích nội dung
Phân tích nội dung là một phương pháp phân tích tài liệu và bài viết (có
thể dưới dạng in ấn và nghe nhìn) nhằm lượng hóa nội dung có hệ thống. Đó
là các tác phẩm báo chí đăng tải trên mục “Gia đình” của trang thơng tin điện tử
http//giadinh.net.vn và chuyên mục phát thanh “Thức đêm cùng bạn” của kênh
VOV giao thông, những câu trả lời thu được qua bảng thăm dò ý kiến, phỏng vấn
sâu, gỡ băng. Từ đó tìm ra những thành cơng và hạn chế trong thơng truyền thơng
phịng chống BLGĐ trên diện khảo sát.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này nhằm thu thập ý kiến đánh giá của các cá nhân để bổ
sung cho phần thông tin định lượng, hỏi sâu những vấn đề không được thể
hiện trong bảng hỏi. Tác giả tập trung phỏng vấn sâu 12 trường hợp.


12
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (anket)
Sử dụng phương pháp nghiên cứu của xã hội học - phương pháp trắc
nghiệm nhằm đưa ra những minh chứng cụ thể, rõ ràng, khách quan từ phía
cơng chúng về mức độ tiếp cận thơng tin, nội dung và hình thức truyền thông
vấn đề BLGĐ trên diện khảo sát.
Từ ý tưởng trên, tác giả xây dựng một hệ thống các câu hỏi dành cho
diện khảo sát, với cách thức tiến hành là phát phiếu trực tiếp cho mỗi trường
hợp. Ban đầu, công chúng được giới thiệu về mục đích của nghiên cứu. Tiếp

đến, tác giả hướng dẫn cách thức điền thông tin vào bảng hỏi [x. Phụ lục 2].
Trong khuôn khổ giới hạn của cuộc khảo sát công chúng Hà Nội, thời gian
18 tháng, tác giả chưa có điều kiện khảo sát trên diện rộng, cỡ mẫu lớn mang tính
đại diện cao. Vì vậy, tác giả đã phát 450 phiếu điều tra. Số phiếu được kiểm tra,
làm sạch trước khi xử lý là 448 phiếu ( có 02 phiếu khơng đạt u cầu).
Việc lựa chọn công chúng để thực hiện trắc nghiệm được xây dựng dựa
trên định hướng ưu tiên có chủ đích của tác giả, đó là:
+ Cơng chúng là tiềm năng của báo điện tử và phát thanh bao gồm cả
nam và nữ (có thể đã và đang tiếp cận với internet, đọc báo điện tử hoặc có
thể đọc báo điện tử; đã và đang nghe các chuyên mục phát thanh trên VOV
giao thông).
+ Là những trường hợp đã kết hôn, chưa kết hôn.
+ Là những trường hợp được phân theo nhóm nghề nghiệp: cán bộ,
sinh viên, bn bán/ dịch vụ. Mô tả mẫu nghiên cứu được đưa vào phụ lục
của đề tài [x.Phụ lục 3].
5.3. Phương pháp xử lý thông tin
Thông tin thu thập được từ bảng hỏi trắc nghiệm được mã hóa, nhập và
xử lý bằng chương trình SPSS 13.0. Kết quả khảo sát của đề tài được đưa vào
phần phụ lục [x. Phụ lục3].
Thông tin khảo sát trên chuyên mục Thức đêm cùng bạn, có 72 file âm
thanh được nghe lại lập bảng mã để phân tích và thống kê số liệu đề phục vụ cho
nghiên cứu.


13
Thơng tin khảo sát trên mục Gia đình của trang thông tin điện tử
trong thời gian 18 tháng, được đọc tổng hợp số liệu, phân
tích, phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
6. Điểm mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
6.1. Điểm mới của luận văn

