Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.06 KB, 103 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong đó có Viện kiểm sát là một địi hỏi có tính cấp bách của Đảng, nhà nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Trong những năm qua, công tác phịng, chớng,
kiểm sốt các vi phạm pháp luật và tội phạm đã đạt được những kết quả đáng
kể, do tính chất các vụ án hình sự tiếp tục diễn biến rất phức tạp, gia tăng vê
sớ vụ, vê tính chất nguy hiểm và hậu quả của nó ngày càng nghiêm trọng.
Trước sự gia tăng đến mức đáng lo ngại của các loại tội phạm, Đảng, Nhà
nước ta luôn quan tâm chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh nhằm ngăn chặn, từng
bước đẩy lùi các loại tội phạm. Các cơ quan chức năng đã ban hành một hệ
thống pháp luật làm cơ sở cho cuộc đấu tranh phịng, chớng tội phạm. Là một
cơ quan trong hệ thống các cơ quan tư pháp, VKSND được Đảng và Nhà
nước quan tâm định hướng đổi mới cả vê tổ chức và hoạt động nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng công tác kiểm sát.
Để khẳng định vị trí, vai trị của VKS, ngày 02/01/2002, Bộ chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 08 - NQ/TW vê một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tớ vụ
án và trong śt q trình tớ tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vơ tội...”. Nghị qút Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
IX nhấn mạnh: “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các
cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư
pháp trong công tác điêu tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không
để xảy ra những trường hợp oan, sai. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức
năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Các văn kiện của Đảng, Nhà
nước ta luôn luôn quan tâm, tạo mọi điêu kiện tốt nhất vê tổ chức, hoạt động



2
của VKS, bởi trong phạm vi chức năng của mình VKSND góp phần bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyên làm chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm mọi hành
vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyên, lợi ích hợp pháp của
công dân đêu phải được xử lý theo pháp luật.
ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự là một
trong những hoạt động nhằm thực hiện chức năng Hiến định của VKSND.
Hoạt động này đặc biệt quan trọng vì mục đích của nó nhằm đấu tranh phịng,
chớng tội phạm, áp dụng mọi biện pháp theo quy định của Bộ luật tớ tụng
hình sự để truy tớ hành vi phạm tội ra trước TAND để xét xử, đảm bảo đúng
quy định của pháp luật, nghiêm minh, kịp thời, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm. Xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của VKSND ở
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, THQCT trong giai đoạn
điêu tra các vụ án hình sự nói riêng. Từ u cầu của tiến trình cải cách tư pháp
do Đảng, Nhà nước đê ra; việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đê lý luận,
thực tiễn hoạt động ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình
sự, xác định rõ yêu cầu cũng như các điêu kiện bảo đảm việc ADPL là hết sức
cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả cơng
tác THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của VKSND hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, VKSND hai cấp tỉnh Hưng Yên đã thực hiện
tương đối tốt công tác THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự góp
phần tích cực vào đấu tranh phịng, chớng tội phạm, bảo vệ lợi ích của xã hội,
quyên tự do dân chủ của công dân. Tuy nhiên, do nhiêu nguyên nhân khách
quan, chủ quan việc ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình
sự của VKSND hai cấp tỉnh Hưng n cịn bộc lộ những hạn chế nhất định
như: nhiêu vụ án hình sự mới chỉ phát hiện, xử lý được đới tượng vận chuyển
thuê hoặc mua bán nhỏ lẻ mà chưa điêu tra được đối tượng chủ mưu, cầm
đầu; công tác điêu tra thu thập chứng cứ ở một số vụ án hình sự vẫn cịn



3
những tồn tại; có lúc, có nơi, có vụ việc công tác phối hợp giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng chưa chặt chẽ nên có nhiêu vụ án phải trả hồ sơ để điêu tra
bổ sung, có vụ do thiếu chứng cứ buộc tội dẫn tới phải đình chỉ điêu tra, cá
biệt có trường hợp bỏ lọt tội phạm… Những hạn chế đó đã ảnh hưởng nhất
định đến quá trình đấu tranh phịng, chớng tội phạm hình sự tại địa phương,
làm giảm niêm tin của nhân dân vào sự cơng minh của pháp luật..., vì vậy,
việc ADPL trong THQCT của VKSND hai cấp ở tỉnh Hưng Yên ở giai đoạn
điêu tra đới với các vụ án hình sự ln là vấn đê cần thiết được đặt ra trong
tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động, tiếp tục phát huy kết quả đạt được, khắc phục kịp thời các tồn tại, hạn
chế; đảm bảo việc áp dụng pháp luật một cách chính xác, cụ thể hóa được các
đường lới, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước
trong đấu tranh phịng, chớng các tội phạm hình sự, công tác kiểm sát đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và sự tin
tưởng của nhân dân.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên chọn đê tài: "Áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên” làm luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ Luật học chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và
Pháp luật tại Học viện chính trị - Hành chính Q́c gia Hồ Chí Minh. Đây
là đê tài cần phải giải quyết xuất phát từ những cấp thiết vê lý luận và thực
tiễn nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiêu đê tài khoa học, cơng trình nghiên
cứu vê ADPL, THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và các luận
án Tiến sỹ, Thạc sỹ.

