Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Chương 1: một số vấn đề LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN về GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG dân tộc THIỂU số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.53 KB, 106 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, ở nước ta, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14%
dân số cả nước; cư trú trên 52 tỉnh, thành phố; phần lớn đồng bào các dân tộc
thiểu số sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn: miền núi, vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, biên giới và hải đảo. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
về kinh tế, quốc phịng, an ninh và mơi trường sinh thái.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân
tộc, đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
mạng nước ta; giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; công tác dân tộc là một bộ phận quan trọng của đường lối cách
mạng Việt Nam; chính sách dân tộc là một bộ phận hữu cơ trong chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương nhất quán và
đúng đắn về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: đồn kết, bình
đẳng, thương u, tơn trọng giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đồng thời, giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp
của mỗi dân tộc; chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động
chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc. Để chính sách dân tộc phát
huy hiệu quả thì vấn đề giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc ít người
đóng vai trò rất quan trọng.
Cao Bằng là một tỉnh biên giới phía Bắc của Tổ quốc với địa hình phần
lớn là rừng núi, có nhiều dân tộc cùng sinh sống, kinh tế phát triển chậm, đời
sống người dân còn gặp nhiều khó khăn. Trên địa bàn tỉnh có 28 dân tộc,
đơng nhất là dân tộc Tày có 208.822 người, chiếm 42,54%; dân tộc Nùng có
161.134 người, chiếm 32,86%; dân tộc Dao có 47.218 người, chiếm 9,63%;
dân tộc Mơng có 41.437 người, chiếm 8,45%; dân tộc Kinh có 22.956 người,



2
chiếm 4,68%; dân tộc Sán Chay có 6.051 người, chiếm 1,23%; dân tộc Lơ Lơ
có 1.936 người, chiếm 0,39%; dân tộc Hoa có 163 người, chiếm 0,033%; dân
tộc Ngái có 64 người, chiếm 0,013%; các dân tộc khác chiếm 0,18%. Trình độ
chính trị, kinh tế, văn hóa của họ nói chung còn rất thấp kém. Giữa các dân
tộc thiểu số trình độ cũng chênh lệch nhau: có những dân tộc thiểu số trình độ
khơng kém người Kinh bao nhiêu như người Tày, người Nùng,… nhưng cũng
có dân tộc thiểu số cịn rất lạc hậu, như người Lơ-lơ, người Mèo, người Dao,
người Sán Chay.
Nhìn chung, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số còn rất thấp. Kinh tế hàng hóa chậm phát triển, kinh tế tự nhiên và nửa
tự nhiên cịn chiếm tỉ trọng khơng nhỏ. Tình trạng du canh du cư vẫn chưa
được khắc phục một cách căn bản. Đời sống của đại bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số cịn nhiều khó khăn, thậm chí có nơi rất khó khăn. Nghèo đói
vẫn cịn trên diện rộng, sinh hoạt văn hóa thiếu thốn, tỷ lệ số người mù chữ
và thất học còn lớn. Một số bệnh dịch chưa bị đẩy lùi một cách căn bản, có
nơi, có lúc cịn phát triển gây tử vong cao. Nhiều vấn đề tiêu cực xã hội
phát sinh. Bọn phản động và các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng địa bàn
hiểm trở của miền núi để thực hiện âm mưu chống phá cách mạng nước ta
về mọi mặt.
Trong thời gian vừa qua, tồn tại khá phổ biến tình trạng các dân tộc
thiểu số đến tuổi lao động nhưng do hạn chế về nhận thức, trình độ tay nghề,
lại ở xa trung tâm huyện, thị trấn nên đa số đều khơng có việc làm hoặc có
việc làm nhưng không ổn định, nhất là đối với những người làm nông nghiệp
hay các ngành thủ công truyền thống. Hiện nay, ở một số huyện giáp biên giới
Trung Quốc như Trùng Khánh, Trà Lĩnh cịn xuất hiện tình trạng lao động bỏ
sang nước láng giềng để tìm kiếm việc làm, mà chiếm đa số là lao động dân
tộc ít người gây khơng ít bức xúc cho lãnh đạo tỉnh và các cấp ban ngành có
liên quan.



3
Vì vậy, giải quyết việc làm cho lao động các dân tộc thiểu số khơng chỉ
có ý nghĩa về mặt kinh tế mà cịn có ý nghĩa về cả các mặt chính trị, xã hội,
văn hóa đối với tỉnh.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi xin chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho
lao động các dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu luận
văn thạc sỹ chun ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách
đầu tư cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số (DTTS), tạo cơ hội cho đồng bào vượt lên khó khăn phát
triển kinh tế-xã hội, hoà nhập vào xu thế phát triển chung của đất nước như:
- “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” (do
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản số 2685/VPCP-QHQT, ngày
21/5/2002).
- “Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm
giai đoạn 2001-2005” do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số
143/2001/QĐ-Ttg, ngày 27/9/2001).
- “Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2006 - 2010” (do Thủ
tướng chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 07/2006/QĐ-T\Tg ngày
10/01/2006).
- Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ về một số chính sách
“phát triển ngành nghề nơng thơn”.
- Ngồi ra Đảng và Nhà nước ta cịn có Chương trình Phát triển kinh tếxã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng DTTS và miền núi (Chương trình 135),
Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo, Chương trình mục tiêu Quốc
gia về việc làm, Chương trình mục tiêu Quốc gia về nước sạch và vệ sinh mơi
trường, Chương trình mục tiêu Quốc gia về biến đổi khí hậu, Quyết định 134,



