Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Hoàn thiện pháp luật trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.87 KB, 114 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua công cuộc đổi mới đất nước và cải cách tư pháp
đã đạt được những kết quả nhất định và có những chuyển biến tích cực. Cơng
tác đấu tranh phịng, chống tội phạm tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Tuy nhiên, do tác động của
nhiều mặt, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có
chiều hướng gia tăng; chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự chưa đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi từ thực tiễn. Trong cơng tác đấu
tranh phịng, chống tơi phạm; vẫn còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm và để
xảy ra oan sai.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5-/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020", thì việc hồn thiện pháp luật trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm góp phần tích cực vào sự phát triển của đất nước, thì một trong những
mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đặt ra là “mọi hành vi phạm
tội đều bị phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử theo đúng pháp luật, hạn chế đến
mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; không làm oan người vô
tội” (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị).
Trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm (TP), việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm (TG, TBVTP) có vai trị, ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các phạm tội đã
xảy ra. Tiếp nhận, giải quyết TG, TBVTP là hoạt động mở đầu của công tác
đấu tranh phòng, chống TP của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự; thông qua hoạt động này giúp cho việc xác định kịp
thời một sự kiện xảy ra có dấu hiệu TP hay không để quyết định khởi tố vụ án



2
hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự. Thơng qua cơng tác đấu tranh phịng, chống
TP, giúp cơ quan quản lý nhà nước các cấp nắm chắc và quản lý được tình hình
tội phạm thực tế trên địa bàn để xây dựng kế hoạch, phương hướng và biện
pháp đấu tranh phịng, chống TP có hiệu quả.
Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan
điều tra và hoạt động kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của Viện kiểm sát
(VKS) là những hoạt động quan trọng trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm. Hoạt động tiếp nhận, TG, TBVTP là nhiệm vụ đầu tiên của Cơ quan điều
tra, mở đầu cho hoạt động điều tra tội phạm. Kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP
của VKS là một hoạt động quan trọng tạo tiền đề cho công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát các cấp, nhằm bảo
đảm cho quá trình tố tụng hình sự (TTHS) được tuân thủ đúng quy định của
pháp luật, mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời, được khởi tố, điều
tra và xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, hạn chế việc để lọt tội phạm và người
phạm tội, góp phần tích cực vào cơng tác đấu tranh, phòng chống TP.
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật Tố
tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định về tiếp nhận, xử lý tin báo, tố
giác tội phạm và trách nhiệm của CQĐT, VKS trong việc giải quyết TG,
TBVTP, nhưng có điểm quy định chưa rõ, nhất là những quy định về quyền
năng pháp lý của VKS trong lĩnh vực này. Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng
chưa quy định rõ trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu,
quyết định của VKS. Điều 37 BLTTHS năm 2003 quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên chỉ quy định nhiệm vụ, quyền
hạn phát sinh khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra (THQCT &
KSĐT), kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Sự nhận thức của các cơ quan tiến
hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng về những quy định của
BLTTHS trong hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cũng chưa
thống nhất, nhưng chưa được hướng dẫn kịp thời. Thực tiễn trên đã tạo ra
nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cho hoạt động giải quyết TG, TBVTP.



3
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên thì trước hết CQĐT phải làm tốt công tác
tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và VKS các cấp (từ VKSND tối cao
đến các VKS địa phương và VKS Quân sự các cấp) phải kiểm sát chặt chẽ,
hiệu quả việc tiếp nhận, giải quyết TG, TBVTP của CQĐT.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện pháp luật
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm” là cần thiết, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiểm sát việc giải quyết
TB, TGVTP đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và các nhà
hoạt động thực tiễn. Trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình, bài viết trên các
báo, tạp chí đề cập đến những khía cạnh khác nhau của hoạt động tiếp nhận, xử
lý TG, TBVTP và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP. Có thể kể đến một số
cơng trình sau:
Chun đề: Sơ kết cơng tác kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với
TG, TBVTP và kiến nghị khởi tố” năm 2010, do VKSND tối cao thực hiện.
Luận văn Thạc sĩ, Nguyễn Phúc Long (2011), “Áp dụng pháp luật
trong hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đối với Cơ quan điều tra cùng cấp ở Việt Nam”.
Các bài viết đăng trên Tạp chí: “Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
công tác kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP và kiến nghị khởi tố theo yêu
cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Duy Giảng, đăng trên tạp chí Kiểm
sát số 18&20 (tháng 9 & 10/2008); “Thực trạng và một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP” của tác
giả Nguyễn Duy Hồng, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 01 (tháng 01/2009);
“Quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP và kiến nghị
khởi tố - thực trạng và một số đề xuất, kiến nghị” của tác giả Nguyễn Việt

Hùng, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 12, (tháng 6/2009); “Một số vướng mắc,
bất cập và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc


4
giải quyết TG, TBVTP và kiến nghị khởi tố hiện nay” của tác giả Nguyễn Tiến
Sơn, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 12 (tháng 6/2009); “Bàn về các khái niệm
“tố giác về tội phạm”, “tin báo về tội phạm” và “kiến nghị khởi tố” trong Bộ
luật tố tụng hình sự” của tác giả Phạm Quốc Huy, đăng trên tạp chí Kiểm sát
số 17 (tháng 9/2009); “Thực trạng và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP và kiến nghị khởi tố”
của tác giả Bùi Mạnh Cường, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 01 (tháng
01/2011); “Làm tốt công tác kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP, góp phần
nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm” của tác giả
Trần Cơng Phàn, đăng trên tạp chí Kiểm sát số Tết (tháng 02/2011)...
Nội dung của các chuyên đề, bài viết các tác giả đã nghiên cứu ở những
mức độ, khía cạnh khác nhau của hoạt động kiểm sát việc giải quyết TG,
TBVTP của CQĐT. Tuy nhiên, chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên
cứu tồn diện vấn đề “Hoàn thiện pháp luật trong việc giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Qua nghiên cứu đề tài để tìm ra những giải pháp hồn thiện pháp luật về
giải quyết TG, TBVTP nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết TG,
TBVTP của CQĐT và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của VKS.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về tiếp nhận, xử lý tin
báo, tố giác tội phạm và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP.
- Chỉ ra thực trạng thi hành pháp luật trong tiếp nhận, xử lý TG,
TBVTP và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP; phân tích, đánh giá những

kết quả đã đạt được; những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân.
- Xác định các yêu cầu, nội dung, các yếu tố bảo đảm việc thực thi pháp
luật trong việc tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và kiểm sát việc giải
quyết TG, TBVTP trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ của đất nước.


