Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Điều trần trong hoạt động giám sát của quốc hội ở việt nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.6 KB, 92 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Như vậy, giám sát là
một trong ba chức năng quan trọng của Quốc hội. Trong tiến trình tồn tại và
phát triển của mình, Quốc hội đã thực hiện ngày càng hiệu quả các chức năng
hiến định nêu trên, đặc biệt là trong những khóa Quốc hội gần đây, chất lượng
hoạt động giám sát của Quốc hội ngày càng được nâng cao, xứng đáng là cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri cả nước.
Tuy nhiên, đứng trước những bối cảnh mới. Việc hội nhập sâu rộng
quốc tế và khu vực mang lại nhiều thời cơ nhưng cũng tạo ra khơng ít thách
thức. Những tác động tiêu cực của việc suy thoái kinh tế thế giới đang từng
ngày, từng giờ tác động đến nền kinh tế nước ta. Ở trong nước, tham nhũng,
lãng phí và tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống đang trở thành vấn đề nóng
tại diễn đàn Quốc hội. Để có thể tranh thủ, tận dụng những thời cơ và hạn chế
những tiêu cực, vượt qua các thách thức, xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Quốc hội cần tiếp
tục đổi mới hoạt động nói chung, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám
sát nói riêng.
Mặc dù đã đạt được những bước tiến quan trọng, song hoạt động giám
sát của Quốc hội nước ta vẫn còn hạn chế, tồn tại, chưa phúc đáp được yêu
cầu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Hoạt động giám sát vẫn chủ yếu tập trung tại kỳ họp Quốc hội
thông qua giám sát chuyên đề và các phiên chất vấn, việc giám sát thường
xuyên, kịp thời giữa hai kỳ họp chưa tiến hành được nhiều. Ngoài phiên họp
toàn thể, hoạt động giám sát của các cơ cấu của Quốc hội như: Ủy ban thường


2


vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (sau đây gọi tắt
là các Ủy ban của Quốc hội) chưa phúc đáp đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ, nhiều
hình thức và cơng cụ giám sát chưa được sử dụng chính thức…
Trên thực tế, trong thời gian vừa qua, một số Ủy ban của Quốc hội đã
áp dụng thí điểm hoạt động điều trần và đã đưa lại những lợi ích nhất định
trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của Ủy ban (chẳng hạn như ở Ủy
ban Tư pháp; Ủy ban Các vấn đề xã hội; Hội đồng Dân tộc; Ủy ban Khoa học,
Công nghệ và Môi trường; Ủy ban Pháp luật … của Quốc hội Việt Nam).
Điều trần là một trong những công cụ giám sát hữu hiệu của các cơ quan của
Quốc hội, nhưng do chưa được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm
pháp luật, nhất là chưa có cơ chế tiến hành nên việc triển khai điều trần ở
Quốc hội nước ta không thống nhất, lúng túng và hiệu quả chưa cao.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 271/NQ-UBTVQH13 ngày
01/11/2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về một số cải tiến, đổi mới để
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội (sau này được thay
bằng Nghị quyết số 27/2012/NQ-QH13 ngày 21/6/2012 của Quốc hội) đã quy
định việc tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động giải trình, tăng cường
hoạt động thơng tin đại chúng, nghiên cứu việc tổ chức chất vấn và trả lời
chất vấn tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, tạo cơ sở
pháp lý cho việc định hướng, hồn thiện chế định về điều trần.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động giám sát của các Ủy ban của Quốc hội là một việc làm rất cần thiết
và có ý nghĩa. Bên cạnh việc tiếp tục cải tiến các hình thức giám sát được sử
dụng phổ biến trong thời gian qua như: Thẩm tra các báo cáo của Chính phủ,
Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao , tổ chức Đoàn giám
sát, giám sát chuyên đề, giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, các


3
Ủy ban của Quốc hội cũng cần được cung cấp các thông tin, nội dung nghiên

cứu về những phương thức, hình thức giám sát phổ biến ở Ủy ban của nghị
viện các nước trên thế giới như điều trần (hearings) để vận dụng một cách
thích hợp vào bối cảnh Việt Nam.
Từ cách đặt vấn đề trên đây, tác giả đã chọn đề tài: “Điều trần trong
hoạt động giám sát của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Lý luận và
lịch sử Nhà nước và Pháp luật tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc Gia
Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến điều trần tại các Ủy ban của Quốc hội, trong thời gian
qua, đã có khơng ít cá nhân và tổ chức tiến hành nghiên cứu dưới hình thức
sách, đề tài khoa học, luận án, báo cáo nghiên cứu chuyên đề, các bài báo, tạp
chí khoa học. Các nghiên cứu này tập trung vào một số vấn đề sau đây:
- Ngô Đức Mạnh, “Suy nghĩ về việc đổi mới tổ chức các Ủy ban của
Quốc hội”, Hiến kế lập pháp, số 5/2006; “Vai trò của các Ủy ban trong hoạt
động lập pháp của Quốc hội” Văn phòng Quốc hội, 28-29/6/2007.
- Luận án Tiến sĩ luật học “Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp
của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” (2007), của nghiên cứu sinh Trần Hồng Nguyên.
- GS.TS Trần Ngọc Đường “Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của
Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội - Thực trạng và giải pháp”,
Nghiên cứu lập pháp, số 113, tháng 1/2208.
- GS.TS Trần Ngọc Đường, Phát huy vai trò của Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động lập pháp, Bài viết tại Hội thảo
“Hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn” Viện nghiên cứu lập pháp, 8/2010.