4
Quyết định 32, Quyết định 33… dành cho các xã đồng bào khó khăn, vùng
đồng bào DTTS nghèo nói riêng và người nghèo cả nước nói chung.
Các chương trình, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo cơ hội đột
phá giúp người nghèo ổn định cuộc sống. Nhiều hộ đã thốt nghèo và vươn
lên làm giàu, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS,
miền núi.
Ở những giác độ khác nhau, cũng đã có một số cơng trình đề cập tới
vấn đề này như:
- Thị trường lao động: Thực trạng và giải pháp của PGS Nguyễn
Quang Hiền, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS Nguyễn Hữu
Dũng và Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Luận án tiến sĩ "Trí thức người dân tộc thiểu sớ ở Việt Nam trong
công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu sớ phía Bắc)" của Trịnh
Quang Cảnh, 2001.
- Thị trường lao động Việt Nam: Định hướng và phát triển của Thạc sỹ
Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- Đề tài cấp bộ, “Thị trường lao động ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp”, chủ nhiệm TS. Nguyễn Thị Thơm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2004.
- Trần Thị Tuyết Hương (2005), “Giải quyết việc làm trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hưng Yên đến 2010”, Luận văn Thạc sỹ kinh
tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Giải quyết việc làm cho nông dân vùng đồng bằng sông Hồng ở nước
ta hiện nay; Đề tài khoa học cấp Bộ do TS Bùi Thị Ngọc Lan làm chủ nhiệm,
Hà Nội, 2006.
- Việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tỉnh Bắc Giang, Luận văn
thạc sỹ kinh tế - chính trị của Ngơ Văn Dũng, Hà Nội, 2011.



5
Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những cơng trình,
bài viết về vấn đề nguồn nhân lực các DTTS và đã được đăng tải trên các Tạp
chí như: “Chính sách dân tộc đã thực sự đi vào cuộc sống đồng bào các dân
tộc thiểu số ở Kon Tum” của Nguyễn Thanh Cao, tạp chí Tư tưởng Văn hố
2004; “Chính sách cử tuyển- một chủ trương đúng trong chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng miền núi,
vùng dân tộc thiểu số” của Nguyễn Thị Mỹ Trang- Lại Thị Thu Hà, Tạp chí
Dân tộc học 2005; “Vấn đề dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số ở
nước ta” của Nguyễn Thế Huệ, Tạp chí Cộng sản 2004,... Các bài viết này
bước đầu đề cập đến các vấn đề cấp bách hiện nay như giáo dục - đào tạo,
việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số... Nhìn chung chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về giải quyết việc làm cho lao động
dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết việc
làm; từ những phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động
các dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng, luận văn đề xuất phương hướng và giải
pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động các dân tộc thiểu số ở
tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm
cho lao động dân tộc thiểu số.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động các
dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng trong những năm (2006 - 2011).
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc
làm cho lao động các dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2012 - 2020.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


6
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giải quyết việc làm cho lao
động các dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ nghiên cứu việc giải quyết việc làm
cho lao động các dân tộc thiểu số thuộc các huyện ở Tỉnh Cao Bằng trong thời
gian từ năm 2006 - 2011.
Nếu tính theo tiêu chuẩn của cả nước thì Cao Bằng có tới 95% dân số là
dân tộc thiểu số, tuy nhiên thực tế ở Cao Bằng thì dân tộc Tày và dân tộc
Nùng lại chiếm đa số và dân tộc Kinh lại là dân tộc chiếm thiểu số. Vì vậy,
trong quá trình thu thập số liệu thì số lượng lao động các dân tộc thiểu số ở
Cao Bằng được tính trong phạm vi của Tỉnh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước; Các nghị quyết,
quyết định của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng về giải quyết việc làm cho lao động
các dân tộc thiểu số. Kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các
nhà nghiên cứu, các học giả về vấn đề trên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê,… kết hợp với việc xử
lý các tài liệu về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động dân tộc thiểu số.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng giải quyết việc làm cho lao động
các dân tộc thiểu số tỉnh Cao Bằng trong thời gian vừa qua.
- Đề xuất một hệ thống các quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết tốt
vấn đề việc làm cho lao động các dân tộc thiểu số ở Cao Bằng.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận


7
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy một số vấn đề kinh tế chính trị trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như vấn đề giải quyết việc làm, vấn đề thực hiện
công bằng xã hội…
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin
cậy để các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh tham khảo trong q trình hoạch
định chính sách giải quyết việc làm cho lao động các dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Cao Bằng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết, 92 trang.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm
cho lao động các dân tộc thiểu số
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động các dân tộc
thiểu số ở tỉnh Cao Bằng từ năm 2005 - 2011
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp giải quyết việc làm cho
lao động các dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng


8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Việc làm, giải quyết việc làm cho lao động dân tộc thiểu số

1.1.1. Việc làm
1.1.1.1. Khái niệm việc làm
Việc làm hay hoạt động lao động sản xuất luôn gắn liền với con người
và xã hội loài người. Từ thủa khai thiên lập địa, con người đã biết tìm kiếm ở
thế giới xung quanh những sản phẩm để đáp ứng nhu cầu cho bản thân. Xã
hội loài người dần dần phát triển, các hoạt động lao động sản xuất dần được
chia thành các nghề khác nhau và như vậy người lao động sẽ lựa chọn nơi và
lĩnh vực lao động phù hợp với khả năng của mình.
Hiện nay, việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải
quyết việc làm là công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Cuộc sống của
bản thân và của gia đình người lao động phụ thuộc rất lớn vào việc làm của
họ. Sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả
của chính sách giải quyết việc làm. Với tầm quan trọng như vậy, việc làm
được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như kinh tế, xã hội học, lịch
sử,… Khi nghiên cứu dưới góc độ lịch sử thì việc làm liên quan đến phương
thức lao động kiếm sống của con người và xã hội loài người. Các nhà kinh tế
coi sức lao động thơng qua q trình thực hiện việc làm của người lao động là
yếu tố quan trọng của đầu vào sản xuất bên cạnh đó cũng xem xét vấn đề thu
nhập của người lao động từ việc làm.
Việc làm là vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp, đây là công việc của mỗi
cá nhân nhưng lại gắn liền với xã hội và chính sách của nhà nước, người lao
động có việc làm nghĩa là có thu nhập nuôi sống bản thân đồng thời cũng tạo
ra một lượng của cải cho xã hội. C.Mác cũng đã khẳng định: “Với những điều