5
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi pháp luật trong việc tiếp nhận, xử lý
tin báo, tố giác tội phạm và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP, đáp ứng các
yêu cầu của cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật và
thực tiễn thi hành pháp luật trong hoạt động tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác
tội phạm của Cơ quan điều tra và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của
Viện kiểm sát.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong hoạt động tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan
điều tra và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của Viện kiểm sát. Các số
liệu được sử dụng trong đề tài trên cơ sở kết quả thực tiễn từ năm 2007 đến
năm 2011 (trong phạm vi toàn quốc).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về đổi mới Nhà
nước và pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về
mục đích, quan điểm cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp nói chung và của VKS nói riêng; đổi mới thủ tục TTHS...

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu đề tài là phương pháp của
triết học duy vật biện chứng, như: phương pháp nghiên cứu lý luận gắn với thực
tiễn, phương pháp logic và hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Phân tích làm rõ những quy định của pháp luật về tiếp nhận, xử lý tin
báo, tố giác tội phạm và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP.


6
- Xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm
thực thi pháp luật trong hoạt động về tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm
và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP.
- Đánh giá khách quan thực trạng pháp luật trong việc tiếp nhận, xử lý
tin báo, tố giác tội phạm và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP.
- Xác định các yêu cầu và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
(HTPL) về giải quyết TG, TBVTP và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi
pháp luật trong việc giải quyết TG, TBVTP.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham
khảo phục vụ yêu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định về tiếp nhận, xử lý tin
báo, tố giác tội phạm của CQĐT và kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của
VKS ở Việt Nam; góp phần vào việc nâng cao nhận thức, kỹ năng nghiệp vụ
cho Điều tra viên, Kiểm sát viên các cấp trong khi tiến hành các hoạt động tố
tụng hình sự.
- Làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo
khoa học pháp lý.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
phần nội dung gồm 3 chương, 8 tiết.



7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM
1.1. TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI QUYẾT
TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM

1.1.1. Tố giác, tin báo về tội phạm
1.1.1.1. Khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm
Tội phạm là một hiện tượng xã hội. Khi xuất hiện Nhà nước và sự ra
đời của pháp luật cũng xuất hiện những hành vi xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cơng dân và của tồn xã
hội, được pháp luật quy định là tội phạm. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp
thống trị, Nhà nước đã quy định những hành vi nào là tội phạm và áp dụng
trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với người thực hiện các hành vi đó. Tội
phạm mang thuộc tính xã hội, pháp lý, ln chứa đựng đặc tính chống đối
lại nhà nước, chống lại trật tự xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng
đồng, xâm phạm trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền và các lợi ích hợp
pháp của cơng dân.
Điều 8 Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) đã quy định khái niệm về tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.

Khái niệm tội phạm được quy định trong BLHS là cơ sở pháp lý cơ bản
để xác định dấu hiệu tội phạm, để phân biệt một hành vi là tội phạm với các


8
hành vi vi phạm pháp luật khác, cũng như với các trường hợp khơng phải là
tội phạm.
Để có cơ sở xác định có hay khơng sự kiện phạm tội xảy ra và phân
biệt được hành vi có phải là tội phạm hay khơng thì việc tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm có ý nghĩa vai trò đặc biệt quan trọng. Đây
là cơ sở quan trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện tội phạm
để khởi tố vụ án hình sự.
Điều 100 BLTTHS năm 2003 quy định: “Việc xác định dấu hiệu tội
phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
5. Người phạm tội tự thú”.
Điều 101 BLTTHS 2003 quy định: “Cơng dân có thể tố giác tội phạm
với CQĐT, VKS, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác
bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của
người tố giác”.
Từ những quy định của pháp luật nêu trên; cần tìm hiểu và xác định nội
dung khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “tin” là “điều được truyền đi, báo cho biết
về sự việc tình hình xảy ra” [19, tr.1231]. Như vậy, có thể hiểu tin báo về tội

phạm là việc truyền đi, báo cho chủ thể khác biết về sự việc, tình hình cụ thể
về tội phạm đã xảy ra.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt thì “tố giác” là “báo cho cơ quan chính
quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó” [19, tr.1250].


9
Từ sự giải thích nói trên, có thể được xác định TG, TBVTP là việc một
chủ thể nhất định biết về một sự kiện phạm tội, một người hoặc hành vi phạm
tội và báo cho cơ quan nhà nước người có thẩm quyền biết về sự kiện phạm
tội, người và hành vi phạm tội đó.
Hiện nay, có quan điểm cho rằng không phải tất cả các thông tin được
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tiếp nhận đều là TG, TBVTP và phải
thụ lý, giải quyết theo quy định của BLTTHS. Bởi vì có rất nhiều thơng tin
tuy có hình về hình thức có thể giống với TG, TBVTP nhưng khi xem xét,
phân loại cho thấy đó khơng phải là TG, TBVTP.
Quan điểm khác lại cho rằng, do nhận thức hoặc do sự cảm nhận
thông tin của mỗi người về tội phạm khác nhau hoặc do người phạm tội có
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm che giấu hành vi phạm tội, trốn tránh sự
trừng trị của pháp luật, nên các cơ quan như: CQĐT, VKS có trách nhiệm
tiếp nhận đầy đủ mọi TG, TBVTP do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến
để đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện, khởi tố điều tra, xử lý
nghiêm minh theo pháp luật.
Theo Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 15-5-1992 giữa Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Bộ Quốc phòng, Bộ
Lâm nghiệp, Tổng cục Hải quan hướng dẫn việc thi hành các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
thì: “Tố giác và tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy
định trong BLHS do công dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội (gọi tắt là người, cơ quanp tổ chức) cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm

tiếp nhận và giải quyết, do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc
do người phạm tội tự thú” (Mục 1 Phần 1).
Như vậy, từ quy định nêu trên có thể thấy, về bản chất TG, TBVTP đều
là những thông tin chứa đựng những dấu hiệu tội phạm mà các cơ quan tiến
hành tố tụng thu thập được. Dấu hiệu tội phạm ở đây được hiểu là hành vi
được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống


10
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; như quy định tại khoản 1
Điều 8 BLHS năm 1999.
Mặc dù TG, TBVTP đều là những thông tin chứa đựng dấu hiệu tội
phạm, nhưng giữa chúng có những điểm khác nhau.
Tố giác về tội phạm là những tin do người dân cung cấp. Đó là những
người đã nhìn thấy hành vi phạm tội, đã phát hiện ra các dấu hiệu tội phạm
hoặc nắm được thông tin về tội phạm qua hình thức khác và cung cấp cho các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc cơ quan, tổ chức mà họ thấy thuận tiện,
thơng qua nhiều hình thức khác nhau, như: bằng miệng, qua điện thoại, hoặc
bằng văn bản dưới dạng gửi đơn trình báo; tố giác về tội phạm khơng buộc
phải có danh như đơn tố cáo.
Cịn tin báo về tội phạm là những thơng tin về tội phạm do các cơ quan
Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội,... nắm được và chuyển trực tiếp đến
CQĐT, VKS hoặc được đăng tải trên các phương tiện thơng tin đại chúng.
Hình thức tin báo về tội phạm chủ yếu bằng văn bản. Tin báo về tội phạm có
thể là những thơng tin mà các cơ quan, tổ chức đã nhận được của cơng dân
hoặc do chính cơ quan, tổ chức đó đã trực tiếp phát hiện trong q trình thực

chức năng, nhiệm vụ của mình.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng tin báo về tội phạm là tất cả các thơng tin
có chứa đựng dấu hiệu về tội phạm, xảy ra ở Việt Nam, trên phương tiện
truyền thông đại chúng, không phân biệt phương tiện thông tin trong nước
hay quốc tế. Bởi trong xu hướng phát triển hội nhập quốc tế hiện nay, tội
phạm xuyên quốc gia ngày càng phát triển mạnh và tất cả những thông tin
trên đều là nguồn tin báo về tội phạm rất quan trọng, giúp CQĐT, VKS phát
hiện, khởi tố vụ án hình sự. Ý kiến khác lại cho rằng những thơng tin chứa


11
đựng dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng quốc tế
không phải là tin báo về tội phạm. Bởi vì, những thơng tin này khơng phải do
các cơ quan truyền thông hoạt động hợp pháp của Việt Nam đưa; độ chính xác
khơng cao, khơng khách quan, cá biệt có những thơng tin đưa ra vì động cơ
xấu. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc mọi hành vi tội phạm đều được phát
hiện, xử lý theo đúng pháp luật thì những thơng tin chứa đựng dấu hiệu tội
phạm trên phương tiện thông tin quốc tế phải được tiếp nhận, nghiên cứu,
tham khảo. Nếu Việt Nam và nước sở tại đã có điều ước, Hiệp định về tương
trợ tư pháp thì cơ quan chức năng cần đề nghị cơ quan tư pháp nước sở tại
cung cấp tài liệu liên quan để tham khảo, xác minh làm rõ thông tin tội phạm
và xử lý theo quy định.
Tố giác về tội phạm là quyền, đồng thời là nghĩa vụ của mỗi công dân;
khi phát hiện tội phạm hoặc biết rõ người thực hiện tội phạm, công dân thực hiện
quyền và nhiệm vụ tố giác tội phạm với các cơ quan, tổ chức. Trong những
trường hợp nhất định, công dân buộc phải thực hiện nghĩa vụ tố giác về tội
phạm, hành vi khơng tố giác trong những trường hợp này có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội khơng tố giác tội phạm quy định tại Điều 314 BLHS.
Các cơ quan, tổ chức đều có trách nhiệm tiếp nhận tố giác về tội phạm
của cơng dân và chuyển hóa thành tin báo về tội phạm cung cấp cho CQĐT,

VKS theo quy định tại Điều 101 BLTTHS năm 2003 (trước đây, Điều 84
BLTTHS năm 1988 chỉ có CQĐT, VKS, Tịa án hoặc với cơ quan khác của
Nhà nước hoặc tổ chức xã hội mới có trách nhiệm tiếp nhận tố giác về tội
phạm); có trách nhiệm báo tin cho CQĐT, VKS những vụ việc dấu hiệu tội
phạm xảy ra trong đơn vị; người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải chịu trách
nhiệm về việc không thông báo hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan hoặc
trong lĩnh vực quản lý của mình (Điều 26 BLTTHS); cơ quan nhà nước
phải thông báo ngay cho CQĐT biết mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ
quan, trong lĩnh vực quản lý của mình (khoản 2 Điều 7, Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự).


