Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Vấn đề con người trong triết học thời kỳ phục hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.35 KB, 86 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ thời cổ đại, con người đã tự khẳng định mình; đã có những suy
tư về thế giới, về nguồn gốc vạn vật, về chính bản thân con người một cách sâu
sắc thể hiện qua những thành tựu về triết học, thiên văn, địa lý, toán học, y
dược, sinh vật học và nhiều lĩnh vực khác. Các nhà triết học nổi tiếng thời kỳ
này là Talet, Milê, Xôcrát, Êpiquya, Protago…
Xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn, nhiều học giả đã nghiên cứu và phát
minh ra nền văn minh huy hoàng của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Họ bàng
hoàng và kinh ngạc trước những di sản văn hoá cổ đại. “Trong những cuốn
sách viết tay còn cứu vớt được sau khi nền văn minh Byzanxơ đã sụp đổ,
trong những pho tượng thời cổ đại khai quật được trong những đống hoang
tàn ở La Mã người ta thấy một thế giới mới lạ… đó là thời cổ đại Hy Lạp,
những hình thức chói lồ của nó đánh tan bóng ma thời trung cổ”. Sở dĩ
người Hy Lạp cổ xưa sáng tạo được một nền văn minh như vậy là do họ đã
sống trong một xã hội tự do, dân chủ; ở đó quyền sống, quyền làm người
được tôn trọng.
Ở Châu Âu trong các thế kỷ XIV-XVI, sau đêm trường trung cổ đã diễn
ra phong trào phục hưng văn hóa Hy Lạp, La Mã. Nhưng thật là sai lầm nếu
cho rằng, mục đích của phong trào văn hóa Phục hưng là nhằm khơi phục lại
những nền văn hóa cổ đại đó; cũng thật là sai lầm nếu nghĩ rằng phong trào
sôi động này chỉ mang ý nghĩa phục cổ đơn thuần. “Phục hưng” là “làm sống
lại”, “phục hưng lại” những truyền thống văn hóa tốt đẹp của Hy Lạp, La Mã
cổ đại mà thời kỳ trung cổ phong kiến và Nhà thờ đã cắt đứt; đồng thời phải
phát huy hơn nữa những truyền thống đó cho phù hợp với yêu cầu mới. Thời
đại Phục hưng là thời đại của “những con người khổng lồ,… khổng lồ về


2
năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình và tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm


nghề và về mặt học thức sâu rộng”.
Triết học thời kỳ Phục hưng có những tư tưởng mang đậm tính nhân
văn sâu sắc. Phong trào văn hóa Phục hưng đã nói lên nhu cầu, khát vọng của
con người mới, vạch rõ và biểu dương những khả năng và triển vọng của con
người mới, xã hội mới. Thời đại Phục hưng theo Ph.Ăngghen đánh giá, “là
một cuộc đảo lộn tiến bộ lớn nhất mà từ xưa tới nay, nhân loại đã trải qua”.
Vấn đề con người đã xuất hiện từ khi con người tự ý thức về bản thân
mình và vẫn đang được đề cập trên sách báo thế giới với tần số rất cao.
Dường như mỗi lần loài người đứng trước ngưỡng cửa một giai đoạn văn
minh mới (về vật chất và tinh thần) thì vấn đề con người lại được đặt ra bức
xúc, gay cấn với vô số những ý kiến khác nhau. Trong thời đại hiện nay, vẫn
đang nổi lên những câu hỏi liên quan đến quan hệ của con người với vũ trụ,
với thiên nhiên, những câu hỏi về sự tự nhận biết của chính con người, về
những triển vọng “tồn tại hay khơng tồn tại” của nó. Tất cả những điều đó gắn
liền với trình độ phát triển văn minh hiện đại và những hậu quả cũng như
những triển vọng do nó tạo ra, gắn liền với bước chuyển lớn lao nhất của lồi
người từ văn minh cơng nghiệp sang văn minh hậu công nghiệp, điện tử - tin
học, gắn liền với những thành tựu khoa học về con người và vũ trụ mà loài
người đã đạt tới.
Để thực hiện cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa, đổi mới hội nhập đất nước
thì khơng thể khơng xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Văn kiện Đại hội của Đảng, nổi bật
là văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: "Sự quan tâm đến con người và thái độ
tôn trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động
kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trong các dịch vụ phục vụ nhân dân". Đại hội
VII của Đảng cũng khẳng định: "Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất


3
với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con

người và vì con người"; "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mọi người, tơn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia". Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XI
nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là
chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân
dân. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức
làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có
văn hóa, tình nghĩa; có tinh thần quốc tế chân chính”.
Để qn triệt và thực hiện tốt chiến lược của Đảng nói trên về xây dựng
con người thì chúng ta cần tìm hiểu những tư tưởng triết học về con người
trong lịch sử; cần tìm hiểu những quan niệm về con người có ảnh hưởng sâu
sắc đến xã hội Việt Nam, trong đó có tư tưởng về con người trong triết học
thời kỳ Phục hưng. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, việc giảng dạy triết học
thời kỳ Phục hưng chưa được chú trọng. Những cơng trình nghiên cứu triết
học thời kỳ Phục hưng nói chung và quan niệm về con người trong thời kỳ
này nói riêng cịn ít. Điều này có nghĩa là chúng ta chưa khai thác hết những
giá trị nhiều mặt của triết học thời kỳ Phục hưng. Do vậy, tôi quyết định lựa
chọn: “Vấn đề con người trong triết học thời kỳ Phục hưng” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài “Vấn đề con người trong triết học thời kỳ Phục
hưng”, đã có một số cơng trình nghiên cứu như sau.
Giới thiệu bài “Triết học Phương Tây về con người và phát triển” (của
Nguyễn Đăng Tiến, Tạp chí nghiên cứu con người, số 6, 2007). Bài viết tập
trung vào việc trình bày sự lý giải của các trường phái triết học phương Tây