9
kiện khác khơng thay đổi thì khối lượng và giá trị sản phẩm tăng lên tỷ lệ
thuận với số lượng lao động được sử dụng” [26, tr.75].
Việt Nam ta trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao
cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng

là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập
thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế
khác, đồng thời cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp,…
Ngày nay các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn
và khoa học hơn, đó là các hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập, mà
không bị pháp luật cấm. Điều 13, chương II Bộ Luật lao động Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [1, tr42].
Xuất phát từ các căn cứ trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về việc
làm như sau: Việc làm là những hoạt động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế xã hội, mang lại thu nhập cho người lao động mà không
bị luật pháp cấm.
Theo khái niệm trên, việc làm là các hoạt động lao động được hiểu như sau:
- Làm các công việc để nhận tiền cơng tiền lương hoặc hiện vật cho
việc đó.
- Làm các cơng việc tự làm, mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu
nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả
công bằng hiện vật.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động
và các thành viên trong gia đình.
Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó khơng bị
pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện và đủ của
hoạt động được thừa nhận là việc làm.


10
Quan niệm về việc làm trên đây là hoàn toàn phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa, người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất kì đâu, miễn
là khơng vi phạm luật pháp để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn. Quan
niệm trên đã mở ra hướng giải quyết việc làm, tạo ra một thị trường việc làm
phong phú và đa dạng, thu hút nhiều người lao động, thực hiện mục tiêu giải
phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
1.1.1.2. Bản chất của lao động và việc làm cho lao động dân tộc thiểu số
a. Lao động, nguồn lao động và lực lượng lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người trong đó con người
sử dụng cơng cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến các dạng
vật chất trong tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ con người. Khoa học và
thực tiễn lịch sử đã chứng minh thông qua lao động mà con người ngày càng
thốt ra khỏi thế giới của lồi vật và ngày càng phát triển.
Nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt nguồn lao động với dân số
trong độ tuổi lao động. Cả hai thuật ngữ trên đều giới hạn độ tuổi lao động
theo luật định của mỗi nước, nhưng nguồn lao động chỉ bao gồm những người
có khả năng lao động trong khi dân số trong độ tuổi lao động còn bao gồm bộ
phận dân số trong độ tuổi lao động nhưng khơng có khả năng lao động như
tàn tật, mất sức lao động bấm sinh hoặc do các nguyên nhân: chiến tranh, tai nạn
giao thơng, tai nạn lao động,… Vì thế quy mơ dân số trong độ tuổi lao động ở
các nước là khác nhau. Căn cứ để xác định độ tuổi lao động là: một là, sức khỏe
của người dân; hai là, giới tính; ba là, trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Đối với Việt Nam, Điều 6 của Luật Lao động năm 2002 quy định:
“Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao
kết hợp đồng lao động” và Điều 145 quy định “Người lao động được hưởng
chế độ hưu trí hàng tháng khi có đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian đã đóng


11
bảo hiểm xã hội như sau: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi”. Theo quy định đó

thì độ tuổi lao động của người Việt Nam được xác định là từ 15 đến 60 và nữ
là từ 15 đến 55.
Lực lượng lao động là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm và những người chưa có việc
làm nhưng có nhu cầu làm việc. Theo ý nghĩa đó, lực lượng lao động cũng
như nguồn lao động gắn với độ tuổi lao động mà Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội định nghĩa: “Lực lượng lao động (hay còn gọi là dân số hoạt động
kinh tế) bao gồm toàn bộ những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm
hoặc đang tìm kiếm việc làm. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (còn
gọi là dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động) bao gồm những người
trong độ tuổi lao động (nam từ 15 tuổi đến hết 60 tuổi; nữ từ đủ 15 tuổi đến
hết 55 tuổi) đang có việc làm hoặc khơng có việc làm (thất nghiệp) nhưng có
nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc”.
Như vậy, lực lượng lao động bao gồm những người đang làm việc
trong, ngoài độ tuổi lao động và cả những người thất nghiệp.
Người có việc làm là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động, có việc làm và đang hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực
của đời sống xã hội trong nền kinh tế quốc dân.
Đây là lực lượng trực tiếp tạo ra sản phẩm và của cải vật chất cho xã
hội. Những người có việc làm trong xã hội còn được gọi là dân số tham gia
hoạt động kinh tế. Trên thực tế, lực lượng này đã và đang tạo ra nhiều sản
phẩm vật chất cho xã hội.
Người thất nghiệp: Là những người có khả năng lao động, có nhu cầu lao
động nhưng hiện tại khơng có việc làm hoặc đang chờ đợi được trở lại làm việc.
Xét trong cơ cấu lực lượng lao động, thất nghiệp có vai trò như một
nguồn dự trữ lao động về nhân lực, bao gồm thất nghiệp dài hạn (hồn tồn
khơng có việc làm) và thất nghiệp mùa vụ. Ở các nước đang phát triển, thất