12
Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc tiếp nhận tin báo về tội phạm nói riêng và trong đấu
tranh phịng, chống tội phạm nói chung; chủ động áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm, thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, kịp thời phát hiện, thông báo ngay cho CQĐT, VKS dấu hiệu
tội phạm xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình, khơng
được che giấu hoặc giữ lại để xử lý nội bộ.
Từ những phân tích trên có thể hiểu “tố giác”, “tin báo” về tội phạm
như sau:
Tố giác và tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được
quy định trong Bộ luật hình sự do cơng dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội (gọi tắt là người, cơ quan, tổ chức) cung cấp cho cơ quan
có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết, do các phương tiện thông tin đại
chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú.
Tố giác về tội phạm trước hết phải là những thông tin về hành vi do con
người thực hiện, mang tính nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào các quan hệ
xã hội được Nhà nước bảo vệ, hành vi này đã được quy định là tội phạm cụ

thể trong Bộ luật Hình sự; thơng tin này do cơng dân nắm bắt được trực tiếp
hoặc gián tiếp và cung cấp bằng nhiều hình thức khác nhau, như: bằng miệng,
bằng văn bản; với cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận là tất cả các cơ
quan Nhà nước, tổ chức chính trị, kinh tế, tổ chức xã hội hoặc với các cơ quan
có trách nhiệm giải quyết là CQĐT hình sự, một số cơ quan được giao một số
hoạt động điều tra hình sự ban đầu.
Tin báo về tội phạm cũng là những thông tin về hành vi do con người
thực hiện, mang tính nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào các quan hệ xã hội
được Nhà nước bảo vệ, hành vi này đã được quy định là tội phạm cụ thể trong
Bộ luật Hình sự; những thơng tin này do các cơ quan, tổ chức tiếp nhận từ tố
giác về tội phạm của công dân hoặc tự phát hiện, nắm bắt qua hoạt động chức
năng của mình. Những thông tin về tội phạm này được chuyển đến VKS, trực


13
tiếp đến CQĐT hoặc cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra
theo quy định của pháp luật. Tin báo về tội phạm cũng có thể do CQĐT, VKS
thu thập, nắm được trên phương tiện thông tin đại chúng.
1.1.1.2. Nguồn tố giác, tin báo về tội phạm
Nguồn TG, TBVTP là nguồn gốc, cách thức hình thành TG, TBVTP;
tùy theo cách xác định nguồn, có thể qua chủ thể cung cấp hoặc nội dung của
TG, TBVTP hoặc những tiêu chí khác mà có thể phân loại các nguồn TG,
TBVTP khác nhau.
Căn cứ vào chủ thể cung cấp thì có các nguồn TG, TBVTP chủ yếu sau:
Thứ nhất, do công dân tố giác với CQĐT, VKS hoặc các cơ quan, tổ
chức khác. Trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm là của tồn dân, mà
nịng cốt là các lực lượng có chức năng trực tiếp đấu tranh phịng, chống tội
phạm. Tuy vậy, do tội phạm xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi
địa bàn nên chỉ có người dân là người sớm phát hiện và biết được tội phạm
đang thực hiện, đã xảy ra. Tố giác của công dân về tội phạm là một nguồn

quan trọng nhất. Thực tế trong thời gian qua, tố giác về tội phạm của công dân
đã giúp cho các cơ quan chức năng đã phát hiện, khởi tố được nhiều vụ án,
đặc biệt là một số vụ án về tham nhũng qua giải quyết tố giác về tội phạm.
Chính vì vậy, Chương trình quốc gia phịng chống tội phạm của Chính phủ
tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh phát động quần chúng nhân dân tham gia
phòng ngừa, phát hiện, tố giác và đấu tranh chống tội phạm.
Thứ hai, do cơ quan, tổ chức cung cấp cho CQĐT, VKS. Qua thực hiện
chức năng, nhiệm vụ; cơ quan, tổ chức phát hiện thông tin về tội phạm hoặc
tiếp nhận tố giác về tội phạm của công dân rồi chuyển đến cơ quan chức năng
giải quyết. Đây là một trong những nguồn cung cấp thông tin quan trọng, đặc
biệt những tin báo về tội phạm của các cơ quan, đơn vị có chức năng quản lý
nhà nước, bởi những tin báo này có độ chính xác cao, có cơ sở cho việc định
hướng xác minh của CQĐT. Trong một số trường hợp, khi xem xét vi phạm
để xử phạt hành chính, cơ quan chức năng phát hiện có dấu hiệu tội phạm nên


14
đã chuyển ngay hồ sơ đến CQĐT hoặc VKS để giải quyết; nếu đã quyết định
xử phạt hành chính thì phải hủy bỏ quyết định đó rồi chuyển hồ sơ đến CQĐT
hoặc VKS giải quyết theo thẩm quyền (Điều 62, Điều 111 Pháp lệnh xử phạt
vi phạm hành chính năm 2002). Qua thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp, VKS các cấp đã phát hiện, cung cấp cho CQĐT của VKSND
tối cao để xác minh, khởi tố được nhiều vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp.
Thứ ba, do các cơ quan, đơn vị truyền thông đăng tin, đưa tin trên các
phương tiện thông tin đại chúng, như: báo, đài phát thanh, truyền hình và
mạng internet,... Đây là những hình thức chuyển tải, lan truyền thơng tin rất
nhanh, rộng trong xã hội, ngày càng được nhiều người quan tâm, tiếp cận.
Những năm qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt quan tâm
đưa những tin, bài phản ánh về tội phạm, tệ nạn xã hội, vụ việc tiêu cực, tham
nhũng ở các lĩnh vực, các cấp, các ngành, các địa phương,... Đây là những

thông tin gây sự chú ý của mọi tầng lớp nhân dân, nhanh chóng tạo nên dư
luận xã hội mạnh mẽ. Qua giải quyết nguồn tin báo này, cơ quan chức năng đã
giải quyết nhiều vụ án lớn, góp phần quan trọng trong việc củng cố lòng tin
của nhân dân đối với cơ quan tư pháp, đối với Đảng, Nhà nước ta. Tuy nhiên,
những tin báo về tội phạm qua phương tiện thông tin đại chúng thường là
những thông tin ban đầu hoặc được thu thập, ghi nhận một cách chưa toàn
diện và đơi khi sự nhận định, đánh giá cịn mang tính chủ quan của tác giả.
Thứ tư, người phạm tội tự thú; người đã thực hiện hành vi tội phạm,
hành vi chưa bị phát giác nhưng do nhận thức được về hành vi phạm tội của
mình đã gây ra, nên tự đến cơ quan chức năng khai báo về tội phạm mà bản
thân đã thực hiện. Đây là nguồn thông tin về tội phạm có giá trị cao trong việc
xác định dấu hiệu tội phạm, khởi tố điều tra và chứng minh tội phạm.
Qua việc phân loại nguồn TG, TBVTP giúp cho cơ quan chức năng
nắm được tình hình chung, cụ thể mỗi nguồn TG, TBVTP, làm cơ sở xây
dựng kế hoạch, biện pháp để nắm, tiếp nhận, giải quyết và kiểm sát việc giải
quyết TG, TBVTP có hiệu quả.