Các cơng trình nghiên cứu vê áp dụng pháp luật đã được cơng bớ
như: Giáo trình Lý luận chung vê Nhà nước và Pháp luật của các Học viện,


4
các trường Đại học như Học viện Chính trị - Hành chính Q́c gia Hồ Chí
Minh, Đại học Q́c gia Hà Nội (khoa Luật), Đại học Luật Hà Nội v.v...
Các cơng trình, bài viết liên quan đến QCT, THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp như: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành
quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay”, do VKSNDTC thực hiện năm
1999; “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền
công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát hình
sự”, đê tài nghiên cứu cấp bộ, do tác giả Ngô Văn Đọn chủ biên năm 2004;
“Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự”, Nxb Đại học q́c gia Hà Nội năm 2006; “Quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, do Tiến sỹ Lê Hữu Thể chủ biên, năm
2008; Luận án tiến sỹ “Quyền công tố ở Việt Nam”, của nghiên cứu sinh Lê
Thị Tuyết Hoa thực hiện năm 2002; bài:“Chức năng công tố của Viện kiểm
sát nhân dân, mối quan hệ giữa việc thực hành quyền công tố với các hoạt
động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử” của tác giả Trần Đình Nhã thực hiện
năm 2001; bài: “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp” của tác giả Hà
Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2003; bài “Cơ quan
thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của tác
giả Đỗ Văn Đương, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, sớ 7/2006…
Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến các tội phạm trong các vụ án
hình sự cụ thể , ADPL trong THQCT như: “Hiểm họa ma túy và cuộc chiến
mới” của GS, TS Nguyễn Xuân Yêm, TS Trần Văn Luyện năm 2001; đê tài
khoa học cấp bộ: “Công tác kiểm sát điều tra án ma túy” của TS Dương
Thanh Biểu - Phó Viện trưởng VKSNDTC năm 2001; Luận án Tiến sĩ Luật

học “Hoàn thiện khung pháp luật hình sự đối với tội phạm ma túy” của tác
giả Nguyễn Minh Đức năm 2003; Luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp luật
trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án ma túy ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Bùi Mạnh Cường năm 2007; Luận văn thạc sỹ “Áp dụng pháp


5
luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, của tác giả Trịnh Duy Tám, năm 2005;
Luận văn Thạc sỹ “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Viện
kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Lê Văn Đông, năm 2008;
Luận văn Thạc sỹ “Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với tội phạm về tham nhũng
ở Thanh Hoá”, của Lê Xuân Tiến, năm 2008; Luận văn thạc sỹ “Áp dụng
pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa” của tác
giả Lê Đức Tùng, năm 2011.
Ngồi ra, cịn có nhiêu bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành
như Tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tịa án, tạp chí Cơng an nhân dân, tạp chí Luật
học và các chuyên đê nghiệp vụ như: “Tổng hợp kinh nghiệm thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự lớn” của
Vụ 2 VKSNDTC năm 2004; “Tởng hợp kinh nghiệm trong công tác thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự” năm 2007; “Kinh nghiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án về tội phạm” do Tạp chí kiểm sát phới hợp với vụ 1C VKSNDTC
thực hiện tháng 10/2011.
Các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đã đê cập đến những khía
cạnh khác nhau của THQCT, ADPL, kiểm sát hoạt động tư pháp, các vấn đê
vê tội phạm…có nhiêu giá trị để tham khảo. Song chưa có cơng trình nào

nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thớng vê mặt lý luận và thực tiễn góc độ
ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự của VKSND tỉnh
Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Đê xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác này trong thời gian tới.


6
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ
sau đây:
+ Phân tích cơ sở lý luận vê ADPL, ADPL trong THQCT ở giai đoạn
điêu tra các vụ án hình sự, tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, quy trình và
các ́u tớ đảm bảo việc ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích, đánh giá thực trạng ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu
tra các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Hưng Yên, rút ra các nguyên nhân
khách quan, chủ quan của những ưu điểm, hạn chế.
- Phân tích làm rõ yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng
ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra của VKSND; đê xuất các giải pháp
cụ thể nhằm đảm bảo việc ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án
hình sự của VKSND tỉnh Hưng Yên nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đê lý luận và thực
tiễn ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự của VKSND
tỉnh Hưng Yên, với phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:
- Giới hạn về không gian và thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu
những vấn đê lý luận và thực tiễn vê ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra
các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Hưng Yên từ năm 2007 đến năm 2011.

- Giới hạn về giai đoạn tố tụng: Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn
đê lý luận, thực tiễn vê ADPL trong THQCT của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hưng Yên ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự. Cụ thể là từ khi khởi tớ vụ
án hình sự đến khi VKSND ra qút định truy tớ hoặc đình chỉ vụ án theo quy
định của pháp luật.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vê Nhà nước và


7
Pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vê
đổi mới toàn diện đất nước nói chung, vê cải cách tư pháp nói riêng, chính
sách pháp luật của nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực hình sự, tớ tụng hình sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của triết học Mác - Lênin và các khoa học chuyên ngành khác,
trong đó đặc biệt chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thớng kê, so
sánh, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn...
6. Ý nghĩa khoa học và đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đê lý luận, thực tiễn vê ADPL trong
THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Hưng Yên,
luận văn kiến nghị, đê xuất một sớ giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động công tác kiểm sát, đảm bảo việc ADPL trong lĩnh
vực hoạt động này của VKSND nói chung và của VKSND các cấp tỉnh Hưng
Yên nói riêng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Vì vậy,
kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Điêu tra
viên, KSV các cấp, nhất là những KSV trực tiếp làm công tác THQCT ở giai
đoạn điêu tra nghiên cứu vận dụng trong thực tiễn công tác để nâng cao hơn
nữa chất lượng hiệu quả hoạt động này, bên cạnh đó luận văn cũng có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy của các

cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1.1. Áp dụng pháp luật và đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.1.1. Áp dụng pháp luật
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật ra đời cùng với nhà
nước, là công cụ sắc bén để thực hiện quyên lực nhà nước, duy trì địa vị và
bảo vệ lợi ích của giai cấp thớng trị; nhà nước ban hành ra pháp luật và đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện. Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của sự
phát triển đến một trình độ nhất định của xã hội. Cùng với nhà nước, pháp
luật ngày càng đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Như
vậy, "Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thớng trị, được Nhà nước đảm bảo
thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế để điêu chỉnh các quan hệ xã hội,
duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị”.
Thực hiện pháp luật là hành vi xử sự của con người được tiến hành
một cách chủ động, phù hợp với yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Thực
hiện pháp luật có thể là hành vi của cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động

của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội, là hoạt động vừa mang tính
xã hội, vừa mang tính pháp lý. Vì vậy thực hiện pháp luật “là q trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực
trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật”.