12

nghiệp theo mùa vụ thường chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng số những
người thất nghiệp và là nhân tố cần tính đến trong cân đối nguồn nhân lực.
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là không thể tránh khỏi, song
một quốc gia giữ cho người lao động có đủ việc làm ở mức cho phép sẽ đạt
được mức GDP cao hơn so với việc để cho người lao động khơng có việc làm.
b. Việc làm cho lao động dân tộc thiểu sớ
Dân tộc, được hiểu ở đây chính là “dân tộc - tộc người” mà đến nay các
nhà nghiên cứu đều thống nhất một cộng đồng dân tộc người có ba tiêu chí
sau: một là, có ngơn ngữ chung; hai là, có đặc trưng về văn hóa sinh hoạt
chung; ba là, có ý thức tự giác về tộc người. Cả ba tiêu chí trên hợp thành tính
tộc người. Ngôn ngữ là dấu hiệu quan trọng đầu tiên, vừa là phương tiện giao
tiếp giữa những người đồng tộc, vừa là vách ngăn với các dân tộc khác. Văn
hóa tộc người được biểu hiện trong vô vàn các lĩnh vực văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần, như các loại hình nhà cửa, đồ dùng trong gia đình, y phục,
ăn uống, tập quán, nghi lễ, nghệ thuật dân gian, tôn giáo,…ý thức tự giác tộc
người được thể hiện ở tên tự gọi (Kinh, Tày, Thái, Mường,…) và quan niệm
về nguồn gốc lịch sử con người.
Dân tộc thiểu số là khái niệm chỉ các cộng đồng dân tộc người không
phải đa số trong quốc gia-dân tộc. Ở Việt Nam, theo cách phân chia hiện nay
có 55 thành phần tộc người, trong đó người Kinh được xem là cư dân đa số,
54 tộc người còn lại được xem là cư dân thiểu số. Thiểu số hay đa số là xem
xét trên phạm vi tồn quốc khơng xem xét trên phạm vi một địa phương cụ
thể, bởi một tộc người này được xem là thiểu số khi xét trên phạm vi toàn
quốc, nhưng ở một địa phương có khi lại là đa số như trường hợp người Tày ở
Cao Bằng, người Nùng ở Lạng Sơn, người Thái ở Sơn La,…
Ở đây cần phân biệt khái niệm “dân tộc” với “miền núi”. Dân tộc là chỉ
cộng đồng xã hội tộc người, còn miền núi là hình thái lãnh thổ, được phân
biệt với trung du và đồng bằng. Miền núi được dùng để chỉ địa bàn có địa



13
hình dốc, lồi, có độ cao trên 200m so với mặt nước biển. Tỉnh miền núi là tỉnh
có trên 2/3 diện tích núi. Sở dĩ khái niệm “dân tộc” thường có quan hệ với
khái niệm “miền núi”, nhất là trong thực hiện chính sách dân tộc vì miền núi
là địa bàn tụ cư phần lớn các tộc người thiểu số. Tuy nhiên, ở miền núi khơng
chỉ có tộc người thiểu số, mà có cả tộc người đa số (Kinh); mặt khác, các tộc
người thiểu số cũng không chỉ cư trú ở miền núi, mà còn ở cả đồng bằng.
Như vậy, việc làm cho lao động dân tộc thiểu số là hoạt động tạo ra của
cải vật chất hoặc tinh thần không bị pháp luật cấm của lực lượng lao động
thiểu số, được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật. Hoạt động này
mang lại lợi ích cho bản thân họ và tạo thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng.
1.1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm và việc làm cho lao động
dân tộc thiểu số
a. Nhân tố điều kiện tự nhiên
Các tộc người thiểu số cư trú ở nhiều hình thái lãnh thổ như sơn ngun
(Mơng, Dao,..), cao nguyên (Êđê, Giarai,…), thung lũng (Tày, Nùng, Thái,
Mường,…), biển đảo (Hoa, Sán Dìu,…) với hệ sinh thái đa dạng (rẻo cao, rẻo
giữa, rẻo thấp, biển-đảo).
Đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc do địa hình
hiểm trở và chia cắt mạnh bởi núi cao đã cản trở quá trình giao thương và đi
lại, học tập của người dân. Tuy nhiên, miền núi - địa bàn phân bố chủ yếu của
các dân tộc thiểu số Việt Nam là nơi chứa đựng trong lòng đất hầu hết trữ
lượng khoáng sản của đất nước, rất cần cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Từ nhiều thế kỷ qua, hàng triệu cư dân các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam đã sống dựa vào các nguồn thực phẩm có sẵn trong tự nhiên, rừng cung
cấp lâm thổ sản, sông suối cung cấp nước, tôm, cá,…Ngày nay, những vùng
đất phì nhiêu ở khu vực này rất thuận lợi cho việc trồng các cây công nghiệp
dài ngày như cà phê, cao su, chè,… Những đồng cỏ rộng lớn trên các cao
nguyên là nơi thuận lợi cho sự phát triển các ngành chăn nuôi đại gia súc.



14
Những vùng đất rộng lớn của miền núi là tiềm năng xây dựng các nông trại,
trang trại. Rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng trồng cây lấy gỗ sẽ là nguồn
tài sản quý báu của đất nước.
Gắn với những hình thái lãnh thổ, từng hệ sinh thái nên đặt ra những
yêu cầu rất khác nhau về quản lý và phát triển không gian kinh tế-xã hội tộc
người. Tạo việc làm cho lao động dân tộc thiểu số với tư cách là một bộ phận
hợp thành kinh tế xã hội phải gắn với đặc điểm địa lý, thạch quyển, khí
quyển, thủy văn, hệ sinh thái,… của từng vùng.
b. Nhân tớ chính sách giải quyết việc làm của Nhà nước
Để giải quyết việc làm, vấn đề quan trọng hàng đầu là Nhà nước phải
tạo các điều kiện thuận lợi để người lao động có thể tự tạo việc làm thơng qua
những chính sách kinh tế-xã hội cụ thể. Các chính sách tác động đến việc làm
có nhiều loại, có loại tác động trực tiếp, có loại tác động gián tiếp tạo thành hệ
thống chính sách hồn chỉnh, đồng bộ có quan hệ tác động qua lại, bổ sung
cho nhau hướng vào phát triển cả cung lẫn cầu về lao động; đồng thời làm
cung cầu về lao động xích lại gần nhau, phù hợp với nhau, thực chất là tạo ra
sự phù hợp giữa cơ cấu lao động với cơ cấu kinh tế.
Chính sách đất đai, Theo Luật đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
nhà nước thống nhất quản lý. Nhờ có chính sách đất đai đúng đắn đã tạo tiềm
năng mới để giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chính sách huy động vớn, Vốn có vị trí quan trọng, là yếu tố cơ bản để
giải quyết việc làm, nếu vốn được gia tăng sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thu hút
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác nhau như: lao động, tài nguyên
thiên nhiên, khoa học công nghệ,… để phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc
làm. Nhà nước ta chủ trương huy động vốn trong và ngoài nước để đầu tư vào
phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngồi nước có
ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có

thể tranh thủ ở bên ngoài.