Về khách thể nghiên cứu: Theo truyền thống, khách thể nghiên cứu của các
đề tài thường là các nhóm xã hội khác nhau. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này ngồi
nhóm cơng chúng cịn có nhóm khách thể được xác định là những nội dung được
đăng tải trên diện khảo sát. Do vậy nghiên cứu này cung cấp bức tranh thực tiễn,
phong phú từ phía cơng chúng và từ bản thân nội dung truyền thông.
Về vận dụng lý thuyết và phương pháp tiếp cận vấn đề: Luận văn sử
dụng lý thuyết chức năng và lý thuyết thuyết phục nhằm viện dẫn cho những
luận điểm được phân tích ở chương 2. Thơng qua q trình phân tích nội
dung, phương thức tác động của truyền thông vấn đề BLGĐ trên diện khảo
sát; Nêu lên những đặc thù trong truyền thơng PCBLGĐ. Điều này góp phần
làm phong phú thêm cách tiếp cận nghiên cứu xã hội học TTĐC trong nghiên
cứu báo chí hiện nay.
6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Ý nghĩa lý luận: Vận dụng lý thuyết chức năng, lý thuyết thuyết phục
trong hệ thống lý thuyết truyền thơng để phân tích nội dung, hình thức truyền
thơng về vấn đề BLGĐ trên diện khảo sát.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ
những vấn đề lý luận về truyền thông PCBLGĐ qua khảo sát trang thông tin điện
tử http//giadinh.net.vn và loại hình báo chí phát thanh. Cung cấp cứ liệu khoa học
phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức điều hành hoạt động của hai kênh báo chí
này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả truyền thơng phịng chống BLGĐ.
Cung cấp cơ sở thực tiễn cho nhà báo khi đưa tin về vấn đề BLGĐ,
đồng thời gợi mở cho cơng chúng ý thức trong q trình tiếp nhận thông tin
về BLGĐ trên diện khảo sát.


14
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
trong công tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học về báo chí trong
truyền thơng, tư vấn về vấn đề BLGĐ.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
gồm 3 chương, 9 tiết.


15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ TRUYỀN THÔNG PHỊNG CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TRÊN BÁO CHÍ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình
1.1.1. Gia đình
Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam (2000) ghi: “Gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh những nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với
nhau”[33, tr.9].
Từ điển tiếng Việt do Hồng Phê chủ biên định nghĩa: “Gia đình là tập
hợp người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó
với nhau bằng quan hệ hơn nhân và dịng máu, thường gồm có vợ chồng, cha
mẹ và con cái” [43, tr. 381].
Dưới khía cạnh xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội.
Các nhà xã hội học đưa ra khái niệm gia đình như sau:
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà
các thành viên của nó gắn với nhau bởi mối quan hệ hơn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh
hoạt, trách nhiệm đạo đức nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của
các thành viên cũng như để thực hiện tính chất tất yếu của xã hội về
tái sản xuất con người [11].
Như vậy, khi bàn tới khái niệm gia đình cịn nhiều vấn đề phải tìm hiểu
và nghiên cứu. Nhưng căn cứ vào các đặc điểm hơn nhân và gia đình ở nước
ta, kế thừa các hạt nhân hợp lí của các cách tiếp cận khác nhau về gia đình,

luận văn sử dụng khái niệm về gia đình như sau:
Gia đình là một phạm trù dùng để chỉ một tập hợp người hình thành
trên cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ
ni dưỡng… Các thành viên gắn bó với nhau bởi trách nhiệm,


16
nghĩa vụ, quyền lợi kinh tế - văn hóa - tình cảm và theo những
chuẩn giá trị nhất định, được dư luận xã hội ủng hộ, được nhà nước
thừa nhận và bảo vệ [35, tr.17].
Như vậy khái niệm trên bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất: gia đình là một thiết chế được hình thành trước hết trên cơ sở
hơn nhân - là sự kết hợp giữa hai cá nhân (nam và nữ) theo quy định của luật
pháp nhằm chung sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Đó là sự
cam kết chung sống của hai cá nhân một cách tự nguyện dựa trên sự hấp dẫn
về giới tính và sự gắn bó về tình cảm.
Thứ hai: gia đình cịn được dựa trên cơ sở huyết thống là sự phát triển và
là hệ quả tất yếu của quan hệ hơn nhân. Nó chỉ được phát triển tốt đẹp dựa trên
cơ sở hôn nhân tự nguyện, dựa trên cơ sở tình u chính đáng và hợp pháp.
Thứ ba: quan hệ ni dưỡng là quan hệ được hình thành giữa chủ thể
và đối tượng được ni dưỡng; họ gắn bó với nhau bởi những nghĩa vụ và
quyền lợi được dư luận xã hội thừa nhận và ủng hộ.
1.1.2. Bạo lực trên cơ sở giới
Tuyên bố của Liên Hợp quốc về Xóa bỏ Bạo lực đối với phụ nữ do Đại
Hội Đồng Liên Hợp quốc thông qua năm 1993, định nghĩa Bạo lực trên cơ sở
giới như sau:
Bất kỳ một hành động bạo lực nào dựa trên cơ sở giới dẫn đến hoặc
có khả năng dẫn đến những tổn thất về thân thể, tình dục, tâm lý hay
những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành
động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự

do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư.
Định ngĩa của Liên Hợp quốc nêu trên có phạm vi rộng bao gồm các
hành vi bạo lực chống lại phụ nữ trong cuộc sống riêng tư (BLGĐ) lẫn các
hành vi bạo lực chống lại phụ nữ ở nơi công cộng (bạo lực ngồi gia đình).
Theo quan điểm của Liên Hợp quốc, bạo lực chống lại phụ nữ có thể phân
loại thành sáu lĩnh vực như sau: 1/ Bạo lực trong gia đình; 2/ Bạo lực về giới;


17
3/ Những tập tục hủ lậu đối với phụ nữ; 4/ Tệ nạn buôn bán trẻ em gái và phụ
nữ; 5/ HIV/AIDS và bạo lực; 6/ Những tội ác chống lại phụ nữ trong chiến
tranh và trong các cuộc xung đột vũ trang [57, tr.4].
1.1.3. Bạo lực gia đình và phân loại bạo lực gia đình
- Bạo lực gia đình
Nhìn BLGĐ qua lăng kính giới chính là cách xem xét bạo lực xảy ra giữa
những người khác giới, cụ thể là giữa nam giới và nữ giới, được xác định ở đây
chủ yếu trong mối quan hệ thân thuộc thậm chí là quan hệ máu mủ.
Trong các tài liệu quốc tế, khái niệm BLGĐ được coi là những hành vi
BL do chồng hoặc bạn tình gây ra. Đó là những hành vi BL xảy ra trong quan
hệ hôn nhân hoặc quan hệ tương tự hôn nhân gây tổn hại đến sức khỏe về thể
chất, tinh thần và tình dục với người vợ hoặc bạn tình (bạn tình ở đây bao
gồm những cặp chưa kết hôn, ly thân, ly dị nhưng vẫn sống chung hoặc
khơng, các cặp tình dục đồng giới).
Ở nước ta, khái niệm “Bạo lực gia đình” được hiểu là tất cả các loại BL
mà một hay nhiều thành viên trong gia đình gây ra cho một hay nhiều thành
viên khác bất kể giới tính của nạn nhân. Hay có thể hiểu BLGĐ là những
hành vi BL xảy ra trong phạm vi gia đình, đó là sự xâm phạm và ngược đãi về
thân thể hay tinh thần, tình cảm hay tình dục, kinh tế hay xã hội giữa các
thành viên trong gia đình. Nó cịn là sự lạm dụng quyền lực hay hành vi sử
dụng vũ lực nhằm hăm dọa hoặc đánh đập người thân trong gia đình để điều

khiển hay kiểm sốt người đó [57].
Tại điều 1 Khoản 2, Luật phịng chống BLGĐ có ghi: “BLGĐ là hành
vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về
thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”.
Bạo lực trong gia đình là hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng
quyền lực và bạo lực trong cả một quá trình để thực hiện hành vi làm cho
thành viên khác trong gia đình đau đớn về thể xác, bị khủng hoảng về tinh
thần và bị bế tắc về mặt xã hội nhằm khuất phục, khống chế và kiểm soát


18
người đó. Mặt khác, bạo lực gia đình là hành vi cố ý. Mục đích của nó là để
thiết lập và duy trì quyềnlực và sự kiểm sốt đối với người khác. Bạo lực
được dùng để đe dọa, hạ nhục hoặc khiến nạn nhân sợ hãi.
Hành vi bạo lực trong gia đình được luật phịng chống BLGĐ ghi rõ tại
khoản 1, Điều 2 bao gồm:
a/ Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến
sức khỏe, tính mạng;
b/ Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c/ Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu
quả nghiêm trọng;
d/ Ngăn cản việc việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình
giữa ơng, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị,
em với nhau;
e/ Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ;
g/ Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư
hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của
các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động q sức, đóng góp tài chính

q khả năng của họ; kiểm sốt thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra
tình trạng phụ thuộc về tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
- Phân loại BLGĐ
Phân loại bạo lực gia đình có thể phân theo mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình như:
+ Bạo lực giữa vợ và chồng
+ Bạo lực giữa cha mẹ và con cái
+ Bạo lực giữa các thành viên khác trong gia đình (tùy thuộc vào loại
hình và quy mơ gia đình)