9
Các quy phạm pháp luật được thể hiện trong hệ thống pháp luật với số
lượng lớn, nội dung phong phú, đa dạng, vì vậy hình thức thực hiện pháp luật
cũng rất khác nhau. Căn cứ vào nội dung của hoạt động thực hiện pháp luật,
khoa học pháp lý phân chia thành những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể tự kiêm chế khơng thực hiện những hành động mà pháp luật ngăn cấm.
- Chấp hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể tự thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình một cách tích cực.
- Sử dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể thực hiện các quyên năng pháp lý để bảo vệ quyên và lợi ích hợp
pháp của mình. Tuy nhiên, chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyên được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ khơng bị bắt buộc
phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
Nhà nước thơng qua các cơ quan nhà nước, cán bộ, cơng chức có thẩm qun
tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình
căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, chấm
dứt hay thay đổi những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong một số trường hợp,
pháp luật quy định các tổ chức chính trị xã hội cũng được thực hiện một số
hoạt động áp dụng pháp luật.
Khác với tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp
luật là những hình thức thực hiện pháp luật mà mọi chủ thể đêu có thể thực

hiện, ADPL là hình thức thực hiện pháp luật ln có sự tham gia của Nhà
nước. Đây là hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, luôn mang lại hiệu quả
cao hơn so với các hình thức thực hiện pháp luật khác. Bởi trên thực tế, có
nhiêu trường hợp các chủ thể khơng ḿn thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ nội dung của quy phạm pháp luật hoặc không đủ khả
năng thực hiện nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.


10
1.1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Nghiên cứu các đặc điểm của ADPL chúng ta sẽ đánh giá được đầy
đủ vê những ưu điểm của ADPL so với các hình thức thực hiện pháp luật
khác. ADPL có những đặc điểm sau:
Một là, ADPL chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyên hoặc cá
nhân được trao quyên tiến hành. Trong bộ máy nhà nước, xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ, quyên hạn của từng cơ quan nhà nước mà pháp luật quy định
thẩm quyên ADPL của mỗi cơ quan là khác nhau. Trong một số trường hợp,
pháp luật quy định các tổ chức xã hội cũng có quyên ADPL. Như vậy, nếu
như với các hình thức thực hiện pháp luật khác bất kỳ chủ thể nào cũng có
quyên thực hiện thì đới với ADPL, chỉ có cơ quan nhà nước, cá nhân được
trao quyên mới được tiến hành. Ví như trong hoạt động tư pháp, ADPL được
thực hiện thông qua các chức danh pháp lý như: Thủ trưởng Cơ quan cảnh sát
điêu tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND, Chánh án, Điêu tra viên,
KSV, Thẩm phán... theo một trình tự, thủ tục được pháp luật quy định chặt
chẽ, nhằm điêu tra, xác minh làm rõ sự thật khách quan của vụ án, trên cơ sở
đó ban hành các văn bản ADPL đới với chủ thể có vi phạm pháp luật.
Hai là, ADPL là hoạt động mang tính quyên lực nhà nước. Khi
ADPL, các cơ quan nhà nước có thẩm qun có thể tiến hành theo ý chí đơn
phương, khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng và việc ADPL này
có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể bị áp dụng. Trong trường hợp chủ

thể bị áp dụng không tự giác chấp hành thì những văn bản ADPL ln được
bảo đảm thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Ba là, việc ADPL phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ
đúng quy định của pháp luật. Pháp luật quy định cụ thể cơ sở, điêu kiện, thẩm
quyên, trình tự, thủ tục ADPL. Thông thường, ứng với mỗi ngành luật nội
dung đêu có một ngành luật tương ứng (gọi là luật hình thức) quy định trình
tự, thủ tục ADPL. Trình tự, thủ tục áp dụng của mỗi ngành luật cũng rất khác
nhau phụ thuộc vào tính chất nội dung của vụ việc cần phải ADPL và mức độ


11
nghiêm khắc của các chế tài. Tuy nhiên, dù là thủ tục đơn giản hay phức tạp,
thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyên ADPL, các bên có liên quan đến việc
ADPL cũng phải tuân thủ các quy định vê thủ tục. Nếu không tuân thủ các
quy định này sẽ không đảm bảo giá trị pháp lý của các văn bản ADPL được
ban hành.
Bốn là, ADPL là hoạt động điêu chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan
hệ xã hội. Đối tượng của hoạt động ADPL là những quan hệ xã hội cần đến sự
điêu chỉnh cá biệt, trên cơ sở những quy phạm chung trong quan hệ pháp luật.
Các vấn đê liên quan đến ADPL như: sự việc, con người, không gian, thời
gian..., ADPL bao giờ cũng được xác định cụ thể. Các văn bản ADPL được
ban hành ln mang tính cá biệt, có đới tượng xác định và chỉ được áp dụng
một lần đối với đối tượng đó;
Năm là, ADPL là hoạt động mang tính sáng tạo. Hoạt động ADPL là
quá trình vận dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết cái riêng các vụ,
việc cụ thể. Trong khi các vụ, việc cụ thể phát sinh trong cuộc sống rất đa
dạng, phong phú trên nhiêu lĩnh vực khác nhau, có những nét đặc thù riêng.
Vì vậy khi ADPL phải vận dụng pháp luật một cách linh hoạt, sáng tạo, khơng
máy móc, rập khn nhưng lại không được trái pháp luật. Muốn như vậy, các
chủ thể ADPL phải có ý thức pháp luật cao, có kiến thức tổng hợp, có vớn

sớng phong phú, để hoạt động ADPL được chính xác, mang lại hiệu quả mong
ḿn, địi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyên phải nghiên cứu kỹ lưỡng
vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó, từ đó lựa chọn quy phạm phù
hợp, ban hành văn bản ADPL và tổ chức thi hành văn bản đó.
Như vậy, ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt luôn
mang lại hiệu quả điêu chỉnh pháp luật rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế, ADPL
chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp luật
quy định đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Đây là trường hợp
ADPL được tiến hành phổ biến đối với các tội phạm hình sự, các hành vi vi