4
về con người. Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào thế kỷ VI trước Công

nguyên. Các trường phái triết học Hy Lạp giai đoạn này có nhiều quan điểm
khác nhau, song đều rất quan tâm đến bản chất, nguồn gốc của thế giới, vạn
vật và con người. Tiêu biểu như Pitago, Platon, Xơcrát,…Thời kỳ sau đó có
đặc điểm nổi bật là sự hình thành của một tơn giáo mới. Về cơ bản, hệ thống
quan điểm triết học của Cơ đốc giáo về con người tập trung nói về sự sáng tạo
ra thế giới của đức Chúa Trời, về tội tổ tông của con người, sự chuộc tội, sự
chăn dắt của Chúa đối với con người, sự phục sinh sau khi chết ở thế giới bên
kia. Hai tên tuổi mở đầu cho thời kỳ từ Phục hưng đến thời kỳ cận đại là Nicô-lai Kuzan và Nicolaus Copernicus (Ni-cô-lai Cơ-péc-ních). Kuzan là người
đầu tiên kịch liệt phê phán giáo lý thời trung cổ, mở đầu cho thời kỳ Phục
hưng. Con người - theo ông - là sản phẩm tối cao và tinh túy nhất trong sự
sáng tạo của Thượng đế - Con người (Deus - Human). Nối tiếp Kuzan, Cơpéc-ních đã làm đảo lộn hồn tồn nhận thức đương thời bằng thuyết nhật
tâm. Vào thế kỷ XIV - XV, các nhà nhân văn chủ nghĩa Ý đã làm đảo lộn vũ
trụ quan và nhân sinh quan của Kitô giáo: con người khơng lấy Thượng đế mà
lấy chính mình làm trung tâm và thước đo của tất cả mọi vật. Bước vào thế kỷ
XVI, những nhà tư tưởng tiến bộ mong muốn xây dựng một xã hội mới phồn
vinh, thịnh vượng, đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Tuy vẫn chỉ là
những quan niệm mang tính chất khơng tưởng nhưng những tư tưởng này đã
mang đậm tính chất nhân văn sâu sắc. Bài viết đã tổng hợp và khái qt lại
một cách cơ đọng sự hình thành và vận động của những tư tưởng triết học
phương Tây về con người. Bài viết trở thành một tư liệu đáng quý cho việc
nghiên cứu về con người.
Lịch sử triết học Phương Tây: Từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học
cổ điển Đức (của PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng, Nhà xất bản chính trị Quốc
gia- Sự thật, Hà Nội, 2012). Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày một


5
cách rất hệ thống về các giai đoạn lịch sử triết học với những tiền đề, điều
kiện, những tư tưởng cơ bản ứng với mỗi thời kỳ. Trong đó, nổi bật lên là tư
tưởng triết học của các nhà triết học tiêu biểu như Cơ-péc-ních, Brunơ, Galilê,

… Tác giả cuốn sách đã khẳng định rằng, sự hiểu biết về sức mạnh sáng tạo
và tự sáng tạo chính mình của con người là một trong những nét chủ yếu của
triết học thời kỳ Phục hưng. Hơn thế nữa, tác giả cũng nhấn mạnh rằng, trong
thời kỳ Phục hưng chủ nghĩa nhân văn trở thành phổ biến, phẩm giá và giá trị
của cá nhân được nhấn mạnh.
“Vị trí của nền thần học triết học Tây Âu thời Trung cổ” (của Phùng Thị
An Na, Tạp chí Triết học, số 6, 2010). Tác giả đã đưa ra những bình luận về việc
đánh giá các giai đoạn lịch sử, nhất là giai đoạn thời kỳ trung cổ. Tác giả cho
rằng, không nên coi triết học Tây Âu trung cổ là giai đoạn “thụt lùi” của lịch sử
tư duy nhân loại, cũng không phải là sự “đứt đoạn” của lịch sử, mà chính trong
giai đoạn này, nó đã hình thành cơ sở, nền móng cho sự phát triển của các giai
đoạn tiếp theo, cho dù triết học thời kỳ này bị xem là triết học kinh viện. Dù triết
học kinh viện đã sử dụng nền triết học duy tâm cổ đại để biện minh cho những
tín điều tơn giáo của mình, đã từng đối lập với khoa học và sự tiến bộ xã hội,
nhưng nền văn hóa phương Tây trung cổ vẫn là một nền văn hóa tinh thần có nội
dung và hình thức phong phú, được đánh dấu bởi những thành tựu độc đáo. Kitô
giáo đã từng là nguồn cảm hứng cho các tác phẩm kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc,
thi ca, tiểu thuyết. Trong các tác phẩm đó, nếu tước bỏ đi phần liên quan đến
Kitơ giáo thì gần như chẳng cịn gì. Khơng phải ngẫu nhiên mà người ta lại thích
những tác phẩm văn học, nghệ thuật đề cập đến các vấn đề chủ quan, thần bí hơn
các tác phẩm khơ khan và thuần t lý tính, tư biện. Những đánh giá bình luận
của tác giả cũng góp phần đáng kể giúp con người nói chung và giới nghiên cứu
bình luận nói riêng có cách nhìn đúng đắn về các giai đoạn lịch sử. Điều đó góp
phần nâng cao nhận thức của con người.


6
Chủ nghĩa nhân văn dưới thời kỳ văn hóa Phục Hưng (của Đặng Thai
Mai, NXB Văn học, Hà Nội, 1978). Tác giả bài viết khẳng định rằng, câu
chuyện con người là một câu chuyện khá phức tạp. Đối với bản thân mình,

con người xưa nay vẫn là một hiện tượng bí mật, khó hiểu. Sống, thác, rủi,
may, cực khổ hay sung sướng là những vấn đề đặt ra mấy ngàn năm nay mà giờ
đây vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát. Khoa học về sinh lý, tâm lý con người
thành lập đến nay đã được bao lâu. Trình độ tri thức chúng ta về hai ngành học
đó hiện nay chưa đáng cho nhân loại tự hào. Hơn hai nghìn năm nay, Xôcrát đã
đề nghị với chúng ta: “Hãy tự biết lấy mình”. Nhưng từ bấy đến nay, ai đã thỏa
mãn được lời dặn của nhà đại triết học Hy Lạp? Trong thời kỳ Phục hưng, chủ
nghĩa nhân văn là một tư trào mạnh mẽ, dồi dào nhất trong các tư trào nhân văn
từ xưa cho đến đầu thế kỷ XX này, ở đó giá trị của con người đã được đề cao
trong sự khẳng định quyền và sức mạnh của chính mình.
Văn học phương Tây (của tập thể các tác giả Đặng Anh Đào, Hoàng
Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Văn
Chính, Phùng Văn Tửu. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999). Trong cuốn
sách, tập thể các tác giả đã làm nổi bật những giá trị sâu sắc của văn học thời
bấy giờ. Đó là tinh thần đề cao, quý trọng con người của chủ nghĩa nhân văn.
Văn học thời Phục hưng đã lên án những tín niệm áp chế cuộc sống vật chất lẫn
tinh thần của con người, từ thứ triết lý khổ hạnh đi ngược lại quyền sống tự
nhiên của con người của thơ ca thời trung cổ, đến nhân sinh quan phong kiến
phản động cho rằng sự cao quý hay thấp hèn của con người chính từ dịng máu,
đẳng cấp mà ra. Văn học Phục hưng đã kịch liệt phản bác những quan niệm,
triết lý sai lầm này song song với ca ngợi những gì thuộc về quyền sống tự
nhiên của con người, đặc biệt là quyền tự do cá nhân, qua hàng loạt tác phẩm
từ thơ ca của Ronsad (Pháp); truyện ngắn của Bôcaxiô (Ý); tiểu thuyết của
Rabơle (Pháp), Cervantes (Tây Ban Nha) đến kịch của Sêcxpia (Anh).