4
- Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học, “Xây dựng

quy trình làm việc mẫu của các Ủy ban của Quốc hội”, Hà Nội, 2008.
- Sách: Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của
Quốc hội của tác giả Trương Thị Hồng Hà, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2009.
- Bài: Về cách tiếp cận quyền giám sát của Quốc hội của tác giả
Hoàng Thị Ngân, in trong sách: Giám sát và cơ chế thực hiện quyền giám sát
việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2003.
- Bài: Quyền giám sát tối cao và một số suy nghĩ về việc nâng cao hiệu
lực và hiệu quả thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
của tác giả Trần Ngọc Đường, in trong Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp Bộ năm
2000 - 2001: Tăng cường giám sát của Quốc hội nước ta hiện nay, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Bài: Một vài suy nghĩ về nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội của tác giả Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Quốc Thắng, in trong Kỷ
yếu Hội thảo khoa học về hoạt động giám sát của Quốc hội của Quốc hội, Văn
phòng Quốc hội, Hà Nội, 1999.
- Đề tài khoa học: Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Báo
cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2000-2011.
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khoá XII, “Báo cáo kết quả đoàn nghiên
cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội Đức và Na Uy”, Hà nội, 4/2010.
- Đinh Thi Minh Thư, Mở rộng các hình thức liên hệ cử tri, Báo Đại
biểu nhân dân, 12/4/2010.


5
- Đồn Đình Anh, Điều trần ở HĐND tỉnh Hà Tĩnh, Báo Đại biểu nhân
dân, 30/7/2010.

- Nguyến Hải Long, Vấn đề pháp lý về điều trần, chất vấn tại Hội đồng
Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam, Trung tâm bồi dưỡng đại
biểu dân cử.
- Báo cáo nghiên cứu Điều trần tại Ủy ban : Nghiên cứu khả năng áp
dụng ở Việt Nam do nhóm tác giả: Nguyễn Đức Lam, Hoàn g Minh Hiếu,
John Patterson, Kit Dawnay thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường
năng lực của các cơ quan đại diện ở Việt Nam”.
Qua khảo sát cho thấy, phần lớn các cơng trình nghiên cứu nói trên tập
trung nghiên cứu chung về giám sát của cơ quan dân cử, trong đó có đề cập một
cách sơ lược về điều trần tại các Ủy ban của Quốc hội.
Một số ít cơng trình nghiên cứu trực tiếp về hoạt động điều trần, tuy nhiên
các cơng trình đó mới đề cập đến một số khía cạnh của điều trần như vấn đề
pháp lý, kinh nghiệm các nước mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện
về lý luận và tổng kết thực tiễn điều trần ở Việt Nam, do vậy việc lựa chọn đề tài
“Điều trần trong hoạt động giám sát của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn” ở Việt Nam là không trùng lặp với các công trình
khoa học đã được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn này là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về điều trần ở các nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam, qua đó đề
xuất hệ thống các giải pháp bảo đảm điều trần trong hoạt động giám sát của
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ


6
- Tìm hiểu làm rõ khái niệm của điều trần, phân biệt sự khác nhau giữa
điều trần và chất vấn, điều trần và báo cáo giải trình được áp dụng trong hoạt
động của các Ủy ban của Quốc hội.

- Nghiên cứu hoạt động điều trần tại một số quốc gia trên thế giới,
trong đó tập trung vào các vấn đề cơ bản như mơ hình, tổ chức, thẩm quyền,
phạm vi, thủ tục, loại hình, thời hạn, từ đó rút ra được những bài học kinh
nghiệm cho các Ủy ban ở Quốc hội nước ta.
- Tìm hiểu về khn khổ pháp lý và thực tiễn hoạt động điều trần trong
hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội nước ta.
- Đề xuất giải pháp bảo đảm điều trần trong hoạt động giám sát của
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả lựa chọn nghiên cứu về
điều trần trong hoạt động giám sát của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, với
mục đích tìm hiểu, làm rõ khái niệm điều trần được áp dụng trong bối cảnh
hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội; Nghiên cứu, so sánh kinh nghiệm
trong hoạt động điều trần của một số nước trên thế giới trong việc triển khai
áp dụng thủ tục điều trần, để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho các
Ủy ban ở Quốc hội nước ta; Tìm hiểu khn khổ pháp lý và các thực tiễn hoạt
động của các Ủy ban của Quốc hội nước ta, từ đó đề xuất giải pháp bảo đảm
điều trần trong hoạt động giám sát của Quốc hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn này là chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề về Nhà nước và Pháp luật; quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn hiện nay, về đổi mới tổ chức của Quốc hội nói chung, tổ
chức và hoạt động giám sát của Quốc hội nói riêng.


7
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát, kết hợp với
phương pháp phân tích các tư liệu, tài liệu, báo cáo cơng tác có liên quan đến

tổ chức và hoạt động giám sát của Quốc hội.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Về lý luận, luận văn đã tập trung phân tích khái niệm, bản chất của
điều trần và các đặc trưng của hoạt động điều trần, vai trò của điều trần trong
hoạt động giám sát của Quốc hội.
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng hoạt động điều trần tại Ủy ban
của nghị viện các nước và thực tiễn hoạt động điều trần tại một số Ủy ban của
Quốc hội Việt Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp bảo đảm điều trần trong hoạt động giám sát
của Quốc hội ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc bổ sung cơ sở lý
luận về hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung, hoạt động điều trần trong
hoạt động giám sát của Quốc hội nói riêng.
Ngồi ra, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho các nhà lập pháp, trong q trình sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội ở
nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, cụ thể là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về điều trần trong hoạt động giám sát của
Quốc hội;
Chương 2: Thực trạng điều trần trong hoạt động giám sát của Quốc hội
ở nước ta hiện nay.


8
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm điều trần trong hoạt động
giám sát của Quốc hội ở nước ta hiện nay.



9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRẦN TRONG HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA ĐIỀU TRẦN TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁM
SÁT CỦA QUỐC HỘI

1.1.1. Khái niệm
Để có thể hiểu rõ về khái niệm điều trần, trước hết, chúng ta cần có sự
so sánh và phân biệt về hai khái niệm Điều trần và Chất vấn.
1.1.1.1.Điểm tương đồng
- Cùng phục vụ cho hoạt động lập pháp;
- Đều do các nghị sỹ tiến hành;
- Đều có mục đích thu thập, xử lý thơng tin;
- Cùng có mục tiêu làm rõ trách nhiệm (ở cấp độ khác nhau);
- Đều có sự chứng kiến của các cơ quan thơng tấn, báo chí, truyền hình
và cơng chúng
1.1.1.2. Điểm khác biệt
* Về mục đích:
- Chất vấn là để làm rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền. Chất vấn là một dạng hình của hoạt động giám sát và tại nhiều quốc
gia, chất vấn được coi là một trong các hoạt động giám sát mang lại hiệu quả
nhất, vì nó buộc người bị chất vấn phải nhìn nhận trách nhiệm của mình.
- Điều trần giúp làm sáng tỏ vấn đề. Điều trần vừa là công cụ giám sát
của Quốc hội, vừa phục vụ cho hoạt động lập pháp. Cũng có nước sử dụng
điều trần để làm rõ trách nhiệm một ai đó, đối với vụ việc riêng biệt nào đó,
trong trường hợp này, Quốc hội thành lập một Ủy ban lâm thời với một nhiệm
vụ cụ thể. Nhiệm vụ của Ủy ban này sẽ điều tra về một vấn đề nhất định và