12
phạm hành chính... Trong trường hợp này, địi hỏi phải có sự tham gia của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyên theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy
định chặt chẽ nhằm điêu tra, xác minh làm rõ hành vi vi phạm, mức độ lỗi của
các chủ thể có vi phạm, ban hành văn bản ADPL đới với các chủ thể đã thực
hiện hành vi vi phạm và tổ chức thực hiện văn bản ADPL đó.
- Khi quan hệ pháp luật với những quyên chủ thể, nghĩa vụ pháp lý cụ
thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
- Khi xảy ra tranh chấp vê quyên chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó khơng tự giải qút được. Đây
là trường hợp quan hệ pháp luật đã phát sinh, nhưng quyên, nghĩa vụ của các
bên khơng được thực hiện và có sự tranh chấp, như: tranh chấp vê hợp đồng
dân sự, kinh tế, lao động...
- Trong một số trường hợp, Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để
kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ pháp luật hoặc
Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện
thực tế. Chẳng hạn, việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp...
Qua phân tích ở trên, khái niệm ADPL được hiểu đầy đủ: Áp dụng

pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức - quyên lực của nhà nước, được thực
hiện thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm qun, cá nhân hoặc tổ chức xã
hội được pháp luật trao quyên, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật
vào các trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân
1.1.2.1. Quyền Công tố, thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân
Quyên Công tố là khái niệm tuy không mới nhưng cho đến nay, trong
khoa học pháp lý nói chung, khoa học kiểm sát nói riêng vẫn tồn tại nhiêu


13
quan điểm khác nhau; để đi sâu tìm hiểu quyên cơng tớ, chúng ta tìm hiểu vê
thuật ngữ Cơng tớ:
“Cơng tớ” là từ ghép Hán - Việt, được hình thành bởi hai từ đơn
“công” và “tố”. Theo Đại từ điển tiếng Việt, “cơng” có nghĩa là “thuộc vê Nhà
nước, tập thể, trái với tư”, cịn “tớ” có nghĩa là “nói vê những sai phạm, tội lỗi
của người khác một cách cơng khai trước người có thẩm qun hoặc trước
nhiêu người”; “cơng tớ” có nghĩa là “điêu tra, truy tớ, buộc tội kẻ phạm pháp
và phát biểu ý kiến trước Tòa án”.
Công tố là một khái niệm rộng, bao gồm các nội dung: điêu tra, truy
tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tịa án. Trong cơng tố,
người thực hiện sự buộc tội là Nhà nước, đối tượng bị Nhà nước cáo buộc là
các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Cơng tớ, vì thế được hiểu là “sự cáo
buộc của Nhà nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp luật trước Tịa
án”. Đó là hình thức nhân danh lợi ích cơng để phát giác, tố cáo những hành
vi vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra trước Tịa để xét xử. Điêu
này khác với khái niệm tư tố, được hiểu là “tự mình nhân danh lợi ích cá

nhân, riêng tư để cáo giác, khởi kiện ra tòa”.
* Quyền công tố:
Theo Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức VKSND năm 1981,
khái niệm “quyên công tố” và “thực hành quyên công tố” lần đầu tiên được
xuất hiện bên cạnh khái niệm vê “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”. Từ đó
đến nay đã có nhiêu cơng trình khoa học nghiên cứu đến khái niệm “quyên
công tố” và “thực hành qun cơng tớ”; tuy nhiên vẫn cịn nhiêu quan điểm
khác nhau;
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, mọi hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật đêu là việc THQCT. Những người theo quan điểm này đã đồng
nhất khái niệm QCT với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKSND. Theo đó, cơng tớ khơng phải là một chức năng độc lập của VKS mà
chỉ là một quyên năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân


14
theo pháp luật. Đây là quan điểm tồn tại khá phổ biến trong ngành Kiểm sát
từ năm 1992 trở vê trước. Tuy nhiên, hiểu khái niệm QCT theo quan điểm
trên là chưa thật chính xác, đã đánh đồng QCT với quyên kiểm sát việc tuân
theo pháp luật. Trong khi đó, theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức
VKSND thì kiểm sát việc tuân theo pháp luật và THQCT là hai chức năng
độc lập của VKS. Quá trình thực hiện, mặc dù giữa hai chức năng này có một
sớ nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, nhưng khơng
vì thế mà phủ nhận tính độc lập cả vê nội dung, phạm vi áp dụng. Do vậy,
không thể đồng nhất giữa chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật.
- Quan điểm thứ hai, QCT là quyên của Nhà nước giao cho VKS truy
tớ kẻ phạm tội ra Tịa án và thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa. Theo quan
điểm này, khái niệm, nội dung và phạm vi QCT đã bị thu hẹp, QCT chỉ có
trong TTHS và cũng chỉ diễn ra ở giai đoạn xét xử sơ thẩm (tức chỉ là việc

truy tố và buộc tội tại phiên tịa). Do vậy, nó khơng phản ánh được bản chất
của QCT. Trên thực tế, hoạt động truy tố và buộc tội của VKS tại phiên tịa
chỉ là một sớ nội dung của việc THQCT, bên cạnh đó VKS cịn các quyên hạn
khác trong khi THQCT.
- Quan điểm thứ ba, QCT là quyên đại diện cho Nhà nước đưa các vụ
việc vi phạm pháp luật nói chung ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Đây là quan điểm chính thớng của ngành Kiểm
sát giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985. Quan điểm này đã quá mở rộng khái
niệm, nội dung, phạm vi của QCT, dẫn đến mở rộng phạm vi, tính đặc thù
giữa TTHS và các lĩnh vực tớ tụng tư pháp khác. Vì vậy, đã đồng nhất QCT
với những quyên năng của VKS trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
- Quan điểm thứ tư, QCT là quyên của Nhà nước giao cho các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình
sự đới với người phạm tội. Theo quan điểm này, không chỉ VKS mà các cơ