7
Lịch sử triết học (của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007). Trong cuốn sách này, tác giả trình
bày khá rõ những tiền đề, điều kiện cho sự ra đời những quan niệm triết

học về con người của các triết gia tiêu biểu như Cơ-péc-ních, Brunơ,
Galilê, Thơ-mas Mo-rơ,… Qua đó tác giả đã khái quát lên những đặc điểm
chủ yếu của triết học thời kỳ này. Thời kỳ Phục hưng có sự thay đổi căn
bản so với thời trung cổ. Thần học và tơn giáo mặc dù cịn ảnh hưởng lớn
tới lĩnh vực thế giới quan của con người, nhưng khơng đóng vai trò độc
quyền thống trị như trước nữa. Xu hướng tư tưởng thời kỳ này là đề cao
con người và vì con người. Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ này đã mang những
ý nghĩa rất là sâu sắc.
Quan niệm về con người trong triết học thời kỳ Khai sáng Pháp (Phạm
Thị Thu Hương, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2007). Trong luận văn của mình, tác giả cho
rằng, triết học khai sáng Pháp với những tư tưởng mang tư tưởng nhân bản đã
khẳng định giá trị cao quý của con người, sức mạnh sáng tạo vô hạn, ca ngợi
lý tính và lý tưởng cao đẹp của con người. Nó chống lại tư tưởng duy tâm tơn giáo là thuyết đề cao đến mức tuyệt đối hoá vai trò thần thánh, hạ thấp địa
vị và vai trò của con người. Nó địi hỏi con người phải được tự do, bình đẳng,
bác ái. Nó u cầu giải phóng cá nhân, nhấn mạnh ý chí, tài năng, đạo đức...
Những tư tưởng này đã được xuất hiện từ thời kỳ Phục hưng và phát triển
trong thời kỳ Khai sáng. Cho đến nay, những tư tưởng cao đẹp đó vẫn cịn
ngun giá trị.
Ngồi những cơng trình trên cịn nhiều cơng trình khác. Nhìn chung,
những cơng trình đã có liên quan đến đề tài luận văn, đã nêu nên một số tư
tưởng (trong đó có quan niệm về con người) của các triết gia, các nhà tư
tưởng văn hóa thời Phục hưng tiêu biểu là của Cơ-péc-ních, Brunơ, Galilê,


8
Bôcaxiô, Sêcxpia,…Tuy nhiên, quan niệm về con người vẫn chưa được trình
bày một cách hệ thống. Nếu nhìn tổng quát thì vấn đề con người trong lịch sử
triết học nói chung và triết học thời kỳ Phục hưng nói riêng đã được đề cập
trên nhiều bình diện với những khía cạnh tư tưởng khác nhau. Tuy nhiên để

đánh giá được đúng và đầy đủ hơn giá trị quan niệm về con người trong triết
học thời kỳ Phục hưng vẫn cần có thêm những chuyên luận đi sâu dưới góc
độ lịch sử tư tưởng. Do vậy, dựa trên những nguồn tài liệu của lịch sử triết
học, kế thừa các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, luận
văn này cố gắng trình bày một cách có hệ thống hơn quan niệm về con người
trong triết học thời kỳ Phục hưng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ quan niệm về con người trong triết học
thời kỳ Phục hưng; những giá trị tích cực và hạn chế của quan niệm về con
người của các nhà triết học ở thời kỳ Phục hưng.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích điều kiện lịch sử thời kỳ Phục hưng.
- Trình bày quan niệm về con người trong triết học thời kỳ Phục hưng
(về bản chất của con người, vị trí con người, số phận con người, tự do của con
người, vấn đề giải phóng con người) thông qua một số nhà triết học tiêu biểu.
- Phân tích giá trị và hạn chế của quan niệm về con người trong triết
học thời kỳ Phục hưng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm về vấn đề con người trong triết học
thời kỳ Phục hưng.
Phạm vi nghiên cứu: Khi trình bày quan niệm về con người trong triết học
thời kỳ Phục hưng, luận văn phân tích quan niệm của một số triết gia tiêu biểu
là: Brunơ, Cơ-péc-ních, Galilê, Thơ-mas Mo-rơ, Rabơle, Bơcaxiơ, Sêcxpia...


9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, về sự
vận dụng những quan điểm đó trong thời đại ngày nay.

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được sử dụng các phương pháp
lơgic- lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch…
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa quan niệm về con người trong triết học
thời kỳ Phục hưng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ những giá trị của chủ nghĩa nhân văn.
Đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu, giảng dạy triết học.
8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.


10
Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC THỜI KỲ PHỤC HƯNG
1.1. Điều kiện kinh tế và xã hội thời kỳ Phục hưng
Thuật ngữ Rinascenza (tái sinh) được nhà sử học Giorgio Vasari dùng
ban đầu vào năm 1550 để chỉ sự hồi sinh và phát triển rực rỡ các hoạt động
nghệ thuật và khoa học bắt đầu tại Ý vào thế kỷ XIII. Sau đó, thuật
ngữ Renaissance được Jules Michelet dùng trong tiếng Pháp và nhà sử
học Thụy Sĩ Jacob Burckhardt phát triển (khoảng những năm 1860). Tái
sinh ở đây có hai nghĩa: một là sự khám phá lại các sách vở cổ điển và đem
ứng dụng vào trong khoa học và nghệ thuật; hai là để chỉ kết quả của các hoạt
động văn hóa đó mang lại sự hồi sinh cho văn hóa Châu Âu nói chung. Như
vậy, Phục hưng có thể hiểu theo hai cách chính, tuy khác biệt nhưng đều có ý
nghĩa là sự tái sinh của nền giáo dục cổ điển Tây phương thông qua sách vở,
tài liệu kinh điển của phương Tây và hồi sinh của văn hóa Châu Âu nói

chung. Thời kỳ Phục hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ
này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ cổ đại. Chủ nghĩa nhân văn chính là
phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ,
nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn
học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học...).
Như vậy, có thể nói Phục hưng là một phong trào văn hóa diễn ra ở
Châu Âu từ cuối thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XVI, bắt đầu ở Florence cuối thời
kỳ Trung cổ và lan rộng khắp Châu Âu. Đây là thời kỳ mà dưới ảnh hưởng của
sự cải tạo tư tưởng, xã hội phương Tây đã thoát ly hẳn khỏi “cái bầu trời ảm
đạm của đêm trường Trung cổ”; và như được một luồng sinh khí mầu nhiệm
vừa được thổi vào trong mạch máu, bộ mặt Châu Âu bỗng trẻ trung, hồng hào