19
Phân loại theo hình thức bạo lực: Việc phân loại BLGĐ cũng là khác
nhau trong các nghiên cứu. Trong luận văn này, tác giả chia ra 4 loại bạo lực:
+ Bạo lực về thân thể: bao gồm các hành vi như đấm, đá, tát, xô đẩy …
gây tổn thương về thể xác.
+ Bạo lực về tâm lý, tình cảm: dằn vặt, chiến tranh lạnh, phớt lờ, ngoại tình…
+ Bạo lực liên quan đến tình dục: lạm dụng tình dục, ép quan hệ tình
dục, bắt xem những hình ảnh khiêu dâm mà không được phép, bắt sinh thêm
con trai…
+ Bạo lực về kinh tế: ngăn khơng cho làm việc, kiểm sốt chặt chẽ,
không cho người khác tiếp cận những nguồn thu nhập của gia đình…
Khái niệm BLGĐ được sử dụng nhằm mục đích là cơng cụ đo lường
việc truyền tải các thơng tin trên diện khảo sát ở khía cạnh: nhà báo có đưa tin
đầy đủ, chính xác về BLGĐ hay khơng? (bao gồm sự thể hiện khái niệm
BLGĐ, loại hình BLGĐ, nguyên nhân dẫn tới BLGĐ). Qua đó có thể thấy
được hàm ý, nội dung thông tin mà nhà truyền thơng muốn gửi tới cơng
chúng, nó cũng cho thấy được một phần của q trình xã hội hóa có củng cố
hoặc loại bỏ nhận thức của công chúng về BLGĐ. Trong q trình phân tích

tác giả luận văn đơi khi sử dụng thuật ngữ cưỡng bức, bạo lực, hành hạ thay
thế cho nhau với cùng một ý nghĩa là bạo lực.
1.2. Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề bạo lực
gia đình và truyền thơng liên quan tới bạo lực gia đình
1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề bạo lực gia đình
Cho đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam
cũng như của các cơ quan truyền thông về các vấn đề liên quan đến bạo lực
giới và BLGĐ. Nói cách khác, pháp luật Việt Nam đã xây dựng một hành
lang pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, thân thể,
danh dự, uy tín, nhân phẩm của cơng dân, chống mọi hành vi BLGĐ.
Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định rõ các mối quan hệ trong
gia đình như mối quan hệ giữa vợ - chồng, cha, mẹ - con cái, quan hệ giữa


20
ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị em và giữa các thành viên
trong gia đình. Luật có 13 chương và 110 điều, trong đó có tới 8 chương và
hơn 20 điều đề cập tới những vấn đề liên quan đến BLGĐ.
Bộ luật Hình sự, năm 2003 có nhiều điều luật được đề cập đến những
tội phạm liên quan tới vấn đề BL thể chất, BL tinh thần và BL tình dục.
Những điều luật này chính là công cụ ngăn chặn hành vi BL mặc dù
trong các bộ luật trên không ghi rõ phạm vi phạm tội là trong gia đình hay
ngồi xã hội nhưng có thể nói luật pháp Việt Nam đã có những chế tài nhằm
bảo vệ các công dân cả về mặt thể chất và tình thần.
Qua đây cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được những hậu
quả nghiêm trọng do BLGĐ gây ra và đặc biệt qua tâm trong việc đấu tranh
PCBLGĐ. Cụ thể, trong vòng 3 năm từ 2006 đến 2008, 2 bộ luật vô cùng
quan trọng được ra đời (Luật Bình đẳng giới và Luật Phịng chống bạo lực gia
đình) nhằm củng cố thêm những văn bản pháp lý quan trọng trước đó cũng
như thể hiện sự cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc đặt được bình

