TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
BÁO CÁO
THỰC TẬP TỔNG HỢP
Cơ sở thực tập :
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHI NHÁNH HUYỆN YÊN MỸ
Hà Nội tháng 2/ 2008
LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường của trường Đại học
Kinh tế quốc dân, em đã được học rất nhiều điều, tiếp thu rất nhiều kiến thức
từ các thầy, các cô và các bạn. Tuy nhiên, những bài học, những kiến thức đó
mới chỉ dừng lại dưới góc độ lý thuyết. “Học phải đi đôi với hành”, lý thuyết
sẽ càng trở nên phong phú và sinh động khi được áp dụng vào thực tế. Chính
vì vậy, trong học kỳ cuối cùng này, em có cơ hội được ứng dụng những bài
giảng của các thầy, các cô trên lớp vào những công việc thực tế trong cuộc
sống. Cụ thể, trong 5 tuần thực tập tổng hợp vừa qua, em đã đến thực tập tại
Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh
huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên
Tại cơ sở thực tập, em đã quan sát và học hỏi được rất nhiều điều, biết
thêm được nhiều kiến thức và giúp em có được một cái nhìn rõ nét hơn, thực
tế hơn về những công việc, nghiệp vụ của một nhân viên ngân hàng, cụ thể tại
Phòng kế toán và phòng tín dụng của Ngân hàng. Qua đó, em xin trình bày
những thu nhận của em về cơ sở thực tập cũng như những công việc mà em
đã được quan sát và học hỏi qua Báo cáo thực tập tổng hợp về NHNN&PTNT
chi nhánh huyện Yên Mỹ, bài Báo cáo gồm 4 phần:
Phần 1: Tổng quan về Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam
Phần 2: Giới thiệu về Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi
nhánh huyện Yên Mỹ
Phần 3: Một số vấn đề
Em xin chân thành cảm ơn ThS. Lê Hương Lan, giảng viên khoa Ngân
hàng - Tài chính trường Đại học Kinh tế quốc dân đã giúp đỡ em hoàn thành
bài Báo cáo này.
2
PHẦN 1:
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
1. Thông tin chung
Thành lập ngày 26/3/1988, hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín dụng
Việt Nam, đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam (AGRIBANK) hiện là Ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ
đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
cũng như đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt Nam.
AGRIBANK là ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội
ngũ CBNV, màng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Đến tháng
3/2007, vị thế dẫn đầu của AGRIBANK vẫn được khẳng định với trên nhiều
phương diện: Tổng nguồn vốn đạt gần 267.000 tỷ đồng, vốn tự có gần
15.000 tỷ đồng; Tổng dư nợ đạt gần 239.000 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu theo
chuẩn mực mới, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là 1,9%. AGRIBANK hiện
có hơn 2200 chi nhánh và điểm giao dịch được bố chí rộng khắp trên toàn
quốc với gần 30.000 cán bộ nhân viên.
Là ngân hàng luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ
ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển
màng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến. AGRIBANK là ngân hàng đầu tiên
hoàn thành giai đoạn 1 Dự án Hiện đại hóa hệ thông thanh toán và kế toán
khách hàng (IPCAS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ và đang tích cực triển
khai giai đoạn II của dự án này. Hiện AGRIBANK đã vi tính hoá hoạt động
kinh doanh từ Trụ sở chính đến hầu hết các chi nhánh trong toàn quốc; và
một hệ thống các dịch vụ ngân hàng gồm dịch vụ chuyển tiền điện tử, dịch
3
vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, dịch vụ ATM, dịch vụ thanh toán quốc tế
qua mạng SWIFT. Đến nay, AGRIBANK hoàn toàn có đủ năng lực cung
ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, tiện ích cho mọi đối
tượng khách hàng trong và ngoài nước.