11
lại, từ ấy ngày càng tiến bộ và đã có cơ vượt hẳn các dân tộc khác để làm bá
chủ thế giới suốt mấy thế kỷ ròng về tất cả các phương diện kinh tế- chính trịvăn hóa…
Ở Tây Âu bắt đầu từ thế kỷ XV, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ
và các đạo luật hà khắc bước vào thời kỳ tan rã. Thời kỳ Phục hưng (diễn ra
trong hai thế kỷ XV- XVI ở Tây Âu) là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ từ
phong kiến sang thời cận đại tư bản chủ nghĩa. Đây là thời kỳ mà Châu Âu
thực hiện cuộc cách mạng to lớn, thay đổi về chất trong phương thức sản xuất.
Nền sản xuất nhỏ manh mún, lạc hậu, năng suất thấp dưới chế độ phong kiến
được thay thế bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính cơng
nghiệp hiện đại, năng suất lao động cao. Nhận xét về thời đại này, Ph.Ăngghen
viết: “Khoa học tự nhiên cận đại, cũng như toàn bộ lịch sử cận đại, bắt đầu từ
thời kỳ cường thịnh mà người Đức chúng ta gọi là thời kỳ cải cách tơn giáo- vì
đấy là một tai họa của dân tộc đã xảy đến với chúng ta trong thời gian đó- mà
người Pháp gọi là thời kỳ Phục hưng và người Italia gọi là Cinquecentô, tuy
rằng các danh từ đó chưa có một danh từ nào nói được đầy đủ hết ý nghĩa. Đó
là thời đại bắt đầu từ nửa cuối của thế kỷ XV. Chính quyền nhà vua, dựa vào

bọn tư sản thành thị, đã đập tan thế lực của giai cấp quý tộc phong kiến và đã
lập ra những nước quân chủ lớn chủ yếu dựa trên dân tộc tính, trong khn khổ
các nước quân chủ đó, các quốc gia Châu Âu cận đại và xã hội tư sản cận đại
đều đã phát triển; và trong khi giai cấp tư sản và giai cấp q tộc cịn đương đối
chọi với nhau, thì cuộc chiến tranh nông dân ở Đức đã báo trước những cuộc
đấu tranh giai cấp sau này bằng cách đưa lên vũ đài không những là những
người nông dân khởi nghĩa mà thơi- điều này khơng cịn phải là mới lạ nữa- mà
đằng sau họ còn là những người báo hiệu cho giai cấp vô sản hiện đại, tay cầm
cờ đỏ, miệng địi quyền cơng hữu tài sản”; “Đó là một cuộc đảo lộn tiến bộ lớn
nhất mà từ xưa tới nay, nhân loại đã trải qua” [19, tr.459- 460]. Cuộc đảo lộn


12
tiến bộ đó của thời kỳ Phục hưng đã diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị xã hội, tôn giáo, tư tưởng khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật…
1.1.1. Điều kiện kinh tế
- Về thương nghiệp
Sau sự kiện Cơngxtăngtinốp bị Thổ Nhĩ Kì chiếm đóng (1453) cắt đứt
đường giao thông buôn bán giữa Tây và Đơng, các nước phương Tây bèn lao
đi tìm những con đường buôn bán mới. Những phát kiến địa lý (như việc tìm
ra Châu Mỹ và các đường biển đến những miền đất mới…) đã tạo điều kiện
phát triển nền sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó, thương
mại, thị trường trao đổi hàng hóa giữa các nước được mở rộng. Các cuộc giao
du Đông- Tây được tăng cường. Các nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển
(như Anh, Pháp, Tây Ban Nha…) thi nhau xâm chiếm thuộc địa, khai thác tài
nguyên thiên nhiên của các nước kém phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hóa của mình. “Giờ đây lần đầu tiên người ta đã thấy sự phát hiện ra
trái đất và đặt nền móng cho buôn bán quốc tế sau này và…đại công nghiệp
hiện đại” [19, tr.459].
Việc tìm ra Châu Mĩ và đường hàng hải quanh Châu Phi đã tạo ra cho

giai cấp tư sản đang lên một trường hoạt động mới. Thị trường Ấn Độ và
Trung Hoa, việc chiếm Châu Mĩ làm thuộc địa, việc buôn bán với các thuộc
địa, việc tăng thêm một số phương tiện trao đổi và số lượng hàng hóa; những
cái ấy nói chung đã đem lại cho thương nghiệp, hàng hải, cơng nghiệp một đà
phát triển chưa từng có; đã làm cho yếu tố cách mạng phát triển nhanh chóng
trong lịng xã hội phong kiến đang suy tàn. Phương thức kinh doanh phong
kiến hay phường hội trước kia không cịn có thể thỏa mãn được nhu cầu đang
lên theo sự mở mang nhiều thị trường mới. Từ sau khi những con đường biển
mới được phát hiện và việc buôn bán giờ đây chuyển hướng ra các đại dương
là chính thì các đơ thị ven biển trở thành những điểm kinh tế tấp nập chưa từng


13
thấy. Đó là: Vơnizơ, Giênơ (Italia), Bacxơlơna (Tây Ban Nha), Lixbon (Bồ Đào
Nha), Ln Đơn (Anh)… Chính trong các đơ thị này, đã xuất hiện những tổ
chức kinh tế mới. Ở Anven, “Sở giao dịch” được thành lập, trước cửa có tấm
khẩu hiệu: “Vì lợi ích của thương nhân các dân tộc và các chủng tộc”. Hầu hết
các việc trao đổi, mua bán đều thông qua sở giao dịch này. Ở Amxtecđam, rồi ở
Luân Đôn cũng lần lượt xuất hiện kiểu tổ chức này. Ở Ln Đơn, nó mang tên
gọi là “Sở hối đối hồng gia”. Các ngân hàng lần lượt được xây dựng ở
Giênơ, Vơnizơ, ở Amxtecđam và ngày càng cải tiến thể thức gửi tiền, rút tiền.
Chữ số Arập thay thế chữ số La Mã trong việc tính tốn.
- Về cơng nghiệp
Thời kỳ này xuất hiện nhiều cơng trường thủ công, ban đầu ở các nước
ven Địa Trung Hải, nhất là ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước
khác. Thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển là nền sản xuất công
trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn. Nhiều cơng cụ lao động
được cải tiến và hồn thiện nhằm thúc đẩy sản xuất. Việc sáng chế ra máy tự
kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, cơng nghệ ấn lốt đặc biệt phát
triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp

cho con người thời kỳ này sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng
năng suất lao động.
- Về nông nghiệp
Nông nghiệp cũng có những chuyển biến đáng kể. Địa tơ bằng tiền
được áp dụng ở một số vùng. Xung quanh một số đô thị đã xuất hiện lối kinh
doanh nông nghiệp mới. Ở Hà Lan nghề trồng cây ăn quả và trồng hoa thu
được nhiều lãi đã khiến nhiều người trước kia chuyên sản xuất lúa giờ đây
chuyển hướng sang trồng hoa, lê, táo… Ở Anh, nhiều địa chủ chuyển sang
trồng cỏ để nuôi cừu. Một số cải tiến được đem ra áp dụng trong nông nghiệp.
Chế độ hưu canh được thay thế bằng chế độ luân canh. Một vài giống mới