15
Chính sách giáo dục đào tạo, Chính sách này có ý nghĩa quyết định tới
việc làm của người lao động. Thực tiễn cho thấy, chỉ khi nào được trang bị
kiến thức, kỹ năng đầy đủ, người lao động mới có khả năng tìm được việc
làm, đặc biệt là đối với lao động dân tộc thiểu số.
Chính sách dân tộc, là một bộ phận hữu cơ trong chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương nhất quán và đúng đắn
về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: đoàn kết, bình đẳng,
thương u, tơn trọng giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc; đồng thời, giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của
mỗi dân tộc; chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động chia
rẽ, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Chính sách khơi phục, phát triển ngành nghề truyền thống và tạo thêm
nhiều ngành nghề mới, Một trong những tiềm năng và thế mạnh của nước ta
là có nhiều ngành nghề truyền thống từ lâu đời. Đó là những nghề: dệt tơ lụa,
gốm sứ, đúc đồng, sơn mài,… nằm rải rác ở tất cả các vùng miền trong cả
nước. Nhất là ở những khu vực đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống có nhiều
ngành nghề truyền thống mang những nét đặc trưng riêng như nghề dệt thổ
cẩm, nghề rèn, đúc đồng,… Ngành, nghề truyền thống có khả năng thu hút
nhiều lao động, tận dụng được lao động tại chỗ. Chính vì vậy, chính sách khôi
phục và phát triển các ngành, nghề truyền thống của Nhà nước sẽ góp phần
giải quyết việc làm cho nhiều người ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Và song hành
với chính sách trên là chính sách tạo thêm nhiều ngành nghề mới để tạo nhiều
việc làm mới cho người lao động, đưa nhiều khoa học kỹ thuật và công nghệ
vào trong sản xuất để nâng cao năng suất, tăng giá trị hàng hóa.
c. Nhân tớ điều kiện cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
* Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng về kinh tế.

Nói đến cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế là nói đến các cơng trình
về giao thơng, thủy lợi, điện, nước, thông tin liên lạc,…Nếu kết cấu hạ tầng


16
kinh tế phát triển ở trình độ thấp kém sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tăng
trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng nguồn lao động. Từ
đó, gây khó khăn trong việc tạo việc làm cho lao động dân tộc thiểu số.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã cố gắng nâng cấp mạng lưới
giao thơng, đặc biệt là ở vùng núi phía Bắc, các đường huyện, liên xã, được
mở mang, hệ thống đường sắt được khôi phục và phát triển. Nhiều đoạn sông
được nạo vét, khai thác để phục vụ cho sản xuất và lưu thơng hàng hóa, ngồi
ra cịn có các tuyến đường thủy nhỏ nội tỉnh. Các phương tiện vận tải cũng
dần được mở rộng và phát triển cả về cơ giới lẫn thơ sơ.
Do địa hình ở một số nơi có các dân tộc ít người sinh sống rất phức tập
và hiểm trở nên hệ thống giao thông vận tải đóng một vài trị rất quan trọng.
Ở một số vùng hẻo lánh ở miền núi phía Bắc cịn có gần 30% số xã chưa có
đường ơtơ đến trung tâm. Những xã có đường cũng khơng hẳn sử dụng được
cả 4 mùa trong năm.
Các tộc người thiểu số nước ta có trình độ kinh tế khơng đều, có người
đã biết định canh định cư, có tộc người đã định cư, nhưng cịn du canh; có tộc
người đã biết canh tác lúa nước đồng bằng châu thổ, có tộc người canh tác lúa
nước thung lũng, phần lớn canh tác lúa nương, có tộc người sống chủ yếu dựa
vào kinh tế tự nhiên. Tính đa cấp về trình độ nêu trên đặt ra những khó khăn,
thách thức trong tạo việc làm cho lao động dân tộc thiểu số. Với những trình
độ hiện có của lao động dân tộc ít người cần có những hình thức và phương
pháp đào tạo thích hợp.
* Kết cấu hạ tầng xã hội
Giáo dục đào tạo: Thúc đẩy quá trình con người tích lũy kiến thức, kỹ
năng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội. Quá trình đào tạo làm

biến đổi lực lượng lao động cả về số lượng, chất lượng và quy mô khơi dậy và
phát huy tiềm năng con người. Đầu tư vào giáo dục là biện pháp quan trọng
để tạo dựng nguồn vốn con người và phát triển nền kinh tế tri thức. Đối với