15
quan tiến hành tớ tụng khác như CQĐT, Tịa án, Cơ quan Thi hành án đêu
được thực hiện QCT và QCT được thực hiện trong mọi giai đoạn tố tụng, từ
khởi tố, điêu tra, truy tố, xét xử đến thi hành án.
- Quan điểm thứ năm, công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với
các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm luật hành chính, dân sự, kinh tế và
luật hình sự. Theo quan điểm này, QCT chỉ thuộc vê Nhà nước. Nhà nước là
người ban hành pháp luật, nên Nhà nước phải có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật.
QCT của Nhà nước không chỉ được thực hiện trong TTHS mà còn được thực
hiện cả trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động và hành chính.
- Quan điểm thứ sáu, QCT là quyên của Nhà nước đưa các việc làm
phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tịa án để xét xử, vì Nhà nước nhân
danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước

vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung đột xã hội
gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải đứng ra điêu hịa
để bảo vệ lợi ích của giai cấp thớng trị và những lợi ích chung có liên quan.
Trên đây là một số quan điểm khác nhau tồn tại khá phổ biến vê
khái niệm QCT. Mỗi quan điểm đêu có những hạt nhân hợp lý riêng, nhưng
nhìn chung xuất phát từ việc chưa xác định đúng đối tượng, nội dung,
phạm vi của QCT trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật, nên các
quan điểm trên hoặc là thu hẹp hoặc mở rộng phạm vi của QCT vượt khỏi
lĩnh vực TTHS sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác như dân sự, hành
chính, kinh tế, lao động hoặc coi QCT chỉ là một quyên năng, một hình
thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS,
dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của QCT như là một hoạt động độc lập nhân
danh quyên lực công của VKSND.
Để làm rõ khái niệm QCT, cần xuất phát từ những cơ sở có tính
ngun tắc đó là:
QCT là quyên của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước và thay đổi theo bản chất Nhà nước, bảo đảm, bảo vệ lợi ích của Nhà


16
nước, mà trước hết là giai cấp thống trị trong xã hội cũng như các lợi ích
chung có liên quan. Vì thế, cần phải làm rõ ́u tớ lợi ích chung của Nhà nước
với tính cách là đới tượng bảo vệ của QCT.
QCT luôn luôn gắn liên với quyên tài phán của Tịa án, đó là qun
đưa vụ án ra Tòa và buộc tội người phạm pháp tại Tòa án. Tuy vậy, cũng cần
nhận thức rằng, khơng có nghĩa cứ phải đưa vụ án ra Tòa mới là THQCT.
Trên thực tế, QCT có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi sự việc là đối tượng
tác động của QCT có đủ căn cứ để chấm dứt hoạt động tớ tụng. Chẳng hạn,
các trường hợp đình chỉ vụ án và đình chỉ bị can theo quy định của BLTTHS
và BLHS. Khi QCT khơng tồn tại thì THQCT cũng chấm dứt.

QCT chỉ có thể do một cơ quan thực hiện và phải độc lập với quyên
tài phán của Tòa án, ở nước ta thực hiện quyên này là VKSND. QCT phải
được thể hiện ở nội dung cụ thể của nó trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ
khởi tố, điêu tra, đến đưa vụ án ra Tòa để xét xử và buộc tội trước Tòa án.
Những hoạt động như khởi tớ vụ án, duy trì QCT trước Tịa... chỉ là những nội
dung hoạt động cụ thể của QCT. Vì vậy, khơng thể cho rằng, việc pháp luật
trao cho CQĐT, Tịa án và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điêu tra quyên khởi tố vụ án, bị can, cũng như quyên quyết
định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, thì các cơ quan
này cũng là những cơ quan THQCT.
Từ những phân tích trên, chúng tơi thớng nhất với quan điểm cho
rằng: “Quyên công tố như một sợi dây quyện chặt vào śt q trình tớ tụng
vê vụ án mà nịng cớt là việc đưa vụ án ra tịa. Việc chia cắt hay lấy một vài
quyên năng thuộc nội dung QCT và cho rằng có nhiêu cơ quan thực hành
quyên công tố là sai lầm không thể chấp nhận được, khơng phải chủ thể nào
có qun khởi tớ vụ án hình sự,... cũng đêu là chủ thể thực hành quyên công
tố mà phải xác định chủ thể nào được giao nhiệm vụ đưa vụ án ra tịa, thì chủ
thể ấy chính là cơ quan thực hành qun cơng tớ”.