15
1.1.1.3. Đặc điểm của tố giác, tin báo về tội phạm
- Tố giác, tin báo về tội phạm rất đa dạng về nguồn gốc, nội dung.
Trong thực tiễn, các hành vi phạm tội rất khác nhau, thể hiện trên các
yếu tố cấu thành tội phạm: chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan. Mỗi TG, TBVTP cũng chứa những nội dung khác nhau, cũng có thể
chỉ chứa đựng lượng thông tin nhỏ trong vụ án lớn hoặc phần lớn thông tin
về tội phạm đã được phản ánh trong TG, TBVTP. Nguồn cung cấp TG,
TBVTP rất đa dạng, phong phú: Có thể là mọi cơng dân, cơ quan, tổ chức
khi phát hiện, nắm được những thông tin về mọi tội phạm được quy định
trong BLHS, có thể được thu thập qua các phương tiện thông tin đại chúng,
như: báo, đài, internet,...

- Tố giác, tin báo về tội phạm mang tính thời sự.
Trong xu hướng tồn cầu hóa hiện nay, tội phạm cũng khơng ngoại lệ,
tội phạm có tổ chức, xun quốc gia ngày càng gia tăng, nhất là nhóm tội
phạm về khủng bố, rửa tiền, ma túy, buôn bán người, tội phạm xẩy ra trong
lĩnh vực trong đầu tư kinh tế. Đây đang là vấn đề nhạy cảm, mang tính thời sự
và tạo sự quan tâm, chú ý của nhiều người, của cả xã hội, trong phạm vi quốc
gia cũng như quốc tế. Ở trong nước, do bức xúc về tình hình trật tự xã hội
ngày càng có chiều hướng phức tạp do tội phạm gây ra, nên khi có sự kiện
phạm tội xẩy ra thì nhiều người đã kịp thời báo cho các cơ quan chức năng
giải quyết hoặc đưa lên phương tiện thơng tin đại chúng. Chính vì vậy tố giác,
tin báo về tội phạm ln mang tính thời sự
- Tố giác, tin báo về tội phạm thường không đầy đủ.
Do nhận thức chung về tội phạm, từng tội phạm cụ thể của mỗi chủ thể
cung cấp TG, TBVTP ở mức độ khác nhau; do tiếp nhận thông tin về tội
phạm ở những góc độ, thời điểm nhất định,… nên TG, TBVTP thường phiến
diện, thiếu đầy đủ, cụ thể; mặt khác, đối tượng phạm tội ln tìm mọi cách để
che giấu tội phạm, do đó, TG, TBVTP thường được người nắm được thông tin
về tội phạm cung cấp khơng đầy đủ, thiếu tính tồn diện.


16
- Tố giác, tin báo về tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự.
Tố giác, tin báo về tội phạm được quy định trong BLHS và văn bản
pháp luật có liên quan. Giải quyết TG, TBVTP có vai trò, ý nghĩa rất quan
trọng trong việc phát hiện, khởi tố điều tra tội phạm, trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Bởi vậy, việc tiếp
nhận, giải quyết TG, TBVTP phải tuân thủ các quy định của BLTTHS và các
văn bản pháp luật liên quan.
Ngoài việc giúp cho các CQĐT, VKS, Tồ án,… phát hiện, điều tra, xử
lý tội phạm thì TG, TBVTP là cơ sở, xuất phát điểm, là nguồn thông tin chủ

yếu để CQĐT xác minh làm rõ căn cứ và tính hợp pháp những thơng tin về tội
phạm, để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự; làm cơ sở hoạt
động tố tụng hình sự tiếp theo. Tố giác, tin báo về tội phạm cũng là nguồn
thơng tin quan trọng để truy tìm kẻ phạm tội, đối tượng bị truy nã; xác định
nơi cất giữ, tiêu thụ tài sản do hành vi phạm tội mà có hoặc cung cấp về chỗ
ở, nghề nghiệp, mối quan hệ giữa đối tượng cần thẩm tra với những đối tượng
khác, giúp CQĐT mở rộng vụ án, cũng như nhanh chóng xác minh làm rõ đối
tượng gây án.
1.1.2. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ
quan, tổ chức khác khi có tố giác, tin báo về tội phạm
1.1.2.1. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án là những cơ quan tiến hành tố tụng,
có chức năng, nhiệm vụ cụ thể riêng của từng cơ quan; nhưng có điểm chung
đều là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện, giải quyết
kịp thời các vụ án hình sự, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; khơng làm oan người vơ tội.
Trong q trình giải quyết vụ án hình sự, việc giải quyết TG, TBVTP
có vai trị rất quan trọng. Tuy nhiên, trách nhiệm giải quyết TG, TBVTP chủ
yếu thuộc về CQĐT. Viện kiểm sát có trách nhiệm chính là kiểm sát việc tn
theo pháp luật trong giải quyết TG, TBVTP. Tòa án tham gia với trách nhiệm