17
mỗi cá nhân giáo dục có tác dụng mở rộng khả năng nhận thức, tạo dựng cho
mọi người có cuộc sống lành mạnh, đầy đủ về vật chất. Vì vậy, giáo dục đào
tạo, đặc biệt là các cơ sở đào tạo và dạy nghề đối với các tỉnh có dân tộc ít
người sinh sống có ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao chất lượng lao động, giải
quyết được một bộ phận lớn lao động chưa có việc làm, cải thiện được kinh tế
cho các hộ gia đình, hỗ trợ các tỉnh thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp,
nâng tỷ trọng trong ngành công nghiệp và dịch vụ.
Các cơ sở y tế, chăm sóc sức khỏe: Đói nghèo và bệnh tật là những yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp đến trí lực, thể lực và tinh thần của nguồn lao động dân
tộc thiểu số. Do khí hậu nóng ẩm, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thêm vào đó
cơng tác phịng chống bệnh cịn hạn chế, nên cả trẻ em và người lớn ở các
Tỉnh miền núi phía Bắc thường mắc nhiều bệnh tật, lại thiếu những kiến thức
cần thiết về phòng dịch bệnh nên nhiều nơi vẫn cịn tình trạng người ở chung
với gia súc, gia cầm. Trong vấn đề ăn uống đồng bào chưa quan tâm đến
nguồn nước sạch cần cho sinh hoạt nên càng đẩy dịch bệnh gia tăng. Theo kết
quả điều tra y tế quốc gia, tỷ lệ người dân tộc thiểu số ốm đau khơng đi khám
chữa bệnh cao hơn nhóm người Kinh. Ngồi ra, tỷ lệ xã có trạm y tế ở những
nơi có người dân tộc ít người cư trú rất ít, như Cao Bằng chưa đến được 45%.
Các huyện đều có bệnh viện song thiết bị đã cũ và lạc hậu, đội ngũ y, bác sỹ
và nhân viên phục vụ ở đây trình độ cịn hạn chế, lại ít có điều kiện bồi dưỡng
hoặc không được bồi dưỡng để nâng cao trình độ chun mơn. Đây là những
rào cản trực tiếp đối với sự phát triển thể lực, trí lực và tinh thần cho lao động
dân tộc thiểu số, không chỉ trước mắt mà còn để lại những di chứng cho thế

hệ sau. Vì vậy, các cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe có ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng nguồn lao động dân tộc thiểu số. Nếu vấn đề này không được quan
tâm và đầu tư đúng mức sẽ gây khó khăn cho cơng tác tạo việc làm cho lao
động dân tộc ít người.


18
d. Nhân tố về số lượng và chất lượng lao động dân tộc thiểu số
Số lượng lao động dân tộc thiểu sớ, Các tộc người có dân số phát triển
khơng đồng đều, có dân tộc có dân số khá, có dân tộc có dân số trung bình, có
dân tộc có dân số ít. Điều này đặt ra phát triển lực lượng lao động dân tộc
thiểu số ở mỗi vùng; một mặt, phải đảm bảo bình đẳng giữa khơng chỉ giữa
dân tộc Kinh với các dân tộc thiểu số, mà cả giữa các dân tộc thiểu số này với
dân tộc thiểu số khác; mặt khác phải lựa chọn một dân tộc chủ thể của vùng
trong tạo dựng nguồn nhân lực tinh hoa (trí thức, cán bộ, doanh nhân) mang
tính đại diện. Theo số liệu thống kê, ở vùng núi phía Bắc, nhân khẩu trong độ
tuổi lao động chiếm khoảng 46,6% tổng dân số tồn vùng, tập trung chủ yếu
trong nơng nghiệp và nông thôn, nhất là trồng trọt, mà độc canh cây lương
thực là chủ yếu. Vì vậy, việc tăng hay giảm số lượng lao động dân tộc thiếu số
cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc giải quyết việc làm cho họ.
Chất lượng lao động dân tộc thiểu số, lao động dân tộc thiểu số chủ
yếu là lao động giản đơn do trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. Theo số
liệu thống kê, ở miền núi phía Bắc, số người có trình độ đại học, cao đẳng chỉ
chiếm 1,2% dân số của vùng (cả nước là 2,1%); tỷ lệ lao động kỹ thuật chỉ có
5%, mà chủ yếu là giáo viên và bác sĩ (cả nước là 12%). Điều này gây khơng
ít khó khăn trong cơng tác tạo việc làm cho lao động dân tộc thiểu số. Bởi sự
nghiệp cơng nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn
trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi
nguồn nhân lực không chỉ đọc thông viết thạo, mà quan trọng phải có đủ trình
độ nắm bắt khoa học-cơng nghệ để tiến quân vào nền kinh tế tri thức, phát

triển nông thôn mới, nâng cao mức sống của người dân. Với chất lượng lao
động cịn ở trình độ thấp, lao động dân tộc thiểu số rất khó tìm được việc làm
phù hợp với khả năng và có thu nhập cao. Vì vậy, chất lượng lao động cũng là
một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến giải quyết việc làm cho lao động dân tộc
thiểu số.


19
e. Nhân tố phong tục, tập quán truyền thống
Phong tục, tập quán truyền thống của các dân tộc rất phong phú, đa
dạng. Có cả những yếu tố truyền thống ảnh hưởng tốt và những yếu tố ảnh
hưởng xấu đến quá trình tạo việc làm cho lao động dân tộc thiểu số.
Những ́u tớ ảnh hưởng tích cực: Đồng bào các dân tộc thiểu số có
truyền thống chịu thương chịu khó, cần cù trong lao động, có kinh nghiệm
khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên rừng và đất đồi núi dốc;
Mặt khác, đồng bào các dân tộc có nhiều mặt hàng truyền thống như là nghề
đúc, rèn, đan lát, đặc biệt la ngành dệt thổ cẩm,… có thể phát triển thành
những hàng hóa có giá trị kinh tế cao.
Những yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực: Đồng bào các dân tộc thiếu số có
thói quen sản xuất tự cấp, tự túc, chưa có tư duy kinh tế thị trường, lại thêm
tập quán canh tác một vụ. Đa số đồng bào chỉ tập trung sản xuất từ tháng 3
đến tháng 10 (âm lịch), còn từ tháng 11 đến tháng 2 (âm lịch) đất bị bỏ hoang,
làm giảm sản lượng các sản phẩm; Tập quán du canh, du cư của một số dân
tộc ít người ở vùng cao đã dẫn đến những tác hại rất lớn. Vì nhu cầu lương
thực, nên ngoài cây lúa nước, họ ra sức phá rừng để trồng cây lúa nương, lúa
cạn, ngô, khoai, sắn,… Họ chỉ biết gieo trồng, khơng có thói quen ni dưỡng
chăm bón. Do vậy, khi đất đã bị rửa trơi, bạc màu (thường là sau 3 vụ sử
dụng), họ lại chuyển đến nơi khác để phá rừng đầu nguồn. Rừng càng già thì
đất càng tốt. Phá rừng già, rừng đầu nguồn, đó là đối tượng chính của du
canh, du cư. Do đó, kinh tế của đồng bào các dân tộc rơi vào vịng “luẩn