14
được gieo trồng phổ biến như ngô, khoai tây. Kỹ thuật tưới và tiêu nước ở Hà
Lan được tổ chức khá hồn chỉnh…
Tóm lại, trong hoạt động kinh tế, một đà phát triển mới, mạnh mẽ
chưa từng thấy đã xuất hiện, đặc biệt là trong thương nghiệp và công kỹ
nghệ. Ở đây, đơ thị đóng vai trị chủ đạo. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu
xa gây nên những biến động to lớn trong đời sống chính trị, xã hội, tư tưởng,
văn hóa.
1.1.2. Điều kiện xã hội
Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội
Tây Âu thời kỳ này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản đã
xuất hiện (tầng lớp này gồm các chủ xưởng công trường thủ cơng, xưởng thợ,
chủ thuyền bn v.v.). Vai trị và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày
càng lớn.
Thương nhân khơng cịn là những thợ thủ cơng hay thương nhân phải
ăn nhờ ở đậu tại các thành bang như thời cổ đại; khơng cịn bị phong kiến và
tăng lữ miệt thị như ở thời phong kiến. Lúc này thương nhân, thợ thủ cơng,
tiểu tư sản trí thức đã thực sự vượt lên, tự khẳng định chính mình. Trí tuệ và

tiềm lực của giai cấp tư sản đã làm nên uy tín và giá trị riêng cho họ. Họ
khơng cịn phải lép mình nộp thuế, chịu sự “dạy bảo” của những “đấng bề
trên”. Trái lại, với những đóng góp cho ngân sách nhà nước, giai cấp tư sản
bắt đầu bước vào chính trường. Các triều đình Anh, Pháp dần dần phải thỏa
hiệp với tư sản để đảm bảo có được những nguồn tài chính duy trì cuộc sống
xa hoa. Do vương triều Bourbon của nước Pháp ăn chơi xa xỉ, ngân sách bội
chi, thâm hụt nặng nề nên Vua và Hoàng gia phải im hơi lặng tiếng, nhắm mắt
làm ngơ để Quốc hội- với phần lớn đại biểu là giai cấp tư sản- quyết định việc
triều chính. Italia, nơi từng ngự trị của Julius Cesar, nơi đế chế La Mã một
thời ngang dọc lừng lẫy, cũng là một trong những nơi đầu tiên trên thế giới


15
sinh ra cuộc cách mạng tư sản, thức tỉnh toàn Châu Âu ngắm nhìn mặt trời tự
do, vươn lên giành lấy thiên đường nơi trần thế. Sự bừng sinh mở ra và nền
văn minh chính thức bắt đầu. Cùng với những biến cố lịch sử khác, những sự
kiện trên cho thấy, bước sang thời kỳ Phục hưng và Cận đại, sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành một xu thế lịch sử khơng
gì có thể ngăn cản nổi. Sự quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản là
nền tảng thực tiễn xã hội của triết học Tây Âu thời Phục hưng và Cận đại.
Khi có tiềm lực kinh tế mạnh, các tầng lớp trên muốn có chính sách
kinh tế, pháp luật, bộ máy nhà nước cũng như các chế tài đảm bảo cho sự phát
triển ngày càng cao của họ. Mặt khác, vào những thế kỷ XV- XVI trong
không khí tưng bừng của giai đoạn hồi sinh, người Châu Âu tràn đầy khí thế
đứng lên giành tự do. Sự xuất hiện của máy móc, việc sử dụng năng lượng
mới dẫn đến sự phát triển chóng mặt của năng suất lao động. Những chiếc tàu
thủy hơi nước và những đoàn tàu hỏa lăn bánh trên đường ray đã biến Châu
Âu, nhất là nước Anh, trở thành công xưởng của thế giới. Với trí tuệ và hàng
loạt những phát minh, người ta sẵn sàng làm bất cứ thứ gì nếu người ta muốn.
Hiệu quả kinh tế được đặt lên hàng đầu. Thông thương buôn bán là số một.

Lợi nhuận kinh doanh là trên hết. Những cơ sở ấy khiến người ta nghĩ đến
những điều xa xơi, to lớn và hồn tồn có thật. Để thực hiện ước muốn, người
ta khơng chờ đến ngày mai khi khơng cịn sự sống nữa hay lúc được lên thiên
đường; người ta quyết tâm làm ngay lúc ấy, cho cuộc sống lúc bấy giờ và
được hiện thực hóa nơi trần thế. Những Thiên thần, Đức mẹ hay các Thánh
phải là những thiếu nữ, em bé, phụ nữ, đàn ông khỏe mạnh, sáng tươi và
quyến rũ! Vẻ đẹp ấy không nên ở mãi trong Kinh thánh, nhà thờ mà phải biểu
lộ ở trong cuộc sống trần tục này. Vẻ đẹp ấy phải có hương thơm, trắng trẻo,
khỏe mạnh! Phải ăn, ngủ, cảm nhận, xúc giác được! Phải là thứ mắt nhìn, tai
nghe, tay chạm, chân đi đến được. Người ta nhớ đến Chúa sau những vụ mùa


16
bội thu hay những chuyến tàu buôn dài ngày trên biển. Người ta cầu Chúa khi
muốn những cỗ máy mới được xuất hiện và có thêm những tính năng mới.
Tức là lúc ấy, Chúa có vai trị giúp người ta thư giãn, làm cho người ta nghĩ ra
và làm được thêm những cái mới mà thôi.
Hơn thế nữa, sự thành công của các cuộc cách mạng tư sản đã ngày càng
thổi bùng lên những khát khao giải phóng con người, cụ thể là thốt khỏi sự
kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe, vô nghĩa. Yêu cầu đặt ra là
nhà nước và Chúa Trời, tức là vua và giáo hội, phải để cho nhân dân được tự do
sản xuất, giảm thiểu các loại thuế. Tầng lớp tư sản cịn địi có nhiều quyền lực
hơn, dù đã có một vai trị nhất định trong Quốc hội.
Tóm lại, sự tăng trưởng về kinh tế dẫn tới sự hình thành một giai cấp
mới: giai cấp tư sản, một giai cấp chưa từng có trước đây. Đây là giai cấp
của những nhà bn, thương nhân và những chủ xí nghiệp với một hệ thống
những lợi ích thế tục và nhu cầu về tri thức. Họ đương nhiên tin rằng thu
nhập của họ là kết quả của công lao cá nhân và lao động vất vả, không giống
với sự kế thừa gia sản của giai cấp quý tộc truyền thống. Họ có những quan
điểm riêng của họ về một kiểu thế giới mà trong đó họ đang sống và họ trở

thành những tác nhân quan trọng của sự biến đổi trong nghệ thuật, trong
chính trị và trong kinh tế.
1.2. Điều kiện văn hóa, tư tưởng thời kỳ Phục hưng
1.2.1. Tư tưởng và văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại trong thời Phục hưng
Nói đến các tiền đề nhận thức của triết học Tây Âu thời kỳ này, trước
tiên, phải đề cập đến những thành tựu về tư tưởng và văn hóa Hy Lạp và La
Mã cổ đại. Các phát kiến khoa học của nhân loại thời cổ (như toán học của
Talét, Pitago, hình học của Ơclít, vật lý học của Ácsimét v.v.) được khôi phục
lại sau đêm trường trung cổ. Nếu như thời trung cổ, người ta đã Cơ đốc hóa,
xun tạc các tư tưởng vĩ đại của Arixtốt, Platơn…, thì sang thời Phục hưng