Là một trong số ngân hàng có quan hệ ngân hàng đại lý lớn nhất Việt
Nam với trên 979 ngân hàng đại lý tại 113 quốc gia và vùng lãnh thổ tính
đến tháng 2/2007. Là thành viên Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Nông thôn
Châu Á Thái Bình Dương (APRACA), Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp
Quốc tế (CICA) và Hiệp hội Ngân hàng Châu Á (ABA); đã đăng cai tổ chức
nhiều hội nghị quốc tế lớn như Hội nghị FAO năm 1991, Hội nghị
APRACA năm 1996 và năm 2004, Hội nghị tín dụng nông nghiệp quốc tế
CICA năm 2001, Hội nghị APRACA về thuỷ sản năm 2002.
Là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam trong việc tiếp nhận và triển khai các
dự án nước ngoài, đặc biệt là các dự án của WB, ADB, AFD. Các dự án
nước ngoài đã tiếp nhận và triển khai đến cuối tháng 2/2007 là 103 dự án với
tổng số vốn trên 3,6 tỷ USD, số vốn qua NHNo là 2,7 tỷ USD, đã giải ngân
được 1,1 tỷ USD.
Với vị thế là ngân hàng thương mại hàng đầu Việt nam, AGRIBANK đã nỗ
lực hết mình, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, đóng góp to lớn vào
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế của đất nước.
2. Quá trình hình thành và phát triển:
Năm 1988: Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành
lập theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) về việc thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó
có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực
4
nông nghiệp, nông thôn.
Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp hình thành trên cơ sở tiếp nhận từ
Ngân hàng Nhà nước: tất cả các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện,
Phòng Tín dụng Nông nghiệp, quỹ tiết kiệm tại các chi nhánh Ngân hàng
Nhà nước tỉnh, thành phố. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp TW được hình
thành trên cơ sở tiếp nhận Vụ Tín dụng Nông nghiệp Ngân hàng Nhà nước
và một số cán bộ của Vụ Tín dụng Thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và
Xây dựng, Vụ Kế toán và một số đơn vị.
Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) ký Quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp
Việt Nam thay thế Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng
Nông nghiệp là Ngân hàng thương mại đa năng, hoạt động chủ yếu trên lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
Ngày 01/03/1991 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số
18/NH-QĐ thành lập Văn phòng đại diện Ngân hàng Nông nghiệp tại Thành
phố Hồ Chí Minh và ngày 24/6/1994, Thống đốc có văn bản số 439/CV-
TCCB chấp thuận cho Ngân hàng nông nghiệp được thành lập văn phòng
miền Trung tại Thành phố Quy Nhơn - tỉnh Bình Dịnh.
Ngày 22/12/1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số
603/NH-QĐ về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp các tỉnh
thành phố trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp gồm có 3 Sở giao dịch (Sở
giao dịch I tại Hà Nội và Sở giao dịch II tại Văn phòng đại diện khu vực
miền Nam và Sở giao dịch 3 tại Văn phòng miền Trung) và 43 chi nhánh
ngân hàng nông nghiệp tỉnh, thành phố. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
quận, huyện, thị xã có 475 chi nhánh.
5
Năm 1993 Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam ban hành quy chế thi
đua khen thưởng tạo ra những chuẩn mực cho các cá nhân và tập thể phấn
đấu trên mọi cương vị và nhiệm vụ công tác. Tổ chức được hội nghị tổng kết
toàn quốc có các giám độc chi nhánh huyện suất sắc nhất của tỉnh thành phố.
Ngày 30/7/1994 tại Quyết định số 160/QĐ-NHN9, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận mô hình đổi mới hệ thống quản lý của Ngân hàng
nông nghiệp Việt Nam, trên cơ sở đó, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam cụ thể hóa bằng văn bản số 927/TCCB/Ngân hàng Nông
nghiệp ngày 16/08/1994 xác định: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam có 2
cấp: Cấp tham mưu và Cấp trực tiếp kinh doanh. Đây thực sự là bước ngoặt
về tổ chức bộ máy của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam và cũng là nền
tảng cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam sau này.
Ngày 7/3/1994 theo Quyết định số 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ ,
Ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam hoạt động heo mô hình Tổng công ty
Nhà nước với cơ cấu tổ chức bao gồm Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc,
bọ máy giúp việc bao gồm bộ máy kiểm soát nội bộ, các đơn vị thành viên
bao gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc, hạch toán độc lập, đơn vị sự
nghiệp, phân biệt rõ chức năng quản lý và chức năng điều hành, Chủ tịch
Hội đồng quản trị không kiêm Tổng Giám đốc.