quẩn”: càng đói, đồng bào càng phá rừng, môi trường sinh thái càng bị hủy
hoại, đồng bào càng bị nghèo đói và càng phá rừng…; Sự cố kết trong cộng
đồng (gia đình, dịng họ, làng bản) đã tạo ra sự khép kín trong đời sống kinh
tế, kĩm hãm sự phát triển của các quan hệ xã hội; Tập quán thả “rông” gia súc,
gia cầm vừa làm mất nguồn phân bón hữu cơ cho cây trồng, vừa phá hoại, cản
trở sản xuất; Các tệ nạn tảo hôn, ly hôn, ma chay, cúng bái, mê tín dị đoan,


20
hội hè kéo dài,… là những tập tục mang tính phổ biến, đã kìm hãm sự tăng
trưởng kinh tế và là một trong những nguyên nhân của sự đói nghèo, thấp
kém về đời sống kinh tế và tinh thần của đồng bào trong vùng.
1.1.2. Giải quyết việc làm
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc
làm và tăng được thu nhập phù hợp với khả năng và lợi ích của bản thân, gia
đình, cộng đồng và xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm huy động tối đa tiềm năng của
con người tham gia vào q trình lao động sản xuất. Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng vì đã tạo cơ hội cho người lao động thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình, trong đó có quyền cơ bản nhất làm quyền được làm việc để ni
sống bản thân và gia đình, góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Và như thế giải quyết việc làm có thể hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Điều này phụ
thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - kĩ thuật áp dụng trong sản xuất và
khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó.
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động
phụ thuộc vào quy mô, tốc dộ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động
và sự di chuyển của lao động; chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển
của kinh tế, giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khỏe

cộng đồng.
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu
quả cao; các giải pháp về tổ chức, quản lý thị trường, nhân sự, kĩ thuật…
nhằm nâng cao hiệu quả của việc làm.
Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động
gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Giải quyết
việc làm cần phải được xem xét ở cả phía người lao động, người sử dụng lao
động và vai trò của nhà nước.


21
Vì vậy “giải quyết việc làm là tổng thể các biệt pháp, chính sách
kinh tế, xã hội từ vi mơ đến vĩ mơ tác động đến người lao động có thể có
việc làm” [19, tr.18].
Như vậy, tham gia vào quá trình giải quyết việc làm sẽ có nhiều thành
phần: Nhà nước, các doanh nghiệp, các đoàn thể và từng bản thân người lao
động trong toàn xã hội. Với quan niệm như vậy, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm đến việc chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực với con người
Việt Nam, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay. Hiện nay,
giải quyết việc làm là một chính sách xã hội quan trọng và cấp bách. Nhà
nước ta cũng đã và đang đưa ra nhiều giải pháp nhằm tạo ra việc làm mới,
tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nhiệp, nông
thôn và vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Muốn vậy, các thành phần
kinh tế cần mở rộng các ngành, nghề, cơ sở sản xuất, dịch vụ, có khả năng sử
dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an tồn
vệ sinh lao động, phịng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao
động. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, đẩy mạnh phong
trao lập nghiệp của thanh niên va đào tạo lao động có nghề. Tổ chức chặt chẽ
hoạt động suất khẩu lao động và bảo vệ quyền lợi người lao động ở nước
ngoài. Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội va an ninh xã hội. Sớm

xây dựng và thực hiện chính sách xã hội đối với người lao động thất nghiệp.
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng cuộc sống, phát huy nguồn nhân
lực; vấn đề bức xúc đối với nước ta hiện nay là phải tính đến và giải quyết
đầy đủ các yếu tố cơ bản tác động đến vấn để này, đặc biệt là: vấn đề an toàn
việc làm, an tồn lương thực và an tồn mơi trường. Trong đó an tồn việc
làm và có việc làm ổn định, thường xuyên cho người lao động là yếu tố quan
trọng hàng đầu. Hiện nay nước ta đã chuyển đổi thành cơng từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta đã và đang tạo mọi điều kiện thuận lợi để hình


22
thành thị trường sức lao động trong nước đa dạng, đảm bảo chất lượng và hội
nhập với thị trường thế giới. Thực hiện và ngày càng phát huy dân chủ để
người lao động được làm chủ sức lao động của mình, tự do tìm kiếm việc làm
theo năng lực của mình ở mọi lúc mọi nơi,… Người sử dụng lao động ở các loại
hình doanh nghiệp khác nhau cũng được tự do thuê mướn lao động theo số
lượng, chất lượng, theo nhu cầu sản xuất kinh doanh mà pháp luật cho phép.
1.1.2.2. Nội dung của giải quyết việc làm cho người lao động
a. Giải quyết việc làm là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các doanh
nghiệp và toàn xã hội.
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với
mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như nước ta. Do đối tượng giải quyết việc làm rất lớn, đa dạng, vì
vậy giải quyết việc làm là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các doanh
nghiệp và của toàn xã hội.
Giải quyết việc làm cho người lao động gắn với sự phát triển của thị
trường lao động, có tác động khơng chỉ đối với sự phát triển kinh tế, mà cịn
góp phần giải quyết một vấn đề cấp thiết và cơ bản là chuyển đổi cơ cấu lao
động đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế hiện nay. Đó là tiền đề quan

trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội; là yếu tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã
hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Ở
nước ta quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra
hàng loạt vấn đề bức xúc liên quan đến việc làm và chính sách giải quyết việc
làm. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi


23
thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền
vững”(Văn kiện Đại hội Đảng XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr.130, 192.). Nhận
thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương đường
lối thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động đáp ứng nhu cầu của quá trình
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm
tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nơng
thơn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước được thể hiện cụ thể ở một số nội
dung như:
Thứ nhất, Đảng đề ra chủ trương, đường lối và Nhà nước thực hiện các
chính sách, chương trình ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng như giao thơng,
trường học, bệnh viện và các cơng trình văn hóa; nơng nghiệp và nơng thơn;
nhà ở cho người có thu nhập thấp và nhà cho thuê, hỗ trợ các doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước đưa ra các chính sách để tiếp tục hồn

thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử
bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động như: thực hiện
đúng Luật lao động, Luật tiền lương tối thiểu, Luật bảo hiểm lao động, Luật
xuất khẩu lao động, Pháp lệnh đình cơng,…
Thứ ba, Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo cơng nhân
có trình độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hố đối với lao động trẻ,
khoẻ, nhất là ở khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng
điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động đang
có nhu cầu thu hút mạnh. Tập trung xử lý lao động dôi dư trong các doanh
nghiệp Nhà nước theo hướng chuyển đổi ngành nghề cho họ; khắc phục tình
trạng "đóng băng" trong đổi mới cơ cấu lao động làm ảnh hưởng tới sự phát


24
triển đa dạng và chiều sâu của nền kinh tế trong q trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; chuyển mạnh
các đơn vị sự nghiệp cung cấp các dịch vụ công sang đơn vị tự chủ, tự chịu
trách nhiệm và thực hiện chế độ hợp đồng lao động, để lao động khu vực này
có điều kiện tham gia vào thị trường lao động trong nước và ngoài nước, nâng
cao hiệu quả của lao động.
Thứ tư, Nhà nước thực hiện các chính sách mở rộng và nâng cấp hệ
thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp
nghề và cao đẳng nghề). Mở rộng đào tạo và đào tạo lại số lao động để có cơ
cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu địi
hỏi của thị trường lao động. Trong đào tạo và đào tạo lại, Nhà nước chỉ đạo
tiến hành chuyển sang đào tạo theo định hướng cầu lao động của thị trường
(đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất) tạo khả năng cung
cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khoẻ tốt, có kỹ thuật, tác
phong cơng nghiệp, có văn hố,... cho thị trường trong nước và thị trường
ngoài nước. Bởi việc nâng cao trình độ tri thức, trình độ kỹ thuật và tay nghề

cho người lao động đang là yêu cầu bức thiết ở nước ta hiện nay.
Thứ năm, Nhà nước thực hiện các chính sách đa dạng hố các loại hình
thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế; áp dụng
cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành thị trường phù hợp với
pháp luật. Thực hiện quy hoạch, đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề kỹ thuật
thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các trường dạy nghề
trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố Nhà nước chỉ đạo cần phải có
trường dạy nghề; các quận và huyện cũng cần có các trung tâm dạy nghề; cổ
phần hố các cơ sở dạy nghề cơng lập, phát triển cơ sở dạy nghề ngồi cơng
lập để giảm chi phí ngân sách cho Nhà nước. Đa dạng hố các kênh giao dịch
trên thị trường lao động thông qua các hệ thống thông tin, quảng cáo, trang tin
việc làm trên các báo, đài và tổ chức các hội chợ việc làm để tạo điều kiện


25
cho các quan hệ giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao
động ký kết các hợp đồng lao động theo đúng pháp luật quy định. Đồng thời,
Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc
gia và nối mạng trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn,
các khu vực công nghiệp tập trung và cho cả thị trường xuất khẩu lao động để
giúp người lao động tìm kiếm việc làm thuận lợi nhất.
Thứ sáu, Nhà nước thực hiện các chính sách mở rộng và phát triển thị
trường lao động ngồi nước. Đây là chính sách tận dụng một trong những thế
mạnh của lao động nước ta về số lượng đơng và trẻ. Vì vậy, Nhà nước triển
khai xây dựng các trung tâm, cơ sở tập trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho
lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông thôn, để tạo điều kiện cho họ tiếp
cận được với thị trường lao động của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với
những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu cầu thu hút lao động
cho các ngành nghề sản xuất.
Giải quyết việc làm cho người lao động không chỉ là trách nhiệm của

Nhà nước mà phát huy trách nhiệm của các doanh nghiệp trong tạo việc làm
cho người lao động là hướng đi đúng thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền
vững, giúp người lao động có cuộc sống ổn định. Bởi, doanh nghiệp có khả
năng thẩm định, lựa chọn cơng nghệ; có nguồn vốn, có tư cách pháp nhân huy
động vốn; có khả năng đầu tư ngay từ nguyên liệu đầu vào (cung cấp giống,
thiết bị hỗ trợ chuyển giao KH&CN cho người dân). Các doanh nghiệp còn có
khả năng đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến, nâng cao giá trị sản phẩm nhất
là sản phẩm nông nghiệp để xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao động , góp
phần thúc đẩy q trình CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, sự hỗ
trợ của các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường, tiêu thụ sản phẩm sẽ
là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả của q trình
chuyển giao cơng nghệ. Do có thị trường và có khả năng tiếp cận thị trường
một cách nhạy bén, doanh nghiệp giúp người lao động tiêu thụ sản phẩm và


×