17
như một cơ quan, tổ chức khác trong vai trò tiếp nhận TG, TBVTP; khi phát
hiện trong số các vụ án hình sự đã đưa ra xét xử, có phát hiện có TG, TBVTP
chưa được điều tra xử lý thì Tồ án có thể u cầu CQĐT, VKS tiếp tục điều
tra, xử lý, nếu thấy từ đó có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.
*. Trách nhiệm của Cơ quan điều tra
Trách nhiệm đầu tiên của CQĐT là tiếp nhận đầy đủ, tất cả các TG,
TBVTP do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến; không được từ chối tiếp

nhận với bất cứ lý do nào (như TG, TBVTP không đầy đủ, không thuộc thẩm
quyền hoặc nặc danh...).
Sau khi tiếp nhận TG, TBVTP, CQĐT phải xác định thẩm quyền giải
quyết TG, TBVTP. Nếu thuộc thẩm quyền của CQĐT thì thụ lý TG, TBVTP,
cụ thể là: ghi chép những thông tin ban đầu vào sổ thụ lý theo đúng những
cột, mục về TG, TBVTP (ngày, tháng tiếp nhận, thụ lý, nội dung, nguồn của
TG, TBVTP, chủ thể đã cung cấp TG, TBVTP, phân công cán bộ giải quyết,
những kết quả xử lý…). Nếu xét thấy khơng thuộc thẩm quyền của CQĐT thì
phải chuyển ngay đến CQĐT có thẩm quyền hoặc các cơ quan có thẩm quyền
khác để giải quyết. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, khi chưa xác định
được thẩm quyền thì CQĐT tiếp nhận TG, TBVTP phải áp dụng các biện
pháp khẩn cấp, như kịp thời cấp cứu người bị nạn, thu thập dấu vết tại hiện
trường, truy tìm tang vật, truy tìm hung thủ theo dấu vết nóng,…
Khi đã thụ lý TG, TBVTP, Thủ trưởng CQĐT ra quyết định phân công
Điều tra viên giải quyết TG, TBVTP. Trên cơ sở những thông tin ban đầu về tội
phạm, Điều tra viên phải xây dựng kế hoạch, tổ chức xác minh, kiểm tra nguồn
tin, làm rõ các tình tiết liên quan, thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định dấu hiệu
tội phạm thông qua sử dụng các biện pháp, thao tác nghiệp vụ, áp dụng các biện
pháp tố tụng, như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai
người bị tạm giữ, xem xét dấu vết, thu thập tài liệu, trưng cầu giám định,...
Điều tra viên phải tiến hành xem xét, phân tích, đánh giá các tình tiết,
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ việc để kết luận việc xác minh; trên cơ sở đó


18
để tìm ra những dấu hiệu tội phạm, đồng thời đối chiếu với những quy định
pháp luật cụ thể làm căn cứ xem xét quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ
án hình sự hoặc chuyển vụ việc đến CQĐT có thẩm quyền xử lý; chuyển đến
cơ quan khác giải quyết theo thủ tục hành chính, dân sự,… Xác định dấu hiệu
tội phạm làm căn cứ để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự chính là việc xác

định hành vi đó có phạm vào một trong những tội phạm được quy định trong
BLHS và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Trong giải quyết TG,
TBVTP, CQĐT chưa cần phải xác định đầy đủ tất cả dấu hiệu tội phạm mà
chỉ cần xác định có hành vi đã gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS là có căn cứ để quyết định khởi tố vụ án hình sự, tạo cơ sở pháp lý để
tiến hành điều tra đầy đủ về tội phạm, người phạm tội. Do quyết định khởi tố
vụ án hình sự là quyết định pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người
tiến hành tố tụng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia
tố tụng nên việc khởi tố vụ án được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Những
hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm nên quá trình xác minh, thu thập
chứng cứ CQĐT phải xác định rõ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi đã thực hiện; cần phân biệt dấu hiệu tội phạm là căn cứ khởi tố vụ án
hình sự, với những cơ sở mà dựa vào đó dấu hiệu tội phạm được phản ánh.
Cơ quan điều tra phải phân biệt rõ những căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng
xác minh dấu hiệu tội phạm với dấu hiệu tội phạm trong sự kiện pháp lý cụ
thể. Đối với một số tội phạm xâm phạm sức khỏe, danh dự nhân phẩm thì
ngồi việc xác định dấu hiệu tội phạm còn phải xem xét quan điểm của người
bị hại về vụ việc mới được quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Khi CQĐT xác định có căn cứ khơng khởi tố vụ án hình sự thì người có
thẩm quyền khởi tố vụ án phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu
đã ra quyết định khởi tố vụ án thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố
vụ án; nếu thấy TB, TGVTP cần phải xử lý bằng biện pháp khác thì phải
chuyển vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền.


19
Cơ quan điều tra phải gửi kết quả giải quyết TG, TBVTP đến VKS
cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP; phải thông báo kết quả giải
quyết cho cơ quan, tổ chức và công dân đã cung cấp TG, TBVTP biết, để

những chủ thể này thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình đối với việc
giải quyết TG, TBVTP của CQĐT. Trường hợp CQĐT ra quyết định khơng
khởi tố vụ án hình sự hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự thì trong
thời hạn 24 giờ, phải gửi quyết định này kèm theo các tài liệu có liên quan
cho VKS cùng cấp để tiến hành việc kiểm sát (khoản 1 Điều 108 BLTTHS).
Cơ quan điều tra có trách nhiệm kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết
định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự trong thời hạn
hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được TG, TBVTP. Trường hợp TG, TBVTP
có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc phải kiểm tra,
xác minh tại nhiều thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn
nhưng cũng khơng q hai tháng (khoản 2 Điều 103 BLTTHS).
Cơ quan điều tra có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo
vệ người đã tố giác về tội phạm, ngăn chặn kẻ phạm tội trả thù hoặc ngăn cản
họ phối hợp với CQĐT trong việc giải quyết TG, TBVTP. Cơ quan, tổ chức,
cá nhân đã cung cấp TG, TBVTP có quyền khiếu nại khi cho rằng việc giải
quyết TG, TBVTP thiếu khách quan, không đúng pháp luật, CQĐT phải thụ
lý đơn, giải quyết đơn khiếu nại (khoản 2 Điều 108 BLTTHS).
Như vậy, giải quyết TG, TBVTP là việc CQĐT tiếp nhận, thụ lý TG,
TBVTP, tổ chức kiểm tra, xác minh nguồn tin và kết luận có hay khơng có
dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Hoạt động tiếp nhận TG, TBVTP thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan khác
nhau, nhưng việc giải quyết TG, TBVTP duy nhất thuộc về CQĐT và một số
cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu.
* Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND thì Viện kiểm
sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư


20
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống

nhất. Trong tố tụng hình sự, VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát
hiện, xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp thông qua các hoạt động
kiểm sát cụ thể, trong đó kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của CQĐT
được xác định là một trong những nội dung hoạt động của ngành Kiểm sát.
Hoạt động kiểm sát việc giải quyết TB, TGVTP của CQĐT ở mỗi cấp kiểm
sát được tổ chức bởi những bộ phận, đơn vị làm công tác THQCT & KSĐT
các vụ án hình sự.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định khi giải
quyết án hình sự, thì một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà VKS
phải làm tốt là kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của CQĐT. Hoạt động
này có sự gắn kết chặt chẽ và hỗ trợ đắc lực cho hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử của VKS. Theo quy định Điều 86
BLTTHS năm 1988, thì ngồi việc tiếp nhận TG, TBVTP, VKS có trách
nhiệm kiểm tra, xác minh TG, TBVTP và quyết định khởi tố vụ án hoặc
không quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quy định này giúp cho VKS chủ
động khi thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP, trong
trường hợp quyền yêu cầu của VKS không được thực hiện triệt để, đảm bảo
mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện, khởi tố điều tra. Tuy nhiên, để tập
trung đầu mối và tránh việc giải quyết TG, TBVTP trùng lặp, chồng chéo,
BLTTHS năm 2003 bỏ quy định VKS có trách nhiệm giải quyết TG, TBVTP.
Do đó, sau khi tiếp nhận, thụ lý, VKS chuyển ngay những TG, TBVTP đến
CQĐT có thẩm quyền giải quyết. Như vậy, theo quy định BLTTHS 2003,
trách nhiệm chính của VKS là kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của
CQĐT và các cơ quan khác tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu.



21
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002 đều quy định Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải
quyết TG, TBVTP của CQĐT, các cơ quan khác được giao một số hoạt động
điều tra; nhằm đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện đều phải được khởi tố
kịp thời, không để lọt tội phạm, đảm bảo việc khởi tố có căn cứ và hợp pháp.
Thực hiện trách nhiệm này, nhiệm vụ đầu tiên của VKS là phải nắm được đầy
đủ TG, TBVTP để đảm bảo kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết TG, TBVTP của
CQĐT. Cụ thể là kiểm sát: Việc tiếp nhận, thụ lý TG, TBVTP; việc xác minh,
thu thập tài liệu làm rõ nội dung TG, TBVTP; về căn cứ và tính hợp pháp các
quyết định của CQĐT; về thời hạn giải quyết TG, TBVTP; việc gửi, thông
báo kết quả giải quyết TG, TBVTP và việc giải quyết khiếu nại của công dân,
cơ quan, tổ chức về việc giải quyết TG, TBVTP của CQĐT.
Quá trình kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP, VKS có trách nhiệm
kiểm sát việc CQĐT áp dụng căn cứ pháp lý ra quyết định khởi tố hoặc khơng
khởi tố vụ án hình sự. Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT trái
pháp luật thì VKS có quyền u cầu CQĐT hủy bỏ hoặc ra quyết định huỷ bỏ
quyết định đó. Nếu quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không
căn cứ theo quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2003 thì VKS có quyền và
có trách nhiệm hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án, đồng thời quyết định
khởi tố vụ án và yêu cầu điều tra. Nếu quyết định khởi tố vụ án không đúng
với hành vi phạm tội xảy ra hoặc cịn có tội phạm khác, thì VKS có trách
nhiệm u cầu CQĐT thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án để đảm
bảo không bỏ lọt tội phạm. Nếu quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự khơng có căn cứ thì VKS phải yêu cầu hủy bỏ hoặc trực
tiếp quyết định hủy bỏ. Đây chính là quyền, trách nhiệm của VKS nhằm thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát việc tuân thủ quy định thời hạn giải
quyết TG, TBVTP được quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS năm 2003,
đảm bảo việc giải quyết TG, TBVTP được tiến hành khẩn trương kịp thời,



22
phục vụ hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm. Trong thời hạn
20 ngày, trường hợp tối đa là hai tháng, kể từ ngày nhận được TG, TBVTP,
CQĐT phải tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn chứng cứ về TG, TBVTP và
quyết định khởi tố hoặc không khởi vụ án hình sự.
Viện kiểm sát phải kiểm sát tính hợp pháp các quyết định của CQĐT
trong giải quyết TG, TBVTP. Tùy theo mức độ vi phạm khi ban hành các
quyết định của CQĐT, VKS có quyền yêu cầu khắc phục hoặc hủy bỏ quyết
định nhằm đảm bảo quyết định này được ban hành đúng thẩm quyền, đúng
thể thức theo quy định của pháp luật. VKS kiểm sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân về việc giải quyết TG, TBVTP, bảo đảm việc giải quyết
khiếu nại về công tác này của CQĐT đúng quy định tại Điều 329 BLTTHS
năm 2003 và quy định khác có liên quan.
Viện kiểm sát có trách nhiệm phát hiện và yêu cầu CQĐT khắc phục vi
phạm pháp luật trong hoạt động giải quyết TG, TBVTP. Qua kiểm sát giải
quyết TG, TBVTP, tổng hợp những sơ hở, thiếu sót và kiến nghị các cơ quan,
tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm (Điều 23 BLTTHS
năm 2003).
Thực hiện quy định tại Điều 5 và Khoản 7 Điều 33 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002, VKS có trách nhiệm thực hiện việc thống kê tội
phạm, trách nhiệm này chỉ được thực hiện đầy đủ, tồn diện khi có những số
liệu phản ánh khách quan, chính xác ngay từ quá trình tiếp nhận, giải quyết
TG, TBVTP.
1.2.2.2. Trách nhiệm của Cơ quan điều tra thuộc
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và trách nhiệm của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của viện
kiểm sát