17
và cận đại, những tư tưởng đó được kế thừa và phát triển. Nicơlai Kuzan tự
coi mình là người theo chủ nghĩa Platôn, Bêcơn đặc biệt đề cao và tiếp thu tư
tưởng duy vật của Arixtốt và các triết gia cổ đại…
Hy Lạp cổ đại là miếng đất màu mỡ đối với sự phát triển của triết học.
TalexđơMilê là một trong bảy người hiền triết của toàn Hy Lạp, vừa là bác
học vừa là triết gia. Ơng có nhiều sáng tạo phát minh nổi tiếng mà ngày nay
vẫn còn giá trị. Ơng đã nói lên tiếng nói của trí tuệ con người, đả phá đầu óc
mê tín cho “thần là kẻ sáng tạo ra vạn vật”. Protago đã đưa triết học tiến lên
một bước với việc chuyển biến mục đích nghiên cứu của triết học, khơng tìm
cách giải thích vũ trụ nữa mà đi vào nghiên cứu đời sống xã hội, chính trị, con
người. Ơng cho rằng: Con người là thước đo của vạn vật, nếu nó cho rằng sự
vật tồn tại thì chúng tồn tại, nếu nó cho rằng sự vật khơng tồn tại thì chúng
khơng tồn tại.
Xơcrát được mệnh danh là “con người nguy hiểm”, bị buộc tội là vô
thần và xúi giục thế hệ trẻ coi thường pháp luật nhà nước, cuối cùng đã phải
uống thuốc độc chết trong nhà tù. Ông nổi tiếng với những câu nói: “Tơi biết
rằng tơi khơng biết gì hết”, “Anh hãy tự biết lấy anh”. Thái độ hồi nghi của

ơng đối với mọi vấn đề, mọi sự vật trong cuộc sống là cả một sự khẳng định vai
trị của trí tuệ con người. Êpiquya được C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá là
“người duy nhất trong thời cổ đại muốn đem lại ánh sáng cho trí tuệ con
người”. Ý nghĩa của những giá trị tư tưởng, văn hóa Hy Lạp, La Mã cổ đại đối
với xã hội Tây Âu thời kỳ này lớn tới mức người Pháp gọi là giai đoạn lịch sử
từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVI là thời Phục hưng- tức phục chế các di sản
văn hóa, tư tưởng thời cổ. Mặc dù tên gọi đó chưa thể hiện hoàn toàn đúng nội
dung của giai đoạn lịch sử này, nhưng nó đã trở thành quen thuộc đối với mọi
người. Có thể nói như Ph.Ăngghen: “khơng có cái cơ sở của nền văn minh Hy
Lạp và Đế chế La Mã thì khơng có Châu Âu hiện đại” [19, tr.254].


18
Thời đại Phục hưng được đánh dấu bằng một phong trào cải cách tôn
giáo rộng lớn, sôi động, xưa nay chưa từng thấy. Kết quả bước đầu là nền
“độc tài tinh thần của giáo hội bị phá vỡ”, đại bộ phận các dân tộc
Giécmanh đã bỏ thẳng giáo hội để theo đạo Tin lành, đồng thời trong các
dân tộc Latinh một thứ tư tưởng tự do phê bình hoạt bát, hấp thu của người
Ả rập và thấm nhuần thứ triết học Hy Lạp vừa mới phát hiện ra, càng ngày
càng ăn sâu vào tinh thần người ta và chuẩn bị cho chủ nghĩa duy vật thế kỉ
XVIII ra đời.
Đúng như Ph.Ăngghen đã nhận định, thời đại Phục hưng là “bước
ngoặt tiến bộ, vĩ đại nhất, từ trước đến bấy giờ lồi người chưa từng thấy”.
Bước ngoặt đó đã diễn ra, làm thay đổi mọi mặt kinh tế, chính trị-xã hội, tơn
giáo, tư tưởng và tinh thần. Chính trong bối cảnh đó, văn học nghệ thuật Phục
hưng đã nở hoa kết quả, một mùa hoa quả tốt đẹp hiếm có.
1.2.2. Kiến trúc thời Phục hưng
Trong những thành tựu về văn hóa tư tưởng thời kỳ Phục hưng, nổi bật
là kiến trúc. Vào thời kỳ Phục hưng, nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật tạo hình
chiếm vị trí tiên phong trong việc khẳng định đặc trưng của văn hoá. Con

người thời kỳ Phục hưng muốn thông qua nghệ thuật để tái tạo và làm chủ thế
giới vật chất xung quanh theo tiêu chuẩn của cái đẹp lý tưởng và hiện thực.
Trào lưu kiến trúc Phục hưng được khởi đầu bằng việc tẩy chay phong cách
kiến trúc Gothic và phục hưng lại di sản kiến trúc La Mã cổ đại. Bố cục cơng
trình rõ ràng, khúc triết, dựa trên cơ sở hệ thức cột cổ điển, dựa trên nguyên
tắc “cổ điển” là “chuẩn mực”, nó tái hiện một cách khoa học các giá trị chuẩn
mực của nghệ thuật tạo hình cổ đại.
Có thể nhận thấy kiến trúc Phục hưng khá gần gũi về đặc điểm với kiến
trúc cổ đại (bản thân các nghệ sĩ Phục hưng đã tin rằng họ làm lại kiến trúc cổ
đại: họ đã sao chép, nghiên cứu và cố gắng một cách có định hướng để đạt


