Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trong ngành kiểm sát nhân dân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.33 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong hoạt động của cơ quan
nhà nước nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, cơng chức, góp phần xây
dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức là
cơng bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất, năng lực, làm việc có năng suất,
chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước;
ngăn chặn và chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu
nhân dân là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước
yêu cầu của thực tiễn, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, như: Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về việc xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị quyết số 55-NQ/UBTVQH
(10) ngày 30/8/1998 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 10 về việc Ban
hành Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan; Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 71/1998 quy định về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan; ngày
28/3/2002 Ban Bí thư Trung ương Đảng có Chỉ thị số 10-CT/TW về việc tiếp
tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố IX được trình
bày tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng đã tiếp tục khẳng định
phải “Hoàn thiện Quy chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở”.
Ngày 04/3/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khoá X) đã ban hành Kết
luận số 65-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính
trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và văn bản pháp luật
của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở, ngành Kiểm sát nhân dân đã xây
dựng và ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm



2
sát nhân dân các cấp (Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 71/QĐ-VT
ngày 21/11/1998). Qua 10 năm thực hiện Quy chế đã được sửa đổi, bổ sung
và ban hành kèm theo Quyết định số 757/QĐ-VKSTC ngày 03/12/2008 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong quá trình tổ chức thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân đã có hiệu quả
tích cực, góp phần xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch vững mạnh
để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành, xây dựng đội ngũ cán bộ,
Kiểm sát viên có đủ phẩm chất và năng lực, hoạt động có hiệu quả, từng bước
đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp; thực hiện pháp luật về dân chủ trong
ngành Kiểm sát nhân dân đã tạo điều kiện để cán bộ, Kiểm sát viên phát huy
quyền làm chủ của mình, tích cực đóng góp vào cơng việc chung, nâng cao
tinh thần trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời tạo điều kiện cho
nhân dân và các cơ quan Nhà nước tham gia kiểm tra, giám sát và đóng góp ý
kiến xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp còn
bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, vi phạm như: Một số ít đơn vị thực hiện việc
tổ chức quán triệt văn bản pháp luật về dân chủ trong hoạt động của Viện
kiểm sát chưa thường xun, cịn mang tính hình thức, nên một số cán bộ,
công chức nhất là số mới vào ngành nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan
trọng và nội dung trong việc thực hiện pháp luật về dân chủ trong cơ quan,
đơn vị; tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình chưa cao. Một số Viện
kiểm sát địa phương còn kéo dài việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của
công dân gây bức xúc đối với công dân. Trong hoạt động nghiệp vụ ở một số
đơn vị cịn có thiếu sót, vi phạm làm ảnh