10
giải tán sau khi hồn thànhnhiệm vụ. Thơng thường đa số trường hợp hoạt
động điều trần do các Ủy ban thường trực của Quốc hội tiến hành để phục vụ
hoạt động lập pháp. Do mục đích của điều trần là để làm sáng tỏ vấn đề liên
quan đến lập pháp, vì vậy rất cần thiết để Ủy ban có thể thu thập thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau.
* Về thủ tục tiến hành hoạt động chất vấn và điều trần:
- Đối với hoạt động chất vấn: Thủ tục thường chặt chẽ hơn với khoảng
thời gian định trước cho các câu hỏi và câu trả lời. Thành phần tham gia chất
vấn chỉ bao gồm các nghị sỹ và đại diện có thẩm quyền từ phía Chính phủ.
Chất vấn thường được tổ chức tại phiên họp toàn thể của Quốc hội.
- Đối với hoạt động điều trần: Mang tính “mở” hơn khi cho phép các
nhà nghiên cứu, các chuyên gia, đại diện các tổ chức xã hội, các nhóm lợi
ích…được tham gia vào quá trình này. Thực tế cho thấy, các tranh luận thực
sự thường diễn ra tại các cuộc họp Ủy ban, nơi có điều kiện để thảo luận chi
tiết hơn và thủ tục thảo luận cũng cởi mở hơn.
* Về hệ quả pháp lý của chất vấn và điều trần
- Chất vấn có hệ quả xã hội to lớn khi thu hút sự chú ý rộng rãi của
công luận. Lịch chất vấn dày đặc tại nghị viện nhiều nước tạo ra sức ép để
Chính phủ có trách nhiệm hơn khi đối mặt với vấn đề. Chất vấn có hệ quả
chính trị đặc biệt, bởi sau chất vấn, người ta còn có thể đặt vấn đề ủng hộ hay
phản đối hoạt động của Chính phủ, có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm hay thậm chí
Chính phủ phải từ chức.
- Hệ quả của điều trần có vẻ “nhẹ nhàng” hơn, bởi từ những tranh luận
công khai, ý tưởng lập pháp hoặc các giải pháp quản lý, điều hành của Chính
phủ, các Bộ sẽ dần được Hoàn thiện, và hệ quả sẽ là một phương án mới
được lựa chọn cho tương lai. Vì vậy các Ủy ban với vai trò là trung tâm của
quy trình lập pháp có vẻ như “gần gũi” với hoạt động điều trần hơn.



11
* Về mặt thuật ngữ:
Nghĩa gốc tiếng Anh của điều trần là “nghe” (hearings). Ủy ban của
Quốc hội “nghe” tất cả các bên liên quan cung cấp thông tin, lập luận, chứng
cứ về một vấn đề trong giám sát, trong lập pháp, để làm sáng tỏ hơn vấn đề
đó. Nghĩa gốc tiếng Anh của chất vấn là “đặt câu hỏi” (question).
Theo Từ điển tiếng Việt thì chất vấn là hỏi và yêu cầu phải giải thích rõ
ràng. Điều trần là trình bày chính thức trước cơ quan đại diện nhà nước để
giải thích, biện bạch … về vấn đề nào đó mà mình chịu trách nhiệm.
Qua so sánh trên có thể thấy, chất vấn và điều trần là hai hoạt động
khác nhau, không thể đồng nhất hai hoạt động này làm một. Ngoài ra, điều
trần cũng khác với những hoạt động khác tại Ủy ban như điều tra, chất vấn tại
Ủy ban. Điều trần nhằm vào những vấn đề chính sách, khác với hoạt động
điều tra của nghị viện vốn chỉ nhằm vào những vụ việc cụ thể. Điều trần cũng
khơng phải là chất vấn ở Ủy ban, vì chất vấn là hoạt động chỉ diễn ra tại phiên
họp toàn thể của nghị viện, nhằm truy trách nhiệm chính trị của Chính phủ,
trong khi điều trần dừng ở thu thập thơng tin, mặc dù thơng tin này có thể là
cơ sở để nghị sỹ chất vấn sau này.
* Thực tiễn hoạt động của nghị viện ở các nước trên thế giới cho thấy,
điều trần là phiên họp của Ủy ban nghị viện một số nước như Mỹ, Canada,
Úc, Braxin, Thụy Điển, Na Uy, Philippines …, thường là mở công khai, để
thu thập thông tin và ý kiến về một dự luật nào đó, hoặc để tiến hành điều tra
về một vấn đề thời sự nào đó, hoặc để giám sát, đánh giá hoạt động của Chính
phủ hoặc việc thực thi pháp luật. Trong một số trường hợp, điều trần Hoàn
toàn mang tính chất giải thích, cung cấp những chứng cứ hoặc số liệu về một
vấn đề đang diễn ra. Trong tài liệu Types of Commiitee Hearings, richard C
đã liệt kê bốn loại điều trần cơ bản như sau:
+ Điều trần lập pháp;



12
+ Điều trần giám sát;
+ Điều trần điều tra;
+ Điều trần thông báo.
Phần lớn nghị viện các nước đều quy định việc hoạt động điều trần
để thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban, nói cách khác, điều trần được xem là
một công cụ để thực hiện các nhiệm vụ mà Ủy ban được giao, khơng giới
hạn đó là nhiệm vụ lập pháp hay giám sát. Ví dụ, Điểm d, Khoản 4, Điều
37 Nội quy Hạ nghị viện Cộng hòa Indonesia quy định các Ủy ban có thể
tổ chức các cuộc điều trần công khai để thực hiện các nhiệm vụ của Ủy
ban. Điều 76, Điều 77, Nội quy của Hạ nghị viện Nhật Bản ghi nhận một
Ủy ban có thể tiến hành hoạt động điều trần công khai để xem xét các giải
pháp được chuyển tới Ủy ban mình hoặc để thực hiện các nghiên cứu sơ bộ
theo sáng kiến của mình.
* Khái niệm điều trần:
Từ những phân tích trên và tham khảo khái niệm điều trần của một số
chuyên gia, chúng tơi cho rằng: Điều trần là một hình thức hoạt động do các
Ủy ban của nghị viện tiến hành nhằm thu thập thông tin (ý kiến, quan điểm,
chứng cứ, dữ liệu v.v…) về những vấn đề chính sách từ các cơ quan thuộc
Chính phủ, các chuyên gia, các tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân
công dân nhằm mục đích tăng cường chất lượng của q trình ban hành
quyết định.
Ở nước ta, thay vì sử dụng thuật ngữ “điều trần”, các văn bản pháp luật
sử dụng thuật ngữ “báo cáo, giải trình trước Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội”. Đối chiếu mục đích, ý nghĩa và nội dung của hoạt động “báo
cáo, giải trình” với “điều trần” có thể nói rằng, hoạt động báo cáo, giải trình ở
nước ta là cách gọi khác của điều trần. Tuy nhiên, giữa điều trần được áp
dụng trong hoạt động của nghị viện ở các nước trên thế giới và điều trần thực



13
hiện ở Việt Nam có những điểm khác biệt. Cụ thể sẽ được phân tích ở những
phần sau.
1.1.2. Vai trị của điều trần
Như đã đề cập ở trên, điều trần là một hình thức của hoạt động giám sát.
Chính vì vậy, chúng ta cũng cần nghiên cứu về điều trần trong mối tổng hịa với
các hình thức khác của hoạt động giám sát của Quốc hội.
Trong giám sát, Quốc hội sử dụng các công cụ khác nhau để đạt tới
những mục tiêu giám sát khác nhau. Một số công cụ được sử dụng để giám
sát về mặt nội dung, một số khác về mặt pháp lý, một số khác nữa về mặt kinh
tế. Các thiết chế được thành lập cũng nhằm phục vụ từng mục tiêu giám sát cụ
thể. Mục tiêu giám sát của các thiết chế này có thể là về nội dung, về pháp lý
hoặc về kinh tế hoặc là phối hợp giữa các mục tiêu trên.
Theo ông Magnus Isberg, chuyên gia của Quốc hội Thụy Điển về giám
sát, có thể chia các cơng cụ và các mục đích của chúng theo bảng dưới đây:
Bảng 1.1: Các cơng cụ giám sát cơ bản

Quốc hội

Các Ủy ban

Cá nhân các
đại biểu
Quốc hội
Các thiết chế
do Quốc hội
thành lập

Giám sát về mặt

nội dung
1.Các cuộc thảo luận
chung
2.Các cuộc thảo luận
chuyên đề
3. Bỏ phiếu tín nhiệm
1.Thẩm tra
2.Điều tra
3.Điều trần
1.Hỏi đáp
2.Chất vấn
3.Kiến nghị

Giám sát về mặt
pháp lý

1.Xử lý vấn đề dân
nguyện
2.Điều tra

Giám sát về mặt
kinh tế
1.Các cuộc thảo luận về
ngân sách

1.Xem xét chi tiêu công
2.Điều tra
3.Điều trần

1.Thanh tra Quốc hội 1.Kiểm tốn

2.Tịa kiểm tốn


14
Như vậy, qua bảng trên, ta có thể hình dung một cách cụ thể hơn về vai trò
của điều trần trong hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung và hoạt động
giám sát tại các Ủy ban của Quốc hội nói riêng.
Với mục đích thu thập thơng tin (ý kiến, quan điểm, chứng cứ, dữ liệu…)
về những vấn đề chính sách, phục vụ các hoạt động như thẩm tra các dự luật,
giám sát các chính sách và hoạt động của Chính phủ. Vì vậy, vai trị quan trọng
nhất của hoạt động điều trần là thu thập thông tin để các nghị sỹ, có cơ sở đánh
giá, xem xét các vấn đề được đưa ra thảo luận ở Ủy ban, cung cấp những chứng
cứ có sức thuyết phục, phục vụ cho việc đưa ra các quyết định của Ủy ban. Các
thông tin được thu thập tại các phiên điều trần đến từ rất nhiều nguồn đa dạng
khác nhau như: Từ các nhân chứng đến từ các cơ quan Chính phủ, các thành
viên Ủy ban, các học giả, các nhóm lợi ích… Qua thơng tin thu thập được, các
nghị sỹ có thể phần nào xác định được liệu Quốc hội nên có những quyết định
như thế nào cho phù hợp với những vấn đề đang được đặt ra.
Theo tác giả cuốn “Quốc hội và các thành viên”, các phiên điều trần là
những diễn đàn cho các cuộc tranh luận công khai. Thơng qua đó các Ủy ban
giúp xoa dịu, dung Hịa, giải toả tình trạng căng thẳng trong đời sống chính
trị. Hoạt động điều trần đóng vai trị quan trọng trong việc tạo điều kiện cho
công dân, các tổ chức trong xã hội vốn lâu nay có nhiều điều bức xúc được
dịp lên tiếng, “trút nỗi bực dọc”, qua đó sự căng thẳng trong xã hội chùng
xuống bất kể các đạo luật hoặc các vấn đề được Ủy ban xem xét có thể được
thơng qua hay khơng.
Tóm lại, hoạt động điều trần có một số vai trị cơ bản như sau:
Thứ nhất, điều trần là kênh để các Ủy ban của cơ quan lập pháp thu
thập thông tin về những vấn đề quan tâm. Vai trò quan trọng nhất của điều
trần là thu thập thông tin để các Ủy ban của cơ quan lập pháp có cơ sở đánh

giá, xem xét các vấn đề được đưa ra thảo luận, cung cấp những chứng cứ có


15
sức thuyết phục phục vụ cho việc đưa ra các quyết định của Ủy ban. Các
thông tin được thu thập tại các phiên điều trần đến từ nhiều nguồn rất đa dạng
khác nhau như từ các nhân chứng đến từ các cơ quan Chính phủ, các thành
viên Ủy ban, các học giả, các nhóm lợi ích. Qua thơng tin thu nhận được, các
Ủy ban có thể phần nào xác định được liệu Quốc hội nên có những quyết định
như thế nào cho phù hợp với những vấn đề đang được đặt ra, chính vì vậy, tại
các phiên điều trần, các bên tham gia điều trần, trong đó có các nghị sỹ chủ
yếu có những hành vi để nắm thơng tin.
Thứ hai, điều trần là một hình thức để cơ quan lập pháp thực hiện
quyền giám sát đối với hoạt động của hành pháp. Để đánh giá việc chấp hành,
thực hiện các kiến nghị giám sát thì trước hết, các Ủy ban - chủ thể tiến hành
các hoạt động giám sát đơn lẻ hoặc các cơ quan giúp việc được phân công cần
theo dõi sát sao việc triển khai thực hiện các kiến nghị của các đối tượng giám
sát, bên cạnh hoạt động chất vấn thì hoạt động điều trần tại các Ủy ban của
nghị viện với tính chất đặc trưng là cơng khai, minh bạch đóng vai trị quan
trọng, thiết thực là hình thức để cơ quan lập pháp thực hiện quyền giám sát
đối với hoạt động của cơ quan hành pháp.
Thứ ba, điều trần tạo diễn đàn cho các thành viên của cơ quan đại diện
và cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy hành pháp trao đổi thảo luận về
những vấn đề mà dư luận quan tâm. Việc áp dụng các phiên điều trần tại các
Ủy ban giúp cho các thành viên Ủy ban phát huy khả năng chun mơn của
mình; có điều kiện trao đổi, thảo luận, đi sâu vào những vấn đề mà dư luận
quan tâm; đồng thời có điều kiện theo dõi tốt hơn các hoạt động của ngành
hành pháp trong lĩnh vực mình phụ trách cũng như dễ dàng hơn trong việc
tạo ra mạng lưới các mối quan hệ có liên quan đến cơng việc của mình.
Thơng qua kết quả của phiên điều trần, các thành viên còn lại cũng sẽ cảm

thấy yên tâm hơn với những thông tin nhận được từ những nghị sỹ có kinh


16
nghiệm về lĩnh vực mà nghị viện đang xem xét thông qua, các quyết định
của nghị viện sẽ phù hợp hơn với yêu cầu thực tế và nhận được sự ủng hộ
rộng rãi của cơng chúng.
Thứ tư, điều trần góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước. Điều trần không chỉ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc
hội mà còn giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành pháp. Các
chuyên gia phương Tây vẫn thường nói, Ủy ban là cơng xưởng của Quốc hội,
là nơi làm việc thật sự, còn phiên họp tồn thể của Nghị viện chủ yếu là nơi
trình diễn. Và để Ủy ban đóng vai trị là cơng xưởng thì điều trần đóng một
vai trị khơng nhỏ. Tại phiên điều trần các đại biểu nghe được ý kiến nhiều
chiều trong đó có các chuyên gia và các nhóm lợi ích. Chính vì vậy, chức
năng đại diện trong trường hợp này cũng được phát huy tối đa bởi nghị sĩ sẽ
nghe và hiểu được tác động của chính sách tới các nhóm đối tượng mà họ
đại diện.
Đối với hành pháp cũng vậy, thông qua điều trần, cơ quan hành pháp có
cơ hội tiếp thu thêm các ý kiến của chun gia, có thêm nhiều góc nhìn, và từ
đó hình thành các giải pháp, chính sách phù hợp hơn với cuộc sống.
Như vậy, có thể nói rằng, điều trần góp phần thúc đẩy sự tương tác giữa
lập pháp và hành pháp trong việc ban hành và thực thi chính sách, điều trần
thúc đẩy sự năng động của chính quyền và chính vì vậy, tăng cường hiệu quả
của bộ máy nhà nước.
1.2. NỘI DUNG, LỢI ÍCH CỦA ĐIỀU TRẦN

1.2.1. Nội dung của điều trần
Chủ thể của điều trần
Chủ thể của điều trần là tất cả các Ủy ban của Quốc hội, bao gồm:

+ Ủy ban thường trực;
+ Ủy ban lâm thời;


17
+ Ủy ban điều tra;
+ Ủy ban nghiên cứu.
Về sự tham gia của các thành viên của Ủy ban, do tính chất thu thập
thơng tin và khơng đưa ra các quy định cụ thể của phiên điều trần, nên yêu
cầu về số lượng tối thiểu các nghị sỹ có mặt tại phiên điều trần là không khắt
khe như các phiên họp chính thức của Ủy ban. Thơng thường quy định ở nghị
viện của một số nước yêu cầu khoảng một phần ba số lượng thành viên của
Ủy ban phải có mặt tại phiên điều trần, trong khi đó ở một số nghị viện khác
chỉ cần vài ba nghị sỹ có mặt. Bên cạnh đó ở một số nghị viện khác, để giảm
tải cho các hoạt động của Ủy ban hoặc do quy mô của Ủy ban quá lớn, các
hoạt động điều trần có thể được tiến hành bởi các tiểu ban của Ủy ban.
Đối tượng của điều trần
Đối tượng của hoạt động điều trần rất phong phú, đa dạng và thường
liên quan trực tiếp đến các nội dung công việc mà các Ủy ban được giao thực
hiện và bắt buộc trong một số trường hợp:
+ Liên quan đến ngân sách hoặc có tác động làm giảm nguồn thu ngân sách;
+ Khi đã nhận được các kiến nghị của cử tri.
Thông thường trước khi diễn ra phiên điều trần, Ủy ban cần phải quyết
định có cần đưa một vấn đề ra tiến hành điều trần hay không. Các Ủy ban
phải quyết định xem họ cần thơng tin gì và các vấn đề cần trao đổi, sau đó
xem xét liệu điều trần có phải là phương thức tốt nhất để đạt được các mục
đích đó hay khơng.
Đối tượng tham gia điều trần
Những đối tượng được tham gia phát biểu ý kiến tại các phiên điều trần
có thể là các Bộ trưởng, các cơng chức, các chun gia trong các lĩnh vực có

liên quan, đại diện của các tổ chức xã hội hoặc các đơn vị nghiên cứu khoa
học. Chẳng hạn ở Mỹ, những người được mời tham dự các phiên điều trần có


18
thể là những người vận động hành lang, các chuyên gia, người của Lầu Năm
Góc, người của Phố Wall, nhà buôn, Luật sư, Thẩm phán. Tất cả đều muốn
lên tiếng tại “cơ quan lập pháp nhỏ” này, nơi mà những báo cáo Ủy ban có thể
có tiếng nói quyết định lên tiến trình biểu quyết ở phiên họp tồn thể.
Nghị viện ở các nước khác nhau có thể lựa chọn những người được mời
tham dự phiên họp điều trần theo các phương thức khác nhau. Một số nghị
viện chọn những người đã có kiến nghị gửi đến trước cho nghị viện được
tham dự và phát biểu tại các phiên điều trần (như ở Malaysia), trong khi một
số nghị viện sử dụng cách thức thông báo và lựa chọn những người dân có
quan tâm và đã đăng ký tham dự (như ở Philippines).
Để bảo vệ khuyến khích các nhân chứng được mời đến phiên điều trần,
pháp luật một số nước đã quy định cho họ những đặc quyền tương tự như đặc
quyền của nghị sỹ, Ví dụ:
+ Ở Australia, các nhân chứng có thể cung cấp chứng cứ cho phiên
điều trần mà không sợ vị kiện về tội vu khống, thông tin mà họ cung cấp cho
Ủy ban trong phiên điều trần không được sử dụng để chống lại họ trong các
vụ kiện tụng có thể xảy ra về sau, các nhân chứng cũng được bảo vệ trước
mọi sự hăm doạ hay ý đồ khác nhằm ngăn cản việc cung cấp chứng cứ.
Bên cạnh đó nhiều nghị viện cũng có quyền bắt buộc các nhân chứng
phải tham gia các phiên điều trần của Ủy ban. Tuy nhiên, trên thực tế thì thẩm
quyền này ít khi được áp dụng.
Thời điểm tổ chức điều trần
Thơng thường các phiên điều trần có thể tổ chức bất kỳ lúc nào, trừ khi
có những hoạt động khác của nghị viện, ví dụ khi sắp xếp thời điểm tiến hành
điều trần, các Ủy ban thường phải tính tốn để khơng bị trùng với các hoạt

động khác của Ủy ban, của Ủy ban khác và của cá nhân nghị sỹ để các nghị
sỹ có thể tham gia một cách thuận lợi nhất.


19
Các Ủy ban thường phải thông báo muộn nhất là một tuần trước khi
tiến hành phiên điều trần về:
+ Địa điểm;
+ Thời gian;
+ Các vấn đề sẽ đưa ra điều trần;
+ Thành phần tham dự.
Những thông tin trên cần phải được cơng bố cơng khai. Ngồi ra các
Ủy ban cịn phải gửi đến các nghị sỹ và những người tham dự các tài liệu cần
thiết như:
+ Giấy mời;
+ Tóm tắt các vấn đề đưa ra điều trần;
+ Danh sách các nhân chứng…
Thủ tục tiến hành điều trần:
Phiên họp điều trần của các Ủy ban thường được tiến hành với các thủ
tục tương tự như các phiên họp chính thức của Ủy ban, tuy nhiên do tính chất
của phiên họp điều trần chủ yếu là để thu thập thông tin, nên thủ tục tiến hành
phiên họp cũng được thực hiện một cách linh hoạt và đơn giản hơn. Cụ thể tại
phiên họp này, nhiệm vụ cơ bản của các thành viên Ủy ban là lắng nghe quan
điểm của các nhân chứng được mời tham gia phiên điều trần. Các thành viên
của Ủy ban có thể đặt các câu hỏi để làm rõ về các vấn đề liên quan, thông
thường, việc lựa chọn các nhân chứng tham gia phát biểu tại phiên điều trần,
phải đảm bảo sự cân bằng về số lượng, các ý kiến phản đối hoặc ủng hộ về
các vấn đề được thảo luận.
Quy trình tiến hành điều trần thường gồm các bước sau:
+ Soạn thảo Đề cương tham chiếu;

+ Mời cơng chúng gửi ý kiến bằng văn bản;
+ Tìm kiếm hỗ trợ từ chuyên gia độc lập;


20
+ Nghe các nhân chứng trình bày (thường kéo dài từ vài giờ đồng hồ
của một phiên hoặc nhiều phiên);
+ Công bố biên bản về nội dung phiên điều trần;
+ Soạn thảo báo cáo về điều trần;
+ Công bố báo cáo và đưa báo cáo vào chương trình nghị sự;
+ Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị trong báo cáo.
Ủy ban không ra quyết định khi tiến hành điều trần như tại các phiên
họp toàn thể của Ủy ban. Để tiến hành điều trần, có thể chỉ cần 1/3 số lượng
thành viên Ủy ban (như ở Thượng viện Philippines) hoặc trong nhiều trường
hợp, chỉ cần có sự tham gia của vài nghị sỹ.
Thời gian một phiên điều trần có thể kéo dài từ vài giờ đồng hồ cho đến
hàng tháng.
Sử dụng kết quả điều trần
Nếu chất vấn có hệ quả xã hội to lớn khi thu hút sự chú ý rộng rãi của
công luận. Lịch chất vấn dày đặc tại nghị viện nhiều nước nói chung và ngay
chính tại các kỳ họp của Quốc hội Việt Nam nói riêng đã tạo ra sức ép, để
Chính phủ có trách nhiệm hơn khi đối mặt với vấn đề. Thì hệ quả của điều
trần “nhẹ nhàng” hơn, bởi từ những tranh luận cơng khai, ý tưởng lập pháp sẽ
dần được Hồn thiện, trong hoạt động giám sát, bằng việc sử dụng kết quả
các phiên điều trần, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban có thể:
- Xây dựng báo cáo của Ủy ban về cuộc điều trần;
- Đề xuất kiến nghị với Chính phủ trong Báo cáo điều trần của Ủy ban;
- Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị.
Tuy vậy, có thể thấy rằng, hoạt động điều trần ở các Ủy ban của Quốc
hội là những hoạt động độc lập, nếu có được tổ chức ở nước ta thì nó cũng

khơng nên và không phải là sự tiếp nối của các cuộc chất vấn trước đó tại
Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, không phải là việc giải quyết những


21
“tồn đọng” do chất vấn tại nghị trường khơng có đủ thời gian. Đây là vấn đề
của Ủy ban và mọi hoạt động cũng chỉ “khuôn” lại trong phạm vi các lĩnh vực
Ủy ban phụ trách.
1.2.2. Lợi ích của điều trần
* Lợi ích đối với bộ máy nhà nước
- Những lợi ích đối với Quốc hội: Hoạt động điều trần giúp nâng cao
khả năng cung cấp, truyền đạt thông tin tới Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội, tới đại biểu Quốc hội và các bộ phận giúp việc; từ đó giúp tăng
cường vai trị là cầu nối của Quốc hội giữa Chính phủ và người dân để tạo
nên sự đồng thuận, nâng cao tính cơng khai, minh bạch trong các hoạt động
của Quốc hội, đặc biệt trong chức năng giám sát mà nhân dân giao phó.
Đối với các Ủy ban của Quốc hội: Hoạt động điều trần là cơ hội để các
Ủy ban chính thức giới thiệu các vấn đề đang được thảo luận ra công chúng.
Mặt khác, nhiều phiên điều trần cũng có mục đích đánh giá tình hình thực
hiện một đạo luật đã ban hành trong một thời gian nhất định, qua đó làm cơ sở
để quyết định về việc sửa đổi đạo luật.
Ví dụ [10]: Ủy ban Tài chính và Thuế khố Hạ viện Mỹ đã làm việc
cật lực trong suốt một năm với nhiều phiên điều trần về Luật thuế thu nhập cá
nhân liên bang để quyết định đưa ra Hạ viện; Luật về cải cách thuế năm 1986
với hơn 1.300 điều. Nói tóm lại thơng tin của phiên điều trần dung Hịa tính
chất dân chủ rộng rãi của nghị viện với yêu cầu kiến thức chuyên môn,
chuyên sâu của hoạt động lập pháp. Do tính chất thơng tin này, nên tại các
phiên điều trần, các bên tham gia điều trần trong đó có các nghị sỹ, chủ yếu
có những tác nghiệp để nắm thơng tin.
Ví dụ [10]: Về thu thập thơng tin tại phiên điều trần của Ủy ban Giáo

dục và Lao động của Hạ viện và Thượng viện Mỹ:
Hành vi của những người tham dự tại một phiên điều trần, người ta đã tính
phần trăm của từng hành vi trên tổng số hành vi, dựa trên lượt phát biểu được


22
ghi lại trong biên bản, tại phiên điều trần liên quan đến Luật giáo dục đại học
1965 (Higher Education Act of 1965), Tiểu ban Giáo dục thuộc Ủy ban Giáo dục
và Lao động của Hạ viện Mỹ và Tiểu ban Giáo dục thuộc Ủy ban Giáo dục và
Lao động và Thịnh vượng chung của Thượng viện Mỹ. Trong quá trình điều
trần ở Hạ viện Mỹ có 9 nghị sỹ tham dự, cịn ở Thượng viện có 6 nghị sỹ trong
số 10 thành viên Tiểu ban tham dự. Những hành vi liên quan đến cung cấp thông
tin như: Cung cấp thông tin, hỏi thơng tin, có ý kiến, đề nghị đưa ra ý kiến,
chiếm đến trên dưới 80% tổng số hành vi diễn ra tại phiên điều trần.
* Những lợi ích đối với Chính phủ
Hoạt động điều trần tạo nên một diễn đàn trao đổi, giải trình để đạt sự
đồng thuận giữa các bên liên quan, trong đó có Chính phủ trong quá trình
lập pháp và ra các quyết định, giúp Chính phủ kiểm chứng, đảm bảo rằng
những đề xuất pháp luật hoặc chính sách của Chính phủ đáp ứng được
những địi hỏi khách quan, là một dịp để Chính phủ trả lời, trần tình, giải
thích giúp cơng chúng hiểu hơn về các hoạt động của Chính phủ.
* Lợi ích đối với xã hội
Hoạt động điều trần tạo điều kiện để thơng qua đó, nhân dân có thể
đóng góp ý kiến đối với các hoạt động của Chính phủ, giúp các nhà hoạch
định chính sách tránh những lỗi mắc phải trong q trình soạn thảo và thực thi
pháp luật. Từ đó, chi phí mà xã hội phải bỏ ra khi thực thi các chính sách do
nhà nước ban hành sẽ ít tốn kém hơn.
Mặt khác, khi tiến hành điều trần, tiếng nói của các tầng lớp, các nhóm
đối tượng điều chỉnh đều được lắng nghe, đo đó, sẽ đảm bảo tốt hơn sự cơng
bằng xã hội của chính sách.

* Lợi ích đối với nền dân chủ
Điều trần cũng có tác dụng thu hút sự chú ý của cơng chúng, vì đây là
một kênh truyền tải thông tin đến công chúng, một khâu được tổ chức rầm rộ


23
nhất và là một phần trong chiến lược chung nhằm biến dự luật thành luật. Một
phiên điều trần có khả năng thu hút sự chú ý vì mời được những nhân chứng
với những trải nghiệm cá nhân rất sống động, làm cho dự luật gần hơn với
công chúng, thông qua hoạt động điều trần nhằm mục đích thúc đẩy, nhân
rộng sự hậu thuẫn đối với dự luật, đồng thời làm cho việc làm luật của Quốc
hội gần với người dân hơn, nói cách khác đó chính là góp phần đưa luật vào
cuộc sống bằng cách đưa cuộc sống vào quá trình làm luật.
Thơng qua các phiên điều trần, người dân sẽ hiểu hơn về các hoạt động
của Quốc hội và Chính phủ. Từ đó, người dân sẽ nâng cao ý thức chính trị và
tăng cường sự quan tâm, sự tích cực chính trị vào hoạt động của đất nước.
1.3. KINH NGHIỆM ĐIỀU TRẦN CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN
THẾ GIỚI

1.3.1. Nhật Bản
Mục đích của điều trần
Nội quy của Thượng nghị viện Nhật Bản dành riêng một mục để quy
định về hoạt động điều trần. Điều 76, Điều 77 Nội quy của Hạ nghị viện Nhật
Bản ghi nhận một Ủy ban có thể tiến hành hoạt động điều trần cơng khai để
xem xét các giải pháp được chuyển tới Ủy ban mình, hoặc để thực hiện các
nghiên cứu sơ bộ theo sáng kiến của mình. Điều trần được xem là một công
cụ hữu hiệu để các Ủy ban thực hiện công việc. Điều 51, Luật nghị viện Nhật
Bản khẳng định một Ủy ban, không kể là Ủy ban thường trực hay Ủy ban lâm
thời, đều có thể tổ chức các cuộc điều trần cơng khai. Ngồi ra, kể cả những
Ủy ban đặc biệt như Ủy ban nghiên cứu ở Thượng nghị viện Nhật Bản cũng

có thể sử dụng cơng cụ này để thực hiện cơng việc của mình, mặc dù cơng
việc chủ yếu của Ủy ban là nghiên cứu. Điều đó cho thấy rõ điều trần không
phải là công cụ dành riêng cho hoạt động giám sát hay lập pháp của Ủy ban,


24
mà là công cụ phục vụ chung cho hoạt động của Ủy ban, khi Ủy ban cần các
kiến thức chuyên sâu hoặc ý kiến của các đối tượng có liên quan.
Những nội dung phải tiến hành điều trần
Tại Hạ nghị viện và Thượng nghị viện Nhật Bản, cuộc điều trần chỉ có
thể được tiến hành khi được Chủ tịch của Viện đó đồng ý, ở Nghị viện Nhật
Bản. Đoạn 2, Điều 51, Luật nghị viện của Nhật Bản khẳng định điều trần
công khai là nội dung bắt buộc đối với các Ủy ban khi xem xét, thông qua
ngân sách nhà nước hoặc các dự án luật quan trọng có liên quan đến nguồn
thu.
Thông thường, phiên điều trần luôn mặc nhiên được xem là tổ chức
công khai trừ khi Ủy ban có quyết định khác. Tính cơng khai của phiên điều
trần được xuất phát từ việc bảo đảm mục tiêu của phiên điều trần là lắng nghe
được ý kiến của công chúng về những vấn đề quan trọng của quốc gia. Nhật
Bản yêu cầu các phiên điều trần, cũng như các phiên họp của Ủy ban, phải
được tiến hành trong toà nhà của nghị viện. Phiên họp điều trần ở nghị viện
Nhật Bản được tiến hành với thủ tục đơn giản hơn so với phiên họp của Ủy
ban, vì mục tiêu của phiên điều trần là để các thành viên của Ủy ban tìm hiểu
thơng tin từ những người được mời đến phát biểu là chủ yếu, mà không phải
là để ra quyết định. Điều này được thể hiện rõ qua Nội quy Thượng nghị viện
Nhật Bản khẳng định trong phiên điều trần Ủy ban không tiến hành thảo luận.
Thủ tục tiến hành điều trần
Những người được phát biểu là những người được Ủy ban chủ động
lựa chọn, theo nguyên tắc số người phản đối và ủng hộ đối với nội dung
chính sách được điều trần là ngang nhau. Do đó, tại phiên điều trần, chủ tọa

phiên họp phải đảm bảo những ý kiến phản đối và những ý kiến ủng hộ lần
lượt được phát biểu thay phiên nhau.


25
Nội quy của cả Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Nhật Bản đều quy
định rằng tại phiên điều trần, chỉ có các thành viên của Ủy ban mới được
quyền đặt câu hỏi đối với những người được mời đến phát biểu, cịn những
người được mời, khơng được đặt câu hỏi đối với các nghị sĩ. Bên cạnh đó, khi
những người phát biểu đi quá xa chủ đề được điều trần, hoặc có những lời lẽ
và hành vi khơng phù hợp, thì chủ tọa của phiên điều trần có thể dừng bài
phát biểu và mời người đó ra khỏi phịng họp.
Kết quả của điều trần
Xuất phát từ mục đích của điều trần như đã đề cập ở trên, các thông tin
thu nhận được trong các cuộc điều trần sẽ phục vụ cho các hoạt động của Ủy
ban. Trong trường hợp phiên điều trần được tổ chức công khai, thông thường
biên bản của phiên điều trần cũng được công bố để người dân có thể tiếp cận.
Biên bản của các phiên điều trần của Thượng viện và Hạ viện Nhật Bản đều
được công bố trên trang web tương ứng của từng viện.
Thực tiễn áp dụng điều trần
Việc yêu cầu bắt buộc phải tiến hành điều trần khi xem xét dự án ngân
sách hàng năm và các dự án luật có tác động làm tăng khoản chi, đã làm cho
hoạt động điều trần trở nên là một hoạt động thường xuyên ở các Ủy ban.
Vướng mắc trong quá trình thực hiện điều trần
Vướng mắc mà nghị viện Nhật Bản gặp phải là hiện tượng khơng có
nhiều người sẵn sàng tham gia các phiên điều trần của Ủy ban. Sự bất hợp tác
của các đối tượng nắm giữ thông tin là một hạn chế phổ biến. Nhưng sự can
thiệp quá sâu của Ủy ban nghị viện trong quá trình thực hiện các hoạt động
điều trần, điều tra cũng không phải là điều được hoan nghênh. Ở Nhật Bản,
việc các Ủy ban trong quá trình tiến hành điều trần và điều tra can thiệp quá

sâu vào các hoạt động của cơ quan tư pháp đã bị đánh giá là vi phạm nguyên
tắc phân chia quyền lực. Ủy ban Tư pháp của Thượng viện nước này trong


×