19
được sự gần gũi với kiến trúc cổ). Kiến trúc Phục hưng nhấn mạnh đến những
nguyên tắc tổ hợp, tính quy luật, ổn định và sự hài hồ. Điều đó xuất phát từ
việc con người đã tin vào sức mạnh của mình (kiến trúc xã hội phong kiến đã
tạo nên cho cơng trình những ấn tượng bay bổng, khơng ổn định, kinh ngạc là
do con người không nắm được quy luật thiên nhiên và gửi gắm lòng tin vào
thần thánh).
Tuy có những nét tiến bộ nhất định, nhưng việc chú ý tuyệt đối đến quy
luật tổ hợp đã đưa kiến trúc văn nghệ Phục hưng đến chỗ hình thức chủ nghĩa
và thốt ly cơng năng. Về ngun tắc có thể phân biệt hai xu hướng khác nhau
trong kiến trúc Phục hưng. Một xu hướng hồi sinh các đường nét thời kỳ Cổ
đại một cách nghiêm khắc. Xu hướng thứ hai tuy cũng dựa vào thời kỳ Cổ đại
nhưng biến đổi hình dáng các yếu tố xây dựng tương tự như nghệ thuật xây
dựng thời trung cổ, không vươn đến một nghệ thuật xây dựng theo các định
luật một cách nghiêm ngặt.
Tại Ý, Donato Bramante đã đạt đến mục tiêu này trong đỉnh cao của
thời kỳ Phục hưng vào khoảng năm 1500 và từ đó chiếm lĩnh ưu thế trong
kiến trúc trên tồn nước Ý. Các cơng trình xây dựng phục hưng ở Ý được

phác thảo trong sáng và hài hòa cân đối. Trong sơ đồ mặt bằng, các kiến trúc
sư hướng về các hình dáng đơn giản lý tưởng trong hình học như hình vng
hay hình trịn. Các chi tiết kiến trúc như cột, trụ bổ tường, đầu cột, đầu hồi
tam giác,... đều trực tiếp dựa vào kiểu mẫu thời cổ đại. Bên cạnh đó là các
phát triển mới dẫn xuất từ khuôn mẫu của thời kỳ cổ đại. Tất cả các phần xây
dựng riêng lẻ đều phải được hòa hợp với nhau và với tồn bộ tịa nhà. Các
luận thuyết kiến trúc của nhà xây dựng nổi tiếng người La Mã Vitruvius được
tham khảo để tìm ra những tỷ lệ tương quan lý tưởng.
Theo các giai đoạn lịch sử thì kiến trúc Phục hưng được chia thành ba
thời kỳ: tiền kỳ, thịnh kỳ và hậu kỳ. Vào giai đoạn Phục hưng, hoạt động kiến


20
trúc sơi nổi nhất ở Florence vì đó là một thành phố thương nghiệp nằm ở miền
Bắc Italia với dân số khoảng 90 ngàn người. Tại đây, người ta có thể bắt gặp
những tịa lâu đài cổ, những ngơi nhà thờ, những viện bảo tàng đầy ắp những
bức tranh quý hiếm, cùng những bức tượng q giá. Những cơng trình kiến trúc
dày đặc và q giá khơng kém gì Rome hay Venice. Cũng dễ hiểu vì Florence là
quê hương của phong trào Phục hưng. Nó là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tự nhiên
cùng những cái tinh túy nhất trong nghệ thuật kiến trúc Phục hưng với tinh thần
của Leonardo da Vinci, Dante, Bôcaxiô, Michelangelo… Một trong những điểm
nhấn của Florence là kiến trúc nhà thờ với những mái nhọn đặc trưng của kiến
trúc Gothic và nghệ thuật Moorish. Công trình đáng chú ý nhất chính là nhà thờ
Duomo of Florence (Brunelleschi) được phủ bằng cẩm thạch. Đây là nhà thờ
rộng thứ 4 Châu Âu. Florence cũng là nơi tập trung những nhà thờ lớn nhất Italia
từ Duomo of Florence, San Lorenzo, Santa Maria Novella đến Santa Croce. Có
thể bắt gặp lối kiến trúc này ở bất cứ nơi nào tại Florence.
Thời Phục hưng bắt nguồn từ Florence không chỉ là niềm tự hào của người
Italia mà nó cịn đi vào lịch sử như giai đoạn phát triển nhất của văn hóa châu Âu.
Bức tượng 500 năm tuổi nổi tiếng David của Michelangelo cũng được đặt tại

Florence. Trong thời Phục hưng, Florence được chọn đặt những cơng trình kiến
trúc để đời từ cung điện đến các viện bảo tàng, gallery... Bảo tàng nổi tiếng nhất
Florence là Uffizi, nơi lưu giữ những tác phẩm vô giá của Botticelli, Leonardo da
Vinci, Michelangelo, Titian và Rubens, những người khổng lồ của văn hóa Ý.
Fillipo Brunelleschi (1377-1446) được coi là kiến trúc sư lớn nhất của
Florence, ơng là tác giả của nhiều cơng trình kiến trúc nổi tiếng như mái vòm
nhà thờ Santa Maria del Fiore, Dục Anh Viện, Nhà thờ S. Lorenzo, đền thờ
Pazzi,… Cơng trình đầu tiên đem lại vinh quang cho tên tuổi của Brunelleschi
và cũng chính là cơng trình mở đầu cho thời đại Phục hưng huy hồng chính
là vịm mái của nhà thờ Florence.


21

Nhà thờ Santa Maria del Fiore (Duomo) mang phong cách Gothic.
Khác với kiến trúc Gothic coi trọng kết cấu, kiến trúc thời kỳ này chỉ
chú ý đến tổ hợp công trình, như Dục Anh Viện và lâu đài Medici chẳng hạn.
Nếu như mái vòm nhà thờ Florence mở đầu cho thời kỳ Phục hưng, tiếp tục
hồn tất cơng trình dang dở của thời đại trước, thì cơng trình Dục Anh Viện ở
Florence của Brunelleschi được coi như cơng trình trọn vẹn đầu tiên được
thiết kế trong thời kỳ này. Đền thờ Pazzi do Brunelleschi thiết kế được xây
dựng trong những năm 1430-1433 cũng là một trong những cơng trình tiêu
biểu của thời kỳ này. Mặc dù cơng trình có quy mơ khơng lớn nhưng lại có tổ
chức khơng gian rất phong phú; cột, vòm và mái bán cầu được kết hợp trong
một tỷ lệ hài hoà cân xứng.