đẳng giới và PCBLGĐ.
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thơng qua ngày 29/11/2006 đã quy
định sự bình đẳng giới trong 8 lĩnh vực cơ bản trong đời sống xã hội (chính
trị; kinh tế; lao động; hơn nhân gia đình; sức khỏe sinh sản; văn hóa khoa học
cơng nghệ; giáo dục đào tạo và y tế).
Luật phòng chống bạo lực gia đình được thơng qua vào ngày
21/11/2007 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2008, bao gồm 6 chương, 46
điều. Luật quy định cụ thể về Các hành vi BLGĐ; Nguyên tắc PCBLGĐ;
Nghĩa vụ của người có hành vi BLGĐ; Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân
BLGĐ; Chính sách của Nhà nước về PCBLGĐ; Hợp tác quốc tế về
PCBLGĐ; Các biện pháp phòng ngừa BLGĐ trong đo nhấn mạnh tới thơng
tin, tun truyền; Các biện pháp hịa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các
thành viên gia đình; Các hoạt động tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng
dân cư; Các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân BLGĐ; Trách nhiệm của cá
nhân. Gia đình, cơ quan, tổ chức và xử lý vi phạm pháp luật về PCBLGĐ.


21
Luật phòng chống BLGĐ ra đời là một sự kiện quan trọng của đất nước
trong việc hướng tới luật hóa vấn đề PCBLGĐ - vốn là vấn đề được cho là chuyện
“nhỏ”, chuyện “riêng”. Để củng cố và khẳng định hơn nữa sự quyết tâm của Đảng
và Nhà nước trong chiến dịch tuyên truyền nhằm xóa bỏ BLGĐ.
Qua một số Bộ luật, chính sách đã đưa ra có thể khẳng định Quốc hội,
Chính phủ Việt Nam, các tổ chức dân sự, các nhà tài trợ và Liên Hợp Quốc đang
cùng nhau hành động nhằm ngăn chặn và kiểm soát bạo lực, thúc đẩy bình đẳng
giới. Tuy nhiên, hiện nay cịn một khoảng cách khá xa giữa luật trên văn bản với
thực tế. Chế tài dành xử phạt những hành vi BLGĐ dường như chưa đủ để ngăn
chặn, đẩy lùi BL. Chẳng hạn, việc áp dụng chế tài dân sự buộc người chồng có
hành vi BL đối với vợ phải bồi thường những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín cho người vợ là điều khó thực hiện.

1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề truyền thơng liên
quan đến bạo lực gia đình
Trong Luật Báo chí năm 1989, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
báo chí năm 1999, và Nghị định của Chính phủ 51/2002/ NĐ-CP quy định chi
tiết việc thi hành Luật báo chí khẳng định: Báo chí nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã
hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân dân.
Trong các văn bản pháp luật gồm: Luật Bình đẳng giới đã được Quốc
hội khóa XI kỳ họp thứ 10 thơng qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/7/2007, Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 03/5/2007 của Chính phủ về
việc triển khai thi hành Luật bình đẳng giới, Luật Phịng chống BLGĐ số
2/2007/QH12, được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21
tháng 11 năm 2007 đã đề cập đến vai trò, chức năng, trách nhiệm của báo chí
đối với việc tăng cường nhận thức của cộng đồng về BLGĐ cụ thể như sau:
Để gắn kết vai trị, trách nhiệm của báo chí với sự nghiệp thúc đẩy bình
đẳng giới, chúng ta có thể viện dẫn đến các nhiệm vụ chung của báo chí như


22
tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu
văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; phát hiện, nêu gương người tốt,
việc tốt, nhân tố mới; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và
các hiện tượng tiêu cực xã hội khác … Đồng thời, cũng có thể viện dẫn thêm các
quy định đã đề cập đến ở trên của Luật Bình đẳng giới và Luật PCBLGĐ.
Tuy nhiên thực tế chưa có những quy định rõ ràng, cụ thể về trách
nhiệm của báo chí đối với cơng tác tăng cường bình đẳng giới, tun truyền
về BLGĐ nên hiện tại các cơ quan báo chí vẫn chưa xây dựng được các đề án,