* Trách nhiệm của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao


23
Trước đây, CQĐT của VKS được tổ chức ở hai cấp, Cục Điều tra
VKSND tối cao và Phòng điều tra VKS cấp tỉnh. Hiện nay, Cơ quan điều tra
VKSND tối cao (Cục Điều tra) là CQĐT chuyên trách, duy nhất có thẩm
quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ của các cơ quan tư pháp, quy định tại Chương XXII BLHS, chủ thể
của loại tội phạm là cán bộ của các cơ quan tư pháp (Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán,…) và tội phạm đó phải thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân. Cơ quan điều tra VKSND tối cao có trách nhiệm tiếp nhận, giải
quyết TG, TBVTP xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền.
* Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Ở VKSND tối cao, nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết TG, TBVTP của
CQĐT thuộc VKSNDTC do Vụ THQCT & KSĐT án hình sự về trật tự xã hội
(Vụ 1A) thực hiện, được tiến hành thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể của VKS nói chung theo Quy chế cơng tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
và đồng thời theo thẩm quyền điều tra của CQĐT và VKSND tối cao.
1.1.2.3. Trách nhiệm của những cơ quan, tổ chức khác
Pháp luật Việt Nam quy định: Các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ phát
hiện TG, TBVTP; tham gia đấu tranh phịng, chống tội phạm, góp phần bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan, tổ
chức; đồng thời thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan, người tiến
hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm; trách
nhiệm quan trọng đầu tiên của mỗi cơ quan, tổ chức là tiếp nhận đầy đủ tố
giác về tội phạm và chuyển đến CQĐT, VKS để giải quyết theo thẩm quyền.
Để cơng tác phịng, chống tội phạm đạt hiệu quả, thì một trong những

nhiệm vụ có vai trị quan trọng là nắm thơng tin tội phạm, bởi vì chỉ khi nắm
và quản lý chặt chẽ được thơng tin về tội phạm mới có cơ sở thực tiễn để
nghiên cứu, xây dựng kế hoạch, chiến lược đấu tranh phịng, chống hiệu quả.
Vì vậy, để việc tố giác về tội phạm của công dân, việc tiếp nhận TG, TBVTP


24
của cơ quan chức năng được tiến hành thuận lợi, Điều 101 BLTTHS năm
2003 đã bổ sung quyền, trách nhiệm tiếp nhận tố giác về tội phạm là của mọi
cơ quan, tổ chức, khơng bó hẹp trong những cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội như quy định của BLTTHS năm 1988. Khi tiếp nhận tố giác về tội phạm,
cơ quan, tổ chức phải tiến hành theo đúng những quy định của BLTTHS năm
2003, nếu công dân tố giác về tội phạm bằng miệng phải lập biên bản ghi
chép lại nội dung và có ký xác nhận của cơng dân đã tố giác. Mọi cơ quan, tổ
chức trong quá trình tổ chức, hoạt động nếu phát hiện thông tin về tội phạm
phải báo với CQĐT, VKS. Sau khi tiếp nhận tố giác về tội phạm, cơ quan, tổ
chức phải chuyển ngay tố giác về tội phạm đến CQĐT, VKS để giải quyết.
Khi người phạm tội đến tự thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản
ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và lời khai của người tự thú. Cơ quan,
tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho CQĐT
hoặc VKS theo đúng quy định tại Điều 102 BLTTHS năm 2003.
Qua công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao, các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm kịp thời phát hiện các hành
vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản lý của mình và phải
báo tin ngay cho CQĐT, VKS; kịp thời gửi các tài liệu có liên quan cho
CQĐT, VKS xem xét, khởi tố điều tra vụ án. Thủ trưởng các cơ quan Nhà
nước phải chịu trách nhiệm về việc không thông báo hành vi phạm tội xảy ra
trong cơ quan, trong lĩnh vực quản lý của mình cho CQĐT, VKS. Mặt khác,
các cơ quan Nhà nước còn có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện
để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện chức

năng, nhiệm vụ; đồng thời, nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ
(Điều 26 BLTTHS năm 2003).
Do tính chất đặc trưng về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Thanh tra,
nên khoản 2 Điều 26 BLTTHS năm 2003 u cầu cơ quan Thanh tra Chính
phủ có trách nhiệm phối hợp với CQĐT, VKS, Tòa án trong việc phát hiện và


25
xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan Thanh
tra phải chuyển ngay các tài liệu có liên quan và kiến nghị CQĐT, VKS xem
xét, khởi tố vụ án hình sự.
Để việc phát hiện, xử lý kịp thời tội phạm, ngoài quy định thẩm quyền khởi
tố vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, Điều 104 BLTTHS năm 2003
còn quy định Thủ trưởng đơn vị Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết
định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 111 BLTTHS năm
2003. Do có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự nên những cơ quan này cũng có
trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết TG, TBVTP, như vậy việc giải quyết TG,
TBVTP của các cơ quan này cũng là đối tượng kiểm sát của VKS.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm
1.1.3.1. Khái niệm, nội dung pháp luật trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm
* Khái niệm
Pháp luật có vai trị, giá trị xã hội mà không một công cụ, phương tiện
điều chỉnh quan hệ xã hội nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, vai trò của
pháp luật chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi các quy định của pháp luật được
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và công dân thực hiện đầy đủ, nghiêm

chỉnh. Do đó, thực tiễn không chỉ cần đầy đủ các văn bản pháp luật, mà điều
quan trọng là pháp luật phải được thực hiện, yêu cầu của pháp luật phải trở
thành hiện thực.
Thực hiện đúng pháp luật là một quá trình hoạt động của con người có
tổ chức, có chủ ý bao hàm những hành vi hợp pháp, phù hợp với những quy
định, yêu cầu của pháp luật, làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc
sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Các quy
định pháp luật rất phong phú nên cũng có nhiều hình thức thực hiện pháp luật.


×