17
Như vậy, quyên công tố là quyên của Nhà nước giao cho VKSND
nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đới với
người phạm tội ra trước Tòa án để thực hiện việc xét xử và bảo vệ sự buộc tội
đó tại phiên tịa.
- Đối tượng, nội dung và phạm vi của QCT:
+ Đối tượng của QCT được hiểu là cái mà QCT tác động vào nhằm
đạt được một mục đích cụ thể nào đó. Hiện nay, do còn nhiêu quan điểm khác
nhau vê khái niệm QCT, nên nhận thức vê đối tượng của QCT cũng khác
nhau; ứng với mỗi quan điểm vê khái niệm QCT, cũng có một quan niệm

khác nhau vê đới tượng, nội dung và phạm vi QCT. Chẳng hạn, quan điểm
đồng nhất QCT với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho rằng, đối
tượng của QCT là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; quan điểm coi QCT là quyên
đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan
xét xử để bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật và quan điểm coi
QCT là quyên của Nhà nước cáo buộc đối với cá nhân, tổ chức xã hội đã vi
phạm pháp luật quan niệm: Đối tượng của QCT là các hành vi vi phạm pháp
luật; quan điểm coi QCT là quyên của Nhà nước nhân danh xã hội truy cứu
TNHS đối với người có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật liên
quan đến lợi ích chung quan niệm, đối tượng của QCT là tội phạm và những
vụ việc xâm hại lợi ích chung trong lĩnh vực dân sự, hành chính...
Với nhận thức vê QCT như đã nêu trên, chúng tôi cho rằng, đối tượng
của QCT chỉ là tội phạm và người phạm tội.
+ Vê nội dung của QCT:
Có nhiêu quan điểm khác nhau vê nội dung của QCT, tuy nhiên
nghiên cứu dưới góc độ bản chất của QCT, thì quan điểm phù hợp là: “Nội
dung của qun cơng tớ chính là sự buộc tội đới với người đã thực hiện tội
phạm. Còn việc tiến hành những biện pháp gì và cơ quan nhà nước nào được


18
giao thực hiện các biện pháp ấy để truy cứu trách nhiệm hình sự đới với người
phạm tội là nội dung của thực hành quyên công tố”.
+ Phạm vi của QCT: Có nhiêu ý kiến khác nhau vê phạm vi của QCT:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, QCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết
thúc khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Quan điểm này tuy đã mở rộng
phạm vi bắt đầu và kết thúc của QCT, nhưng sẽ không lý giải được vấn đê vê
vị trí, vai trị của KSV khi tham gia các phiên tịa phúc thẩm, giám đớc thẩm
hoặc tái thẩm.

Ý kiến thứ hai, “phạm vi quyên công tố bắt đầu từ khi có qút định
truy tớ và kết thúc khi Cơng tớ viên buộc tội xong tại phiên tịa sơ thẩm”,
QCT khơng có trong giai đoạn điêu tra, vì đây chỉ là giai đoạn thu thập tài
liệu, chứng cứ phục vụ cho việc đưa vụ án ra Tòa. Cơ sở lý luận mà họ dựa
vào là quan điểm của V.I. Lênin, đó là “quyên và bổn phận duy nhất của Cơng
tớ viên là đưa vụ án ra Tịa”. Chúng tơi cho rằng, quan điểm này đã thu hẹp
không chỉ nội dung mà cả phạm vi của QCT và do vậy sẽ không thể cắt nghĩa
được các hoạt động TTHS khác.
Ý kiến thứ ba, phạm vi QCT bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết
thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án; theo chúng tôi, ngay khi bản
án có hiệu lực pháp luật khơng bị kháng nghị, thì việc kết tội đã kết thúc,
QCT với nghĩa là qun đại diện cho lợi ích cơng để truy tố và buộc tội đối
với người phạm tội tại phiên tịa khơng cịn nữa. Do vậy, khơng thể quan niệm
QCT kéo dài đến giai đoạn thi hành án.
Từ những phân tích trên, tơi nhất trí với quan điểm cho rằng, QCT là
quyên của Nhà nước truy cứu TNHS đối với người phạm tội, quyên này phát
sinh ngay từ khi có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi cơ quan tài phán
nhân danh công lý tuyên phạt đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội,
“Phạm vi quyên công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc
khi bản án đã có hiệu lực pháp luật”.


19
* Thực hành QCT ở giai đoạn điều tra của VKSND:
THQCT ở giai đoạn điêu tra là một bộ phận cấu thành hoạt động
THQCT của VKSND. Để có khái niệm thống nhất vê THQCT ở giai đoạn
điêu tra của VKSND, trước hết cần làm rõ một số vấn đê vê THQCT nói
chung, đó là khái niệm, đới tượng, nội dung và phạm vi của THQCT.
Vê khái niệm THQCT: Trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay ở
nước ta, một trong những vấn đê có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng

của khoa học pháp lý nói chung, khoa học kiểm sát nói riêng là việc xác định
QCT theo đó THQCT của VKSND là những vấn đê liên quan trực tiếp đến
việc xác định vị trí, vai trị của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước
cũng như trong mối quan hệ với các Cơ quan tư pháp và nội dung chức năng,
nhiệm vụ của VKSND.
Thực tế trong khoa học pháp lý mới chỉ chú trọng đến những vấn đê
liên quan đến QCT, trong khi đó việc nghiên cứu để làm rõ khái niệm, nội
dung, phạm vi THQCT, mối quan hệ giữa THQCT với việc thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp cịn ít được đê
cập. Theo quan điểm của nhiêu nhà nghiên cứu vẫn nhầm lẫn giữa QCT và
THQCT trên các phương diện như đối tượng, nội dung, phạm vi của QCT và
THQCT; khi nghiên cứu, họ luôn coi đó là qun của VKS. Do vậy, thực tế đã
khơng lý giải được nhiêu vấn đê như việc CQĐT, Tòa án... sử dụng các quyên
năng pháp lý để khởi tố vụ án, bị can, ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn... và câu hỏi đặt ra là các cơ quan này có
THQCT hay khơng?
Như đã phân tích ở trên, QCT là qun của Nhà nước, gắn liên với
bản chất Nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Phạm vi của QCT bắt đầu
từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc
khi có một trong những căn cứ làm triệt tiêu QCT theo quy định của pháp
luật. Đối tượng tác động của QCT là tội phạm và người phạm tội. Để bảo đảm
thực hiện QCT, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyên năng pháp