kế hoạch hành động cụ thể về tuyên truyền, phổ biến vận động cộng đồng
thực hiện Luật bình đẳng giới, Luật PCBLGĐ.
Có thể nói, việc tuyên truyền cũng như thực hiện các chủ trương đó của
Nhà nước đến nay đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo đó, các
phương tiện truyền thơng đăng tải các văn bản, nghị quyết … có tính chất
pháp quy của Đảng, Nhà nước về BLGĐ. Kênh truyền thông nhằm xã hội hóa
thơng tin, giúp các cá nhân, nhóm xã hội có thể thay đổi được nhận thức, thái
độ, hành vi của các nhóm xã hội trong tiến trình giảm thiểu khoảng cách bất
bình đẳng giới và tiến tới đẩy lùi BLGĐ.
1.3. Vai trò và phương thức tác động của báo chí về truyền thơng
phịng chống bạo lực gia đình
1.3.1. Vai trị của báo chí trong truyền thơng phịng
chống bạo lực gia đình
Báo chí ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của công
chúng và sự phát triển của báo chí cũng dựa trên sự gia tăng nhu cầu thông tin
- giao tiếp trong xã hội.
Phân chia một cách tương đối dựa vào tính chất của các chun mục có
thể thấy một cách nhìn nhận khá mới mẻ về BLGĐ. Đây khơng cịn là vấn đề
của riêng mỗi gia đình mà nó đã được nhìn nhận dưới góc độ là vấn đề xã hội.


23
Ngồi chức năng giải trí, báo chí cịn có chức năng thông tin. Với chức năng
này, TTĐC được xem là một bộ phận của xã hội tổng thể, thông qua các kênh
thông tin các giá trị xã hội, các quy tắc, luật lệ thành văn, bất thành văn của xã
hội được phổ biến và nhắc đi nhắc lại cho mọi người cùng biết, trên cơ sở đó
thuyết phục họ đồng tình và vận động cùng nhau tuân thủ đúng quy tắc.
Từ nhiệm vụ đó, báo chí đã góp phần quan trọng đáp ứng quyền được
thông tin của công chúng. Trong nhiệm vụ truyền thơng về vấn đề BLGĐ, báo
chí phát huy vai trò trong việc tuyên truyền và phổ biến các văn bản pháp luật

có liên quan tới vấn đề, nhằm thay đổi nhận thức, và hành vi của công chúng,
xóa bỏ khoảng cách từ luật tới cuộc sống .
Thực tế cho thấy, ở rất nhiều nơi, luật phòng chống BLGĐ chưa được
triển khai tới, hoặc có được phổ biến thì vẫn đang nằm ở một góc nào đó. Dường
như luật phòng chống BLGĐ ra đời chỉ là một phương tiện “làm đẹp”, vẫn chưa
được áp dụng triệt để. Tình trạng BLGĐ vẫn diễn ra nhan nhản và Luật dường
như chưa đủ mạnh để thực thi.
Do vậy, báo chí có vai trị quan trọng để thơng tin, phản ảnh về vấn đề
BLGĐ và về việc thực thi luật BLGĐ cho cơng chúng. Báo chí là một phương
tiện chủ lực trong việc đưa thông tin đến người dân và ngược lại đưa ý kiến,
quan điểm, đánh giá và kiến nghị của người dân đến các cơ quan quản lý.
Báo chí thơng tin kịp thời về những vụ việc BLGĐ, qua đó có thể thấy
cách thức thơng tin của báo chí có tác động ra sao tới cơng chúng. Báo chí
cần góp phần đưa ra những vụ việc về BLGĐ, giúp các cơ quan chức năng có
chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với những hành vi BLGĐ.
Mục “Gia đình” của trang thơng tin điện tử http:/giadinh.net.vn và
chương trình “Thức đêm cùng bạn” là hai kênh truyền thông chuyên sâu về
vấn đề gia đình, trong đó nội dung về BLGĐ chiếm tỷ lệ rất lớn.
Trong vấn đề phòng chống bạo lực gia đình các cơ quan thơng tin,
truyền thơng đã cung cấp thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã
hội, kêu gọi sự cảm thông, hỗ trợ của cộng đồng, giảm kỳ thị, phân biệt đối


24
xử với những nạn nhân, và đóng vai trị quan trọng trong q trình hỗ trợ họ
tái hịa nhập cộng đồng bền vững. Báo chí cũng đã có tiếng nói để các cơ
quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ trẻ em. Đồng thời qua kênh báo
chí, các tổ chức xã hội cũng có thêm thơng tin các nạn nhân bị mua bán, bị
bạo lực để tiếp cận và hỗ trợ họ.
Khơng thể phủ nhận vai trị to lớn của báo chí hiện nay trong q trình