Trên cơ sở những kết quả tốt đẹp của Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo,
Ngân hàng Nông nghiệp tiếp tục đề xuất kiến nghị lập Ngân hàng phục vụ
người nghèo, được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước ủng hộ, dư luận rất
hoan nghênh. Ngày 31/08/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 525/TTg thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Ngân hàng phục vụ người nghèo là một tổ chức tín dụng của Nhà
6
nước hoạt động trong phạm vi cả nước, có tư cách pháp nhân, có vốn điều
lệ, có tài sản, bảng cân đối, có con dấu, trụ sở chính đặt tại Thành phố Hà
Nội. Vốn hoạt động ban đầu là 400 tỷ đồng do Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam góp 200 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương 100 tỷ đồng và Ngân hàng
Nhà nước 100 tỷ đồng. Hoạt động của Ngân hàng Phục vụ người nghèo vì
mục tiêu xóa đói giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo
toàn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng Phục vụ Người
nghèo - thực chất là bộ phận tác nghiệp của Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam tồn tại và phát triển mạnh. Tới tháng 09/2002, dư nợ đã lên tới 6.694
tỷ, có uy tín cả trong và ngoài nước, được các Tổ chức quốc tế đánh giá cao
và đặc biệt được mọi tầng lớn nhân dân ửng hộ, quý trọng. Chính vì những
kết quả như vậy, ngày 04/10/2002, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết
định số 131/2002/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội trên cơ
sở Ngân hàng Phục vụ Người nghèo - Từ 01/01/2003 Ngân hàng Phục vụ
Người nghèo đã chuyển thành NH Chính sách xã hội. Ngân hàng Nông
nghiệp chính là người đề xuất thành lập, thực hiện và bảo trợ Ngân hàng
phục vụ người nghèo tiền thân của Ngân hàng chính sách xã hội - Đây là
một niềm tự hào to lớn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
Ngày 15/11/1996, được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký Quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển Nông thôn Việt Nam.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hoạt động theo mô
hình Tổng công ty 90, là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, hoạt động
theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một ngân hàng
7
thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được xác định
thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc
mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Trong năm 1998, NHNo đã tập trung nâng cao chất lượng tín dụng,
xử lý nợ tồn đọng cũ và quản lý chặt chẽ hơn công tác thẩm định, xét duyệt
các khoản cho vay mới, tiến hành các biện pháp phù hợp để giảm nợ thấp
quá hạn.
Năm 1999, chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm và tập trung đầu tư phát
triển nông nghiệp nong thôn. Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức
tín dụng có hiệu lực thi hành, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ngân
hàng. Đẩy mạnh huy động vốn trong và ngoài nước chú trọng tiếp nhận thực
hiện tốt các dự an nước ngoài uỷ thác, cho vay các chương tình dự án lớn có
hiệu quả đồng thời mở rộng cho vay hộ sản xuất hợp tac sản xuất được coi là
những biện pháp chú trọng của Ngân hàng Nông nghiêp kế hoạch tăng
trưởng.
Tháng 2 năm 1999 Chủ tịch Quản trị ban hành Quyết định số
234/HĐQT-08 về quy định quản lý điều hành hoạt động kinh doanh ngoại
hối trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam. Tập trung thanh toán quốc tế về Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt nam ( Sở giao dịch được thành lập thay thế Sở
giao dịch kinh doanh hối đoái, Sở giao dịch là đấu mối vốn cả nội và ngoại
tệ của toàn hệ thống) Sở Giao dịch II không làm đầu mối thanh toán quốc tế.