Đền thờ Pazzi


22

Có thể nói kiến trúc thời kỳ Phục hưng mang đậm nét tôn giáo, đặc biệt
là đạo Thiên Chúa. Những hiểu biết về giá trị con người, tôn vinh vai trị và vị
trí con người được khám phá và phát triển mạnh trong thời gian này.
1.2.3. Thiên văn học thời Phục hưng
Thiên văn học châu Âu thời Phục hưng chứng kiến cuộc cách mạng của
những tên tuổi lớn như Tycho Brahe, Cơ-péc-ních, Kepler, Galilê... Tuy nhiên,
trước đó phải nhắc đến Johannes Müller (còn gọi là Regiomontanus), người
đã dịch tác phẩm vĩ đại “Almagest” từ tiếng Ả rập và đưa ra những bình luận
có giá trị trong cuốn sách Epitome of the Almagest.
“Almagest” (nghĩa là “Bộ sưu tập vĩ đại”) là tiểu luận hay nhất về thiên
văn học của Ptolemy, trong đó Ptolemy đưa ra một danh mục gồm nhiều sao
do ông tự thống kê, ngoài ra là một danh mục đầu tiên đầy đủ về 48 chòm sao
Hi Lạp cổ đại mà ngày nay đó là 48 trong tổng số 88 chòm sao của thiên văn
học hiện đại. Cũng trong tác phẩm “Almagest”, Ptolemy đưa ra mơ hình của
mình về mơ hình vũ trụ địa tâm, trong đó sự chuyển động của các hành tinh
được xem như là diễn ra theo đồng luân, tức là chạy theo những đường tròn
và tâm của chúng theo chuyển động tròn. Chuyển động của các hành tinh theo
cách mô tả như vậy là rất phức tạp nhưng rất gần với chuyển động biểu kiến
của chúng xung quanh trái đất. Ý tưởng này chủ yếu là của Hiparchus nhưng
người ta thường gọi nó là hệ thống Ptolemy. Nói hệ thống Ptolemy có nghĩa ta
hiểu đó là sự hình dung về vũ trụ với trái đất nằm ở trung tâm, còn mặt trăng,
sao Thuỷ, sao Kim, mặt trời, sao Hoả, sao Thổ, sao Mộc và các định tinh thì
quay xung quanh. Hệ thống Ptolemy rất phức tạp và rối ren đến nỗi ngay bản
thân nhà bác học đã tự thú rằng "Tự mình làm chuyển động các hành tinh
cong dễ hơn là giải thích sự chuyển động của chúng". Song hệ thống đó đã
cho phép đốn trước vị trí của những hành tinh trên bầu trời. Mặc dù có
những sai lầm nhưng Ptolemy vẫn là một nhà bác học lớn của thời xưa. Về


23

sau hệ thống Ptolemy đã được Giáo hội Cơ đốc chấp nhận; nếu ai hồi nghi
tính chất thật của hệ thống đó thì sẽ bị Giáo hội Cơ đốc trừng phạt. Giáo hội
Cơ đốc đã chống lại mọi sự tự do tư tưởng. Hầu hết giám mục và tu sĩ đều thù
ghét khoa học.
1.2.4. Hội họa thời Phục hưng
Nền hội hoạ tiền Phục hưng của Ý (với những quan niệm mới của
Roger Bacon và phong cách nghệ thuật của Jacopo Torriti, Giotto) cùng với
nền điêu khắc và hội hoạ gothic của Pháp (với những bố cục cô đọng, giàu ý
nghĩa tượng trưng và giàu chất trữ tình) đã ảnh hưởng đến nhiều nền nghệ
thuật ở Châu Âu.

Giotto, Bích hoạ ở nhà thờ Santa Maria dell’Arena, Ý (1302-1305)
Các hoạ sĩ bắt đầu chú ý đến những chi tiết hiện thực của đời sống hàng
ngày. Những truyện tích khơng chỉ được miêu tả một cách mạnh mẽ và rõ
ràng, mà còn được minh hoạ bằng những cảnh đời thường sống động. Bắt đầu
từ đây, hoạ sĩ khơng cịn tự thoả mãn được với những tiểu xảo cho phép mình
trình bày những nhân vật trong các tích truyện một cách chung chung, rập
theo những khn mẫu cũ mịn, quen thuộc nữa, mà họ phải quan sát và thể
hiện một cách tỉ mỉ các hiện tượng thiên nhiên, cũng như các nhân vật, dựa
theo những mẫu người thật và vật thật.


24
Hội họa thời Phục hưng bắt đầu với thế kỷ XV, nhưng thực ra đã nẩy
mầm ngay từ thời tiền Phục hưng, với những bức bích hoạ đầu tiên do Giotto
thực hiện ở nhà thờ Santa Maria dell’Arena ở Padoue (1305), đem đến một
phong cách hoàn toàn mới mẻ và những ý tưởng nghệ thuật độc đáo, trùng
hợp với những ý tưởng đã được Roger Bacon đề xướng và thực hiện ở Assise
với Jacopo Torriti (1295).
Giotto là người hoạ sĩ đầu tiên đã đem lại một phong cách hội hoạ Kitô

giáo mới mẻ, tuy khác hẳn với phong cách byzantin, nhưng lại vẫn như có một
cái gì đó rất khoẻ mạnh trong nét vẽ, như trên các bức tranh thờ của thành phố
Byzance và các bức tiểu hoạ Kitô giáo ở phương Đông. Sau Giotto, người đã
mang đến một phong cách hội hoạ tôn giáo mới mẻ khác, hoạ sĩ tài hoa nhất là
Masaccio (1401-1428). Ơng có bức bích hoạ đầu tiên sử dụng phép vẽ phối
cảnh, đó là các tác phẩm mang tên "Tam vị Nhất thể, Đức Mẹ, Thánh Jean và
các nhà hảo tâm" (1425-1428) ở nhà thờ Santa Maria Novella, Firenze (Ý).

Fra Angelico: Lễ đăng quang Đức Mẹ Đồng Trinh

1485 Botticelli: Venus ra đời


25
Thời Phục hưng đã sản sinh ra nhiều tài năng hội hoạ ở hầu khắp mọi
nước Châu Âu, nhiều nhất là ở Ý (với Masaccio, Fra Angelico, Paolo Uccello,
Piero della Francesca, Filippo Lippi, Ghirlandaio, Botticelli, Pietro Purigino,
Raphael, Leonardo da Vinci, Michelangelo, v.v.); ở Hà Lan (với Jan van
Eyck, Van der Weyden, Petrus Christus, Hans Memling, Hugo Van der Goes,
Gerard David, và cả một trường phái được gọi là "trường phái nguyên khai
Flamand"); ở Pháp (với Jean Fouquet, Engerrand Quarton, và ba anh em
Limbourg); ở Đức (với Stefan Lochner, Albrecht Durer); B o Nha (vi
Nuno Gonỗalves, v.v.). Nhiu ngi ch hay nói đến nền hội hoạ "Phục hưng
Ý", nhưng thực ra cùng trong thời kỳ này, ở Châu Âu còn có ít nhất hai nền
hội hoạ khác quan trọng khơng kém về mặt nghệ thuật thuần tuý. Đó là nền
"hội hoạ nguyên khai Flamand" ở xứ Flandre, xưa kia thuộc Hà Lan, nay
thuộc Bỉ, mà tính chất hiện thực cịn vượt xa hơn cả nền hội hoạ phục hưng
Ý; và nền "hội hoạ quốc tế" chủ yếu đã phát triển ở Pháp và ở Anh, dưới dạng
các tranh tiểu hoạ, dựa trên truyền thống hội hoạ rômăng và gothic.


1495 Nuno Gonỗalves: Thỏnh Vincent

Jan van Eyck, Giovanni Arnolfini v phu nhõn (1434)


×