20
lý thuộc nội dung QCT; cơ quan nào được Nhà nước giao thực hiện các quyên
năng pháp lý này để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối với người
phạm tội được gọi là cơ quan có trách nhiệm THQCT ở nước ta là hệ thống cơ
quan VKSND.
Từ nhận thức trên trên, chúng tơi đồng tình với quan điểm cho rằng:

“Thực hành quyên công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyên năng pháp lý
thuộc nội dung quyên cơng tớ để truy cứu trách nhiệm hình sự đới với người
phạm tội trong các giai đoạn điêu tra, truy tố và xét xử”.
Vê phạm vi THQCT: Theo quy định của BLTTHS năm 2003, VKS
THQCT ở tất cả các giai đoạn tố tụng, từ giai đoạn điêu tra đến giai đoạn xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Để xác định chính xác phạm vi THQCT, cần xem xét đến phạm vi
của QCT, bởi đó là cơ sở, nên tảng để THQCT; QCT phát sinh ngay khi có
tội phạm xảy ra, bởi mục đích của TTHS là nhằm bảo đảm mọi tội phạm
xảy ra đêu phải được phát hiện và xử lý trước pháp luật. Vê nguyên tắc, có
tội phạm xảy ra là địi hỏi QCT phải xuất hiện. Căn cứ xuất hiện QCT dựa
trên một giai đoạn chuẩn bị để thu thập tài liệu, chứng cứ vê tội phạm xảy
ra như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác vê tội phạm, tiến hành một số
hoạt động điêu tra ban đầu trước khi khởi tố vụ án như: khám nghiệm hiện
trường, lấy lời khai của những người có liên quan hoặc những người biết
vê vụ việc.... Cịn THQCT chỉ phát sinh khi có qút định khởi tớ vụ án;
thực tế, có khơng ít tội phạm xảy ra nhưng không được phát hiện để khởi tố
(tội phạm ẩn). Yêu cầu khởi tố và tiến hành điêu tra mọi hành vi phạm tội
đương nhiên là vấn đê có tính ngun tắc. Như vậy có thể thấy, phạm vi
QCT bao giờ cũng rộng hơn phạm vi THQCT; phạm vi QCT bắt đầu từ khi
có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị. Thực tế, không phải trường hợp nào QCT cũng kéo dài đến khi
bản án có hiệu lực pháp luật mà quyên này có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố
tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật, đó là các trường hợp CQĐT


21
hoặc VKS đình chỉ vụ án, đình chỉ điêu tra bị can... Khi QCT chấm dứt thì
THQCT cũng chấm dứt.
Như vậy, phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi

bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định
của pháp luật tớ tụng hình sự.
Nội dung THQCT: Nội dung THQCT là những biện pháp được pháp
luật quy định mà VKS sử dụng để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Tuy vậy cần chú ý phân biệt, những quyên năng pháp lý mà VKS trực tiếp
quyết định và liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo thì đó là những
qun năng thuộc nội dung THQCT; những quyên năng pháp lý mà VKS sử
dụng để phát hiện và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng là những quyên năng thuộc chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 và Luật Tổ chức VKSND năm
2002 nội dung THQCT của VKSND bao gồm:
+ Khởi tố vụ án, khởi tớ bị can là giai đoạn mở đầu q trình điêu tra
xử lý đối với tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Theo quy định tại
điêu 104 của BLTTHS, các cơ quan có thẩm qun khởi tớ vụ án, bị can bao
gồm: CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một sớ hoạt động điêu tra như: Bộ đội Biên phịng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển; Thực tế, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can chủ yếu do
CQĐT các cấp tiến hành, số vụ án VKS trực tiếp khởi tố là không nhiêu. VKS
là cơ quan duy nhất được qun khởi tớ vụ án hình sự một cách độc lập,
không chịu sự ràng buộc vê mặt cơ chế tố tụng của bất kỳ một cơ quan nhà
nước nào.
VKS thực hiện quyên yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án, bị can để điêu
tra xử lý theo quy định của pháp luật; quyên hủy bỏ quyết định khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điêu tra. VKS thực hiện quyên


22
kháng nghị đối với những quyết định khởi tố vụ án khơng có căn cứ của

Tịa án các cấp.
Qút định khởi tố bị can của CQĐT và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điêu tra phải được gửi ngay cho VKS để
xem xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định khởi
tố. VKS xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can nếu qút
định khởi tớ đó khơng có căn cứ và trái pháp luật trong thời hạn 3 ngày, kể từ
khi nhận được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến việc khởi
tố của CQĐT.
+ Những biện pháp áp dụng TNHS đối với người phạm tội gồm có:
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; phê chuẩn, không phê chuẩn các
quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của CQĐT
theo quy định của pháp luật;
- Phê chuẩn lệnh khám xét của CQĐT.
+ Những biện pháp xử lý vụ án gồm:
- Quyết định truy tố bị can ra Tịa để thực hiện việc xét xử;
- Qút định đình chỉ vụ án, bị can theo quy định của pháp luật.
+ Nội dung THQCT của VKS tại phiên tòa, gồm: đọc cáo trạng, thẩm
vấn, luận tội tại phiên tòa sơ thẩm; phát biểu quan điểm của VKS vê hành vi
phạm tội của bị cáo có kháng cáo, kháng nghị tại các phiên tịa xét xử phúc
thẩm, giám đớc thẩm hoặc tái thẩm.
Như vậy, theo quy định của pháp luật VKS có rất nhiêu quyên năng
pháp lý để THQCT; trong đó qun truy tớ bị can ra Tịa án để xét xử là
quyên duy nhất chỉ có ở VKS, các quyên khác thì CQĐT, Tịa án và các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điêu tra cũng được
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thực tế vẫn có sự nhầm lẫn giữa qun năng tớ tụng với quyên của cơ
quan công tố. Vê nguyên tắc, chỉ có cơ quan nào sử dụng tất cả các quyên



23
năng pháp lý cần thiết để truy cứu TNHS đối với người phạm tội mới là cơ
quan THQCT. Ở nước ta chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT, CQĐT chỉ
thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ VKS đưa vụ án ra tòa, Tòa án chỉ xét xử những tội
phạm và người phạm tội mà VKS đã truy tố.
Từ những phân tích trên, nội dung THQCT là việc VKS sử dụng các
quyên năng tố tụng độc lập do pháp luật quy định nhằm truy cứu TNHS đối
với người phạm tội, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội,
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong śt q trình tớ tụng.
Như vậy, THQCT ở giai đoạn điêu tra của VKSND là việc VKS sử
dụng tổng hợp các quyên năng pháp lý thuộc nội dung qun cơng tớ để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, được thực hiện từ khi khởi tố
vụ án và kết thúc khi VKS quyết định truy tớ bị can ra trước Tịa án để xét xử
hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
Trên cơ sở phân tích định nghĩa, các đặc điểm của ADPL cũng như
nội dung vê QCT và THQCT, có thể đưa ra quan điểm khái niệm vê ADPL
trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự của VKSND là những
hoạt động của VKSND thông qua việc VKS sử dụng tổng hợp các quyên năng
pháp lý thuộc nội dung quyên công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đới với
người phạm tội, được thực hiện từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi VKS
quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án được đình
chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
1.1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự của
VKSND là một dạng ADPL. Do vậy, hoạt động này cũng bao hàm những nội
dung cơ bản nhất của lý luận chung vê ADPL đã trình bày ở phần trên. Bên
cạnh đó, chúng cũng có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự
chỉ do VKSND tiến hành.



24
VKSND là cơ quan duy nhất đại diện Nhà nước thực hiện chức năng
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Để thực hiện chức năng công tố,
pháp luật TTHS và Luật Tổ chức VKSND quy định cho ngành Kiểm sát một
hệ thống các quyên năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyên chỉ
VKSND mới được thực hiện như qun truy tớ bị can ra Tịa án để xét xử.
VKSND các cấp được pháp luật quy định các quyên đồng thời cũng chính là
trách nhiệm phải kiểm sát tất cả các lệnh, quyết định của CQĐT và các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điêu tra liên quan
đến vụ án, bị can, trong đó có một sớ lệnh, qút định bắt buộc phải có sự phê
chuẩn trước của VKSND mới có giá trị pháp lý như: qút định khởi tớ bị
can, lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam...
Thứ hai, ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự
của VKSND được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
chặt chẽ nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hình sự, TTHS vào các
trường hợp cụ thể; Mục đích của hoạt động ADPL trong THQCT của VKSND
là nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội, buộc họ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi do các chế tài pháp luật hình sự đặt ra. Q trình ADPL
phải đảm bảo tính chặt chẽ và tính có căn cứ pháp luật; các hoạt động của cơ
quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tớ tụng trong q trình giải
qút án hình sự đêu được BLTTHS điêu chỉnh.
Thứ ba, ADPL trong THQCT ở giai đoạn điêu tra các vụ án hình sự
của VKSND được tiến hành đới với các vụ án hình sự cụ thể.
Khi thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động điêu tra án
hình sự, quyên của VKSND cũng chính là nghĩa vụ pháp luật quy định phải
thực hiện, qun đó thuộc nội dung cơng tớ và kiểm sát các hoạt động tư pháp
theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thu thập tài liệu, chứng cứ
xác định tội phạm và người phạm tội; truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử.

Những hoạt động này được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật TTHS quy định nhằm xác định có hay khơng có hành vi phạm tội


25
xảy ra, nếu có thì phạm tội gì, được quy định trong điêu, khoản nào của
BLHS? Ai là người thực hiện hành vi phạm tội đó, năng lực chịu TNHS đến
đâu, nhân thân tốt hay xấu...? thủ tục tố tụng và hoạt động điêu tra do CQĐT
tiến hành có đúng với quy định của BLTTHS hay không? những tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở để ra quyết định ADPL hay chưa?
trong đó chú ý xem xét hành vi vi phạm pháp luật đã vi phạm vào loại văn
bản pháp luật cụ thể nào vê quản lý kinh tế, hành vi đó đã đến mức phải xử lý
hình sự chưa...?
Trên cơ sở các đặc điểm nêu trên, áp dụng pháp luật trong giai đoạn
điêu tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là hoạt động thực hiện pháp
luật đặc biệt mang tính qun lực của nhà nước thơng qua hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân và các KSV trong giai đoạn điêu tra vụ án hình sự, đảm
bảo tuân thủ đúng mục đích của nhà nước pháp quyên, bảo vệ pháp chế
XHCN, khắc phục tình trạng làm oan người vơ tội và bỏ lọt tội phạm ở Việt
Nam hiện nay.
1.2. QUY TRÌNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN
CƠNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN

1.2.1. Khái niệm quy trình áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
ADPL là hoạt động phức tạp, bao gồm nhiêu giai đoạn khác nhau.
Các giai đoạn của quy trình ADPL diễn ra kế tiếp nhau vê mặt thời gian, trong
đó giai đoạn trước là cơ sở, tiên đê của giai đoạn sau. Lý luận vê ADPL phân

chia hoạt động ADPL thành bớn giai đoạn, đó là:
- Phân tích những tình tiết khách quan của vụ việc được xem xét;
- Lựa chọn quy phạm pháp luật để giải quyết vụ việc và làm sáng tỏ
nội dung, tư tưởng của nó;


×