phản ánh đời sống, với nhiều đóng góp đem lại cho cơng chúng những thông
tin nhanh, kịp thời về các biểu hiện tiêu cực của gia đình, đặc biệt là hành vi
BLGĐ. Nhiều bài báo với những ngôn từ đanh thép, những hình ảnh minh
họa phù hợp … đã làm xúc động nhiều bạn đọc. những tác phẩm đó khơng
những chỉ phản ánh một hiện tượng, một vụ việc… mà còn hàm chứa sự lên
án, kêu gọi hay khơi dậy tình cảm, suy nghĩ của bạn đọc.
Dạng bài viết về BLGĐ trên trang chủ yếu là bài
phản ánh về một sự kiện hay một câu chuyện nào đó về BLGĐ hiện nay. Hình
thức này đã đáp ứng được nhu cầu thơng tin nhanh và phù hợp với phong cách
đưa thông tin của báo mạng. Tuy nhiên thì nhiều bài viết cịn đơn điệu, chưa đổi
mới trong cách thể hiện nên dễ gây nhàm chán cho người đọc. Khắc phục tình
trạng này, chương trình “Thức đêm cùng bạn” có những chun đề phân tích sâu
hơn, có những câu chuyện tình huống cụ thể, có sự phân tích về tâm lý, xã hội
của những chuyên gia.
1.3.2. Phương thức tác động của báo phát thanh hiện đại và báo
mạng điện tử trong truyền thông phịng chống bạo lực gia đình
1.3.2.1. Phương thức tác động của báo phát thanh hiện đại
Phát thanh là một loại hình báo chí sử dụng sóng điện tử và hệ thống truyền
thanh truyền tới đối tượng các tín hiệu âm thanh trực tiếp, tác động vào thính giác
người nghe. Phương tiện tác động duy nhất của phát thanh là âm thanh.
Thế giới âm thanh mà phát thanh đem lại có thể tạo dựng bức tranh
cuộc sống sinh động đã và đang diễn ra trước mắt con người. Nó khơi gợi trí
tưởng tượng vơ biên của con người. Từ ngữ, với sự hỗ trợ của âm thanh có


25
thể gợi lên vơ số các hình ảnh vật chất, có thể vượt qua những khơng gian
rộng lớn trong nháy mắt. Bằng trí tưởng tượng những quang cảnh và hình ảnh
có thể được xây dựng ngay tức thì, những tính cách nhân vật có thể được hình
dung rõ ràng qua phát thanh.

So với báo in, phát thanh có thế mạnh của sự nhanh nhạy, linh hoạt và
phương thức thông tin sinh động bằng lời nói, cịn so với truyền hình, phát
thanh vẫn là loại hình báo chí chiếm ưu thế trong việc đưa tin nhanh nhất, kịp
thời nhất, giúp thính giả tiếp cận sớm nhất với những sự việc, sự kiện xảy ra
hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống chung quanh. Với khả năng truyền đạt
ngay tức khắc những sự việc, sự kiện đang xảy ra. Có thể nói so với báo in,
phát thanh có thế mạnh của sự nhanh nhạy linh hoạt và phương thức thông tin
sinh động bằng lời nói. Cịn so với truyền hình, phát thanh vẫn là loại hình chiếm
ưu thế trong việc đưa tin nhanh nhất, kịp thời nhất giúp các thính giả tiếp cận với
những sự việc sự kiện xảy ra hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống.
Lựa chọn kênh phát thanh để tuyên truyền những nội dung liên quan
đến vấn đề gia đình, đặc biệt là vấn đề bạo lực gia đình là nhằm mang đến cho
cơng chúng mọi miền có thể tiếp cận được những thông tin mới nhất, những
kiến thức và kỹ năng cần thiết trong cơng cuộc phịng chống bạo lực gia đình.
Cơng chúng của phát thanh hiện đại khơng chỉ tiếp nhận thơng tin một chiều
mà có thể trực tiếp tham gia vào các chương trình đang phát sóng (phát thanh
tương tác).
Ví dụ, chương trình Thức đêm cùng bạn có phương thức sản xuất trực
tiếp. Theo đặc điểm của một chương trình tư vấn trực tiếp, sự tham gia của
thính giả đóng vai trị quyết định tới nội dung chương trình, vì vậy, chương
trình này khơng có kịch bản cố định. Nhóm sản xuất chương trình cần có sự
chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ về mặt nội dung, bởi “Chương trình hình thành
đến đâu, được phát sóng ngay đến đấy”[10, tr.216].


×