Tài khoản NOSTRO tập trung về Sở giao dịch. Tất cả các chi nhánh đều nối
mạng SWIFT trực tiếp với Sở giao dịch. Các chi nhánh tỉnh thành phố đều
được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
8
Năm 2000 cùng với việc mở rộng kinh doanh trên thị trường trong nước,
NHNo tích cực mở rộng quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại, nhân
được sự tài trợ của các tố chức tài chính tín dụng quốc tế như WB, ADB,
IFAD, ngân hàng tái thiết Đức… đổi mới công nghệ, đào tạo nhân viên.,
Tiếp nhân và triển khai có hiêu quả có hiệu quả 50 Dự án nước ngoài với
tổng số vốn trên 1300 triệu USD chủ yếu đầu tưu vào khu vực kinh tế nông
nghiệp, nông thôn. Ngoài hệ thống thanh toán quốc tế qua mang SWIFT,
NHNo đã thiết lập được hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử, máy rút
tiền tự động ATM trong toàn hệ thống., Tiến hành đổi mới toàn diện mô
hình tổ chức, màng lưới kinh doanh theo hương tinh giảm trung gian, tăng
năng lực cho các đơn vị trực tiếp kinh doanh., Đổi mới công tác quản trị
điều hành, quy trình nghiệp vụ theo hướng đơn giản hoá các thủ tục tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng., Tập trung mọi nguồn lực đào tạo cán bộ
nhân viên theo hướng chuyên mon hoá., tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật,
hiện đại hoá công nghệ.
Năm 2001 là năm đầu tiên NHNo triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu
với các nội dung chính sách là cơ cấu lại nợ, lành mạnh hoá tài chính, nâng
cao chất lượng tài sản có, chuyển đổi hệ thống kế toán hiện hành theo chuẩn
mực quốc tế đôi mới sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo mô hình NHTM hiện
đại tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ tập trung đổi mới công nghệ
ngân hàng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại.
Bên cạnh mở rộng kinh doanh trên thị trường trong nước, năm 2002,
NHNo tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Đến cuối năm 2002
NHNo là thành viên của APRACA, CICA và ABA, trong đó Tổng Giám
đốc NHNo là thành viên chính thức Ban điều hành của APRACA và CICA
Năm 2003 NHNo và PTNTVN đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án Tái cơ
cấu nhằm đưa hoạt động của NHNo&PTNT VN phát triển với quy mô lớn
9
chất lượng hiệu quả cao Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ
đổi mới, đóng góp tích cực và rất có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp - nông thôn, Chủ tịch nước CHXHCNVN đã ký quyết định số
226/2003/QD/CTN ngày 07/05/2003 phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao
động thời kỳ đổi mới cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam.
Tính đến năm 2004, sau 4 năm triển khai thực hiện Đề án tái cơ câu
giai đoạn 2001-2010, Ngân hàng Nông nghiệp đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ. Tình hình tài chính đã được lành mạnh hơn qua việc cơ cấu
lại nợ và tăng vốn điều lệ, xử lý trên 90% nợ tồn động. Mô hình tổ chức
từng bước được hoàn thiện nhằm tăng cường năng lực quản trị điều hành.
Bộ máy lãnh đạo từ trung ương đến chi nhánh được củng cố, hoàn thiện,
quyền tự chủ trong kinh doanh được mở rộng hơn.
Đến cuối năm 2005, vốn tự có của NHNo&PTNT VN đạt 7.702tỷ
VND, tổng tài sản có trên 190 ngàn tỷ , hơn 2000 chi nhánh trên toàn quốc
và 29.492 cán bộ nhân viên (chiếm 40% tổng số CBCNV toàn hệ thống
ngân hàng Việt Nam), ứng dụng công nghệ hiện đại, cung cấp những sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo…...Đến nay, tổng số Dự án nước ngoài
mà NHNo&PTNT VN tiếp nhận và triển khai là 68 dự án với tổng số vốn
2.486 triệu USD, trong đó giải ngân qua NHNo là 1,5 tỷ USD. Hiện nay
NHNo&PTNT VN đã có quan hệ đại lý với 932 ngân hàng đại lý tại 112
quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên của nhiều tổ chức, hiệp hội tín
dụng có uy tín lớn.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được khẳng định là
ngân hàng chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nông thôn, đồng thời
là ngân hàng thương mại đa năng, giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống ngân
10