Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hoạt động giám sát của đại biểu quốc hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.23 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÝ THỊ ĐỨC HẠNH

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ HỒI

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ này là công trình do chính tôi tự nghiên
cứu và viết, không sao chép của ai. Các số liệu đã nêu trong luận văn có nguồn
gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lý Thị Đức Hạnh



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự động
viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Nguyễn
Thị Hồi, người đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho tôi hoàn thành luận văn này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trường Đại học
Luật Hà Nội đã đem lại cho tôi những kiến thức vô cùng hữu ích trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo sau
đại học, Bộ môn khoa Lý luận LSNN&PL, Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện
cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 20 tháng 02 năm 2013


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBQH

Đại biểu Quốc hội

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG

7

GIÁM SÁT CỦA ĐBQH

1.1. Khái niệm ĐBQH và hoạt động giám sát của ĐBQH
1.1.1. Khái niệm ĐBQH
1.1.2. Khái niệm hoạt động giám sát của ĐBQH

1.2. Quy định pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH trƣớc và sau

7
7
10
12


khi có Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003
1.2.1. Quy định pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH trước khi có 12
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003
1.2.2. Quy định pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH sau khi có 16
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003.
1.3. Nội dung hoạt động giám sát của ĐBQH
1.3.1. Hoạt động chất vấn

19
19

1.3.2. Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi 23
hành pháp luật ở địa phương.
1.3.3. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
1.4. Vai trò của hoạt động giám sát của ĐBQH
1.4.1. Vai trò của hoạt động chất vấn của ĐBQH

26
27
27

1.4.2. Vai trò của hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật và thi 28
hành pháp luật ở địa phương của ĐBQH
1.4.3. Vai trò của hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của 30
công dân của ĐBQH
1.5. Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền giám sát của ĐBQH

31



CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐBQH

35

VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA ĐBQH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Hoạt động chất vấn

35
35

2.1.2. Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi 42
hành pháp luật ở địa phương
2.1.3. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

48

2.1.4. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền của ĐBQH trong việc xem xét kết 52
quả sau giám sát
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của ĐBQH

54

2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của ĐBQH

54

2.2.2. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của 65
ĐBQH

KẾT LUẬN

75


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khẳng định bản chất nhà nước và chế độ chính trị, Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã nêu rõ: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức” (Điều 2). “Nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều 6). Ở tầm cao và rộng nhất, nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông
qua việc xem xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao; thông qua Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội
và hoạt động của bản thân các ĐBQH. Trong đó, giám sát của ĐBQH là một
hình thức giám sát rất quan trọng. Bởi lẽ hiệu lực và hiệu quả giám sát tối cao
của Quốc hội suy cho cùng được quyết định bởi chất lượng hoạt động giám sát
của từng ĐBQH.
Hoạt động giám sát của ĐBQH ở Việt Nam hiện nay đã được pháp luật
ghi nhận thông qua các bản Hiến pháp, các luật và văn bản có liên quan như:
Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Quy chế hoạt

động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng của hoạt
động này thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan là yêu cầu
tất yếu khách quan.


2

Năng lực và trách nhiệm của người đại biểu có ảnh hưởng trực tiếp tới
hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói chung. Do đó, hoạt động giám sát của
ĐBQH có vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ đến chất lượng, hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Đoàn ĐBQH. Hoạt
động giám sát của ĐBQH có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng về mặt lý luận,
những năm gần đây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các chức
năng của Quốc hội, trong đó có chức năng giám sát, song chủ yếu nhất vẫn là
vấn đề giám sát tối cao. Về hoạt động của ĐBQH, liên quan trực tiếp tới hoạt
động giám sát cũng đã có một số công trình đề cập tới hoạt động chất vấn. Tuy
nhiên, có rất ít công trình nghiên cứu cụ thể về hoạt động giám sát của ĐBQH.
Bên cạnh đó, thực tiễn qua các khóa Quốc hội những năm gần đây, hoạt động
giám sát của ĐBQH ngày càng được chú trọng và đã có nhiều tiến bộ, nhưng
cũng còn nhiều hạn chế, hiệu quả hoạt động chưa cao; giám sát còn mang tính
hình thức, chất lượng ĐBQH chưa đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng cao.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu “Hoạt động giám sát của ĐBQH ở
Việt Nam hiện nay” là cần thiết, góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ sở lý luận,
cơ sở pháp lý về hoạt động này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của Quốc hội, tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật và phát huy quyền làm
chủ của công dân.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan tới đề tài luận văn, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
khoa học tiêu biểu như sau:
 Sách chuyên khảo:

- “Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền” do PGS.TS. Nguyễn
Đăng Dung chủ biên (2007), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Qua bốn chương,
535 trang sách, các tác giả đi từ những yêu cầu chung đối với Quốc hội/Nghị
viện theo những tiêu chí của Nhà nước pháp quyền, chỉ ra đòi hỏi của Quốc hội


3

Việt Nam trong yêu cầu của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đồng thời, tìm kiếm những cách thức làm
cho Quốc hội thực hiện tốt sự uỷ thác của nhân dân trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam;
- “Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát” của Trung tâm bồi dưỡng đại
biểu dân cử, Văn phòng Quốc hội (2006), Nxb. Chính trị - Hành chính. Cuốn
sách là tập hợp các tài liệu nghiên cứu của Học viện Ngân hàng Thế giới về chức
năng giám sát của nghị viện các nước trên thế giới. Với tám chuyên đề nghiên
cứu riêng biệt của chín nhà nghiên cứu hàng đầu về nghị viện, các vấn đề được
đề cập trong tập tài liệu này đi từ những vấn đề chung, có tính chất tổng quát về
hoạt động giám sát của Quốc hội cho đến kinh nghiệm của nghị viện từng quốc
gia điển hình.
 Luận văn thạc sỹ có liên quan:
- “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của ĐBQH” của tác giả Nguyễn
Đình Quyền (2003). Với công trình nghiên cứu này, tác giả đã phân tích, đánh
giá các quy định của pháp luật về hoạt động của ĐBQH nói chung, trong đó có
hoạt động giám sát, và từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn nữa các quy định pháp luật về vấn đề này;
- “Hoạt động chất vấn của ĐBQH - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Vũ Minh Phương (2006). Đề cập cụ thể tới hoạt động chất vấn của ĐBQH là
một trong số các hoạt động giám sát quan trọng của ĐBQH được thực hiện thông
qua kỳ họp của Quốc hội và phiên họp của UBTVQH, luận văn thạc sỹ luật học

của tác giả Vũ Minh Phương đã tập trung nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận,
pháp lý, đồng thời phân tích, đánh giá thực tiễn về vấn đề này để đề xuất các
quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện hoạt động chất vấn của ĐBQH;
- “Đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội” của tác
giả Đỗ Ngọc Tú. Cũng đề cập tới hoạt động chất vấn, nhưng khác với tác giả Vũ


4

Minh Phương, tác giả của luận văn này đi vào nghiên cứu chuyên sâu về từng
hình thức giám sát của Quốc hội, cụ thể là hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Mục đích của luận văn là mong muốn đóng góp tiếng nói, nhằm kiến nghị với cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, đề xuất tiếp tục hoàn thiện
cơ sở pháp lý, làm tiền đề cho việc đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn của Quốc hội trong thời gian tới.
 Một số bài viết đăng trên báo và tạp chí chuyên ngành như:
- “Một số suy nghĩ về nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội” của GS.TS. Trần Ngọc Đường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 (tháng
4/2009). Trước yêu cầu quan trọng của việc thực thi đầy đủ, đúng đắn nhiệm vụ
và quyền hạn của Quốc hội trong việc thực hiện chức giám sát tối cao toàn bộ
hoạt động của bộ máy Nhà nước, bài viết trên tập trung vào hai vấn đề chính, đó
là đề ra các phương hướng để nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội nói chung, đồng thời đóng góp các giải pháp cần thiết nhằm đổi
mới hoạt động này;
- “Thực hiện pháp luật về giám sát của Quốc hội, thực trạng và vấn đề đặt
ra” của tác giả Phan Thị Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2+3 (tháng
1/2009). Ở mức độ cụ thể hơn, tác giả bài viết đề cập đến vấn đề thực hiện pháp
luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. Nội dung bài viết là chỉ ra một số thực
trạng triển khai các hình thức và phương pháp giám sát của Quốc hội, tìm ra
nguyên nhân của những hạn chế đó và đưa ra các giải pháp từ thực trạng của

việc thực hiện pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội.
Với những mức độ và cách tiếp cận khác nhau, các công trình nêu trên đã
đề cập tới Quốc hội, hoạt động giám sát của Quốc hội và hoạt động của ĐBQH.
Tuy nhiên, việc đi vào nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động giám sát của ĐBQH
thì còn ít tác giả thực hiện. Do đó, tác giả của luận văn đã coi hoạt động này như
là một vấn đề nghiên cứu độc lập.


5

3. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng về đổi
mới hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của ĐBQH
thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, trong pháp luật của Nhà nước. Các
phương nghiên cứu cụ thể bao gồm: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối
chiếu, lịch sử…
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra các quan điểm, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của ĐBQH ở Việt Nam hiện nay. Để thực
hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của hoạt động giám sát của ĐBQH
để thấy được bản chất, nội dung và vai trò của hoạt động này trong việc thực
hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Hai là, phân tích quá trình thực hiện và áp dụng các quy định của pháp
luật về hoạt động giám sát của ĐBQH, từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế của
hoạt động này trong thực tiễn.
Ba là, đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
giám sát của ĐBQH ở Việt Nam hiện nay.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn

Lần đầu tiên luận văn xây dựng cơ sở lý luận, những vấn đề chung về hoạt
động giám sát của ĐBQH tương đối hệ thống. Luận văn đã tập trung đánh giá
thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH hiện nay và đề xuất phương hướng,
giải pháp hoàn thiện hoạt động này, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của ĐBQH, phát huy tính dân chủ và đại diện cho
nhân dân của Quốc hội.


6

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm hai chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của
ĐBQH.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH và một số giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của ĐBQH.


7

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT CỦA ĐBQH
1.1.

Khái niệm ĐBQH và hoạt động giám sát của ĐBQH

1.1.1. Khái niệm ĐBQH
Quốc hội (Nghị viện) và các thành viên của nó ra đời trong thời kỳ cách
mạng tư sản ở châu Âu mà cụ thể là tại nước Anh. Sự tha hóa của triều đình

phong kiến đã dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng vào các nguồn tài chính xã hội.
Các cuộc họp của những người đứng đầu các nhóm lợi ích để quyết định mức
đóng góp vào ngân khố triều đình, trải qua hàng trăm năm phát triển đã trở thành
Nghị viện (Quốc hội). Đến thế kỷ XIX, phạm vi đại diện của các thành viên
Nghị viện đã phá vỡ khuôn khổ những nhóm lợi ích, được mở rộng để bao gồm
toàn thể nhân dân. Khác với sự ra đời kinh điển đó của Nghị viện nước Anh,
Quốc hội nước ta ra đời trong cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc. Ngay từ
khi ra đời, Quốc hội nước ta đã là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân cả
nước. ĐBQH là người đại biểu của toàn dân, của mọi tầng lớp dân cư trong xã
hội, do nhân dân trực tiếp bầu ra thông qua thể thức phổ thông đầu phiếu.
Ngay từ những ngày đầu tiên của Quốc hội Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã
khẳng định: “các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng
phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết
tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết lại thành một khối”[4]; “Quốc
hội là tiêu biểu ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì lay
chuyển nổi”[5]. Quan điểm này mang tính nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
quá trình tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam.
Từ giác độ quyền lực nhà nước, quyền lực của Quốc hội có nguồn gốc ở
nhân dân, ở tính đại diện cho nhân dân. Bởi xét về bản chất, tính đại diện của
Quốc hội chính là sự thể hiện nguyên tắc hiến định tại Điều 2, Hiến pháp năm
1992: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân


8

dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức”. Do đó, ĐBQH Việt Nam là yếu tố đại diện cho ý chí thống nhất của dân
tộc, vì đại nghĩa của dân tộc[17].
Trên cơ sở các yếu tố và quan điểm đó về ĐBQH, khái niệm ĐBQH đã

được pháp luật quy định cụ thể tại điều Điều 43 Luật tổ chức Quốc hội năm
2001, đó là: “ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho
nhân dân cả nước; là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
trong Quốc hội”.
Với khái niệm trên, ĐBQH là người được nhân dân bầu ra theo nguyên tắc
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Khác với Nghị sỹ Quốc hội các
nước tư sản, các ĐBQH nước ta phải gắn liền với cử tri và đơn vị bầu cử đã bầu
ra họ. Qua bầu cử, nhân dân ủy nhiệm quyền lực của mình, để ĐBQH thay mặt
nhân dân quyết định các công việc quan trọng của đất nước. Là thành viên của
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, ĐBQH có những thẩm quyền đặc
biệt mà các cá nhân khác trong bộ máy nhà nước không có được. Đó là các
quyền gắn liền với quyền lực của Quốc hội và các quyền miễn trừ do pháp luật
quy định.
ĐBQH là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà
nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra. Đó là những đại biểu
chính thức của nhân dân. Các ĐBQH nước ta theo tinh thần của Lênin là những
người: “Tự mình công tác, tự mình áp dụng những luật pháp của mình, tự mình
kiểm tra lấy những tác dụng của luật pháp ấy, tự mình chịu trách nhiệm trước cử
tri của mình”[14].


9

ĐBQH có địa vị pháp lý đặc biệt được quy định trong Hiến pháp năm
1992, Luật Tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của ĐBQH, bao gồm chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hình thức hoạt động của ĐBQH. Đó là người đại
diện của nhân dân đồng thời là đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước

cao nhất. ĐBQH là cầu nối quan trọng giữa chính quyền nhà nước với nhân dân.
ĐBQH vừa chịu trách nhiệm trước cử tri vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị mình bầu cử ra mình mà
còn đại diện cho nhân dân cả nước; là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước trong Quốc hội. Vì vậy, trong khi làm nhiệm vụ, ĐBQH phải xuất
phát từ lợi ích chung của cả nước đồng thời cũng phải quan tâm thích đáng đến
lợi ích của địa phương đã bầu ra mình, phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước
và những quy định của chính quyền nhà nước ở địa phương.
Địa vị pháp lý của ĐBQH có mối quan hệ logic và biện chứng chặt chẽ
với quyền lực nhà nước, quyền lực của Quốc hội. Do có vị trí đặc biệt đó,
ĐBQH có vai trò rất quan trọng trong xã hội. ĐBQH là tế bào sống, là yếu tố cấu
thành của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có ảnh hưởng to lớn
đến quá trình thực hiện các chức năng của Quốc hội.
Vị trí pháp lý của ĐBQH được bắt đầu sau khi Quốc hội đã xác nhận tư
cách đại biểu tại phiên họp đầu tiên của kỳ họp thứ nhất mỗi khóa Quốc hội.
Nhiệm kỳ của ĐBQH được tính từ kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa đó đến kỳ họp
thứ nhất của Quốc hội khóa sau.
Như vậy, trên cơ sở phân tích những nội dung trên, có thể rút ra khái niệm
ĐBQH như sau: “ĐBQH là người được nhân dân lựa chọn thông qua bầu cử,
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là người thay mặt cho nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc hội”. Theo đó, ĐBQH mang đặc
điểm:


10

- Là người đại diện của nhân dân, ĐBQH là người của nhân dân. Họ có
trách nhiệm phải thường xuyên gần gũi với cử tri để nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng và những yêu cầu của cử tri đối với Nhà nước.

- Là người thay mặt nhân dân thực hiện thẩm quyền của Quốc hội, ĐBQH
là một thành viên trong bộ máy nhà nước.
1.1.2. Khái niệm hoạt động giám sát của ĐBQH
Trong Từ điển Tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét
làm đúng hoặc sai những điều đã quy định” hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm
tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”[23]. Giám sát khác với
kiểm tra ở chỗ: giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài, còn kiểm tra có thể là
hoạt động thường xuyên từ bên trong của tổ chức. Điều 2 Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội năm 2003 đã giải thích về hoạt động giám sát rất rõ như sau:
“Giám sát là việc Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn ĐBQH và ĐBQH theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH”. Như vậy, hoạt động giám
sát lúc nào cũng cần đến hai giai đoạn, giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra và
giai đoạn đánh giá. Giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm tra là cơ sở thực hiện của
giai đoạn đánh giá; theo dõi, xem xét, kiểm tra làm tốt thì việc đánh giá sẽ đúng
đắn và chính xác, cuộc giám sát sẽ có kết quả tích cực và ngược lại.
Hoạt động giám sát của ĐBQH là hoạt động thực hiện một trong ba chức
năng quan trọng của Quốc hội đó là chức năng giám sát tối cao toàn bộ hoạt
động của bộ máy nhà nước. Với vai trò là thành viên của Quốc hội, ĐBQH giám
sát thông qua các hoạt động sau đây:
- Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC;


11

- Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật ở
địa phương;

- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
ĐBQH tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc tham gia hoạt động
giám sát của Đoàn ĐBQH; tham gia Đoàn giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.
Căn cứ vào kết quả giám sát, ĐBQH có các quyền: kiến nghị, yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành,
bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành văn
bản quy phạm pháp luật mới; kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến chủ trương, chính sách pháp luật
của Nhà nước hoặc các vấn đề của địa phương. Khi phát hiện có hành vi vi phạm
pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý
người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp của tổ chức,
cá nhân bị vi phạm.
Thực hiện hoạt động giám sát, ĐBQH phải đảm bảo nguyên tắc công khai,
khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật;
không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, cá nhân chịu sự giám sát.
ĐBQH chịu trách nhiệm về quyết định, yêu cầu, kiến nghị giám sát của mình và
báo cáo cử tri tại địa phương về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Hàng năm và mỗi sáu tháng, các cá nhân ĐBQH đăng ký chương trình
giám sát ở địa phương với Đoàn ĐBQH ở địa phương để đưa vào chương trình
giám sát. Đoàn ĐBQH có trách nhiệm tổ chức thực hiện các hoạt động giám sát
của Đoàn và tổ chức để ĐBQH trong đoàn thực hiện chương trình giám sát của


12

cá nhân. Kết quả thực hiện chương trình giám sát của cá nhân ĐBQH và đoàn
ĐBQH được Đoàn báo cáo định kỳ sáu tháng và hàng năm tới UBTVQH.

1.2.

Quy định pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH trƣớc và sau
khi có Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003

1.2.1. Quy định pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH trước khi có Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003
Trước khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 được ban
hành, những quy định pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH chủ yếu được
thể hiện qua các bản Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội tại thời điểm đó.
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, mặc dù trong Hiến pháp chưa có quy định nào trực tiếp đề cập tới
hoạt động giám sát của ĐBQH, song các quy định gián tiếp đều cho thấy Nghị
viện cũng có quyền giám sát và phê bình Chính phủ, chẳng hạn: “ Khi Nghị viện
không họp, Ban thường vụ có quyền… triệu tập Nghị viện; kiểm soát và phê bình
Chính phủ” (Điều thứ 36); “Bộ trưởng nào không được Nghị viên tín nhiệm thì
phải từ chức” (Điều thứ 54). Hoạt động giám sát chính của ĐBQH là chất vấn tại
kỳ họp: “Các Bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói những điều
chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban thường vụ” (Điều thứ 55). Quy định này
cho thấy chủ thể của hoạt động chất vấn là tập thể Nghị viện và Ban thường vụ
chứ không phải là cá nhân các nghị viên. Do đó, nghị viên hay nói cách khác là
các ĐBQH theo Hiến pháp năm 1946 chưa được coi là chủ thể độc lập của hoạt
động giám sát mà phải thực hiện hoạt động của mình thông qua tập thể Nghị
viện và Ban thường vụ. Có thể nói, đây là những quy định đầu tiên về hoạt động
giám sát của ĐBQH. Do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, toàn dân tộc tập trung
vào việc giữ nước nên những quy định về giám sát chỉ được quy định khái quát.
Hiến pháp năm 1959 quy định cụ thể hơn về hoạt động giám sát của Quốc
hội và ĐBQH. Theo đó, Quốc hội có quyền “giám sát việc thi hành Hiến pháp”



13

(khoản 3 - Điều 50). Quyền giám sát của ĐBQH đã được cụ thể tại một điều
trong Hiến pháp: “Các ĐBQH có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Cơ quan bị chất vấn phải trả lời trong thời hạn
năm ngày; trường hợp cần phải điều tra thì thời hạn trả lời là một tháng” (Điều
59). Như vậy, theo Hiến pháp năm 1959 thì hoạt động giám sát của ĐBQH được
thực hiện chủ yếu là thông qua hoạt động chất vấn. Với tư cách là thành viên của
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, chất vấn là quyền của cá nhân ĐBQH chứ
không phải là quyền của tập thể ĐBQH như trước kia. ĐBQH phải nắm được
nguyện vọng, những vấn đề bức xúc của nhân dân để phản ánh với các cơ quan
nhà nước thông qua hoạt động của mình. Ngoài ra, tại Điều 42, Luật Tổ chức
Quốc hội năm 1960 có quy định: “ĐBQH có quyền chất vấn Hội đồng Chính
phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Lời chất vấn do Chủ tịch đoàn,
hoặc trong thời gian Quốc hội không họp thì do UBTVQH chuyển cho cơ quan
bị chất vấn để trả lời trước Quốc hội hoặc trước UBTVQH”. Do đó, chất vấn có
thể được thực hiện trong kỳ họp của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội
không họp. Điều đó tạo điều kiện cho hoạt động giám sát của Quốc hội nói
chung, của ĐBQH nói riêng được thực hiện liên tục, không bị gián đoạn trong
thời gian Quốc hội không họp. Qua việc chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ, ĐBQH đã giám sát được tình hình thực hiện
pháp luật trên phạm vi cả nước trong sự quản lý của Chính phủ, nắm bắt được
tâm tư, nguyện vọng của cử tri để giải quyết các thắc mắc và khiếu nại của nhân
dân. Khi thực hiện nhiệm vụ này, ĐBQH sẽ chịu trách nhiệm trước nhân dân,
trước cử tri đã bỏ phiếu bầu ra người đại biểu.
Các quy định trong Hiến pháp năm 1980 về hoạt động giám sát của
ĐBQH hoàn thiện hơn so với Hiến pháp năm 1959. Lần đầu tiên chức năng giám
sát tối cao của Quốc hội được khẳng định làm cơ sở cho hoạt động giám sát của
ĐBQH, đó là: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước” (Điều 82). ĐBQH đã có nhiều quyền và nghĩa vụ hơn khi



14

thực hiện hoạt động giám sát đó là: “ĐBQH phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, trả
lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri, xem xét và giúp giải quyết những điều
khiếu nại và tố cáo của nhân dân. ĐBQH tuyên truyền, phổ biến pháp luật và
chính sách của Nhà nước, động viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước”
(Điều 94). Thông qua mối liên hệ với cử tri, ĐBQH giám sát tình hình thi hành
pháp luật tại địa phương: “ĐBQH có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước
về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước và những vấn đề thuộc lợi
ích chung. Các cơ quan Nhà nước và những người có trách nhiệm phải nghiên
cứu và trả lời những kiến nghị đó của đại biểu” (Điều 63 Luật Tổ chức Quốc hội
năm 1981). Thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của
mình và của Quốc hội, ĐBQH phải trả lời những kiến nghị của cử tri, giám sát
tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân, có trách nhiệm gửi những
yêu cầu, khiếu nại đó đến các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải
quyết: “ĐBQH nhận được những điều khiếu nại và tố cáo của nhân dân, có
trách nhiệm nghiên cứu và chuyển đến cơ quan Nhà nước hữu quan, theo dõi
việc giải quyết và báo cho đương sự biết kết quả” (Điều 62 Luật Tổ chức Quốc
hội năm 1981).
Bên cạnh đó, hình thức giám sát bằng hoạt động chất vấn của ĐBQH
cũng được mở rộng hơn, Điều 95 Hiến pháp năm 1980 đã quy định: “ĐBQH có
quyền chất vấn Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng,
Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC”. Đây là một điểm mới so với
Hiến pháp năm 1959, quyền chất vấn của ĐBQH được kế thừa và hoàn thiện
hơn; đối tượng chất vấn được mở rộng hơn, ĐBQH không chỉ có quyền chất vấn
Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng mà còn chất vấn
Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC - những chức danh do Quốc hội
bầu. Hoạt động chất vấn của ĐBQH sẽ là tiền đề cho việc xác định trách nhiệm

của các cơ quan hoặc người bị chất vấn: “Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Hội đồng


15

Nhà nước ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của những cơ quan hoặc
người bị chất vấn” (Điều 60 Luật Tổ chức Quốc hội năm 1981).
Sau khi Hiến pháp năm 1992 ra đời, cơ chế giám sát của Quốc hội được
nâng cao hơn một cách rõ rệt. Kế thừa Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm
1992 tiếp tục khẳng định quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước. Để thực hiện tốt chức năng này, hoạt động của các
ĐBQH đóng vai trò rất quan trọng.
Đối với hoạt động chất vấn, Điều 98 Hiến pháp 92 quy định: “ĐBQH có
quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC và Viện
trưởng VKSNDTC”. Theo đó, ĐBQH không chất vấn cơ quan nhà nước nói
chung mà chất vấn những người đứng đầu các cơ quan nhà nước do Quốc hội
bầu ra. Đây là điểm tiến bộ và khác biệt so với quyền chất vấn của ĐBQH được
quy định tại Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Trách nhiệm của
người bị chất vấn cũng được nâng lên rõ rệt bởi: “Nếu ĐBQH không đồng ý với
nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước
Quốc hội hoặc UBTVQH” và “ĐBQH có quyền kiến nghị với UBTVQH xem xét
trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” (theo Điều 49, Điều 50 Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2001).
Vấn đề giám sát của ĐBQH đối với tình hình thực hiện pháp luật và giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã được đặt ra. ĐBQH có trách nhiệm tiếp
công dân. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, ĐBQH có
trách nhiệm nghiên cứu, chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông
báo cho người kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết; đôn đốc và theo dõi việc giải

quyết. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị
vũ trang nhân dân hoặc của công dân, ĐBQH có quyền yêu cầu cá nhân, cơ


16

quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời
chấm dứt hành vi trái pháp luật đó. (Điều 52, Điều 53 Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2001)
Ngoài các văn bản nói trên, Quốc hội còn ban hành các Nghị quyết quy
định hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH; Nghị quyết về nội dung kỳ họp của
Quốc hội. Có thể nói, từ khi Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2001 ra đời, cơ chế giám sát của Quốc hội nói chung, hoạt động giám sát
của ĐBQH nói riêng được nâng cao một cách rõ rệt. Đưa giám sát lên một tầm
cao mới, hoạt động giám sát của ĐBQH đã có những điểm tiến bộ đáng kể. Các
văn bản quy định về hoạt động giám sát được sửa đổi, bổ sung đảm bảo cho phù
hợp với việc nâng cao hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội và chất lượng hoạt
động của ĐBQH.
1.2.2. Quy định pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH sau khi có Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003.
Trước yêu cầu bức thiết cần phải nâng cao chất lượng thực hiện chức năng
giám sát tối cao của Quốc hội, của các cơ quan của Quốc hội, của ĐBQH và các
Đoàn ĐBQH, tháng 6 năm 2003 Quốc hội đã ban hành Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội. Luật một mặt hệ thống hóa và hoàn thiện các quy định của pháp
luật về nhiệm vụ, quyền hạn giám sát của Quốc hội. Đồng thời cũng xác định
quyền và trách nhiệm của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự
giám sát và các biện pháp bảo đảm cho hiệu quả của hoạt động giám sát.
Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành cũng đã quy định một số điều về công
tác giám sát và những chế tài kèm theo nhưng chưa thật thỏa đáng, chưa cụ thể,

rõ ràng để Quốc hội và các đại biểu thực thi. Do đó, Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội năm 2003 là cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động giám sát được thực
hiện một cách đầy đủ nhất. Lần đầu tiên Luật đưa ra định nghĩa về hoạt động
giám sát, thẩm quyền giám sát của ĐBQH được ghi nhận rất cụ thể: “ĐBQH


17

chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản quy
phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân” (điểm đ, khoản 1, Điều 3).
Để làm rõ quyền giám sát của ĐBQH đã được quy định chung trong Hiến
pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Nội quy kỳ họp, Quy chế hoạt động của ĐBQH…
Luật hoạt động giám sát năm 2003 đã dành một chương riêng quy định về hoạt
động giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Theo đó, nội dung các hoạt động
giám sát của ĐBQH được quy định tại Điều 37, ĐBQH giám sát thông qua các
hoạt động:
“- Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC”;
- Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật ở
địa phương;
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
ĐBQH tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc tham gia hoạt động
giám sát của Đoàn ĐBQH; tham gia Đoàn giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu”.
Có thể nói với quy định này, vai trò giám sát của ĐBQH được chú ý và đặt
đúng tầm của nó, nội dung các hoạt động giám sát đã được phân định rạch ròi

làm cơ sở cho ĐBQH thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm của mình khi
tham gia giám sát.
Khi chưa có Luật Hoạt động giám sát thì cũng chưa có những quy định cụ
thể tạo cơ sở thực hiện tốt hoạt động này, do vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng và
kết quả của hoạt động giám sát. Ngay cả đối với hình thức giám sát thông qua


18

hoạt động chất vấn của ĐBQH, khi trả lời chất vấn trước Quốc hội, nhiều vị Bộ
trưởng đã không trả lời thẳng vào vấn đề và nếu có hứa hẹn thì việc thực hiện
cũng chưa nghiêm túc. Do đó, để giám sát có hiệu quả hơn, Luật hoạt động giám
sát năm 2003 đã có những quy định cụ thể về quy trình chất vấn và trả lời chất
vấn tại kỳ họp của Quốc hội cũng như tại phiên họp của UBTVQH, về trách
nhiệm của người trả lời chất vấn. Trong buổi chất vấn, các đại biểu có thể biết
được thành viên của Chính phủ có nắm và giải quyết được vấn đề hay không. Từ
đó, có những kiến nghị với thành viên đó của Chính phủ. Nếu thấy cần thiết,
ĐBQH có thể bỏ phiếu tín nhiệm làm căn cứ để xem xét việc cách chức, miễn
nhiệm hoặc cho thôi làm nhiệm vụ đối với những người giữ các chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn - đây là quy định hoàn toàn mới của Luật hoạt
động giám sát năm 2003 (Điều 13).
Trước khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 được ban
hành, các ĐBQH gặp nhiều lúng túng khi thực hiện việc giám sát văn bản, giám
sát tình hình thi hành pháp luật tại địa phương và giải quyết khiếu nại tố cáo của
công dân. Nhưng từ khi thông qua, Luật đã tạo được hành lang pháp lý cho các
đại biểu hoạt động. Trong quá trình giám sát, ĐBQH có nhiều quyền hạn để thực
hiện tốt hơn hoạt động của mình. Ví dụ như: khi tiến hành giám sát tại địa
phương, nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thì
“ĐBQH trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan,

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ
một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật mới” (Điều 41); Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân thì ĐBQH có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng
các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm…, yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có


19

hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật (điểm d, khoản 2, Điều 42). Đặc
biệt, đối với việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, khi đại biểu nhận
được đơn thư sẽ chuyển đến những người có thẩm quyền và có trách nhiệm đôn
đốc trong quá trình thụ lý, giải quyết. Luật hoạt động giám sát quy định trong
vòng bảy ngày kể từ ngày ra quyết định giải quyết, các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền giải quyết phải trả lời đơn thư. Khi nhận được trả lời mà vẫn chưa thỏa
mãn, ĐBQH có quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó tìm hiểu yêu cầu
xem xét lại. Nếu thấy cần thiết có thể yêu cầu cơ quan cấp trên của cơ quan, tổ
chức đó giải quyết.
1.3.

Nội dung hoạt động giám sát của ĐBQH

1.3.1. Hoạt động chất vấn
Chất vấn là hình thức giám sát trực tiếp và quan trọng của Quốc hội, đồng
thời là quyền quan trọng của ĐBQH được Hiến pháp quy định. Chất vấn tuy là
quyền cá nhân của ĐBQH nhưng khi thực hiện quyền này thì nó được coi là một
trong những hoạt động giám sát của Quốc hội.
ĐBQH khi thực hiện hoạt động chất vấn không phải nhằm mục đích thu

thập thông tin hay số liệu, mà nhằm làm rõ trách nhiệm của cá nhân có trách
nhiệm đối với một số vấn đề nào đó. Đây chính là điểm cơ bản để phân biệt chất
vấn với câu hỏi thường. Trên thực tế, chất vấn cũng có thể được thể hiện dưới
dạng câu hỏi nhưng mục đích của chất vấn và câu hỏi thường khác nhau. Việc
hỏi và yêu cầu trả lời những vấn đề mà ĐBQH quan tâm (hay còn gọi là câu hỏi
thường) nhằm thu thập thông tin, số liệu về các vấn đề nào cần biết, trước khi đặt
câu hỏi người hỏi hầu như chưa có thông tin về vấn đề mà mình hỏi. Loại câu
hỏi thường phụ thuộc vào nhu cầu nắm bắt thông tin của ĐBQH chứ không được
quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào và cũng không bị hạn chế đối với
bất kỳ đối tượng nào. Còn đối với chất vấn, trước khi nêu vấn đề, ĐBQH phải
tìm hiểu rất kỹ và nắm thông tin về vấn đề mà mình cần chất vấn để làm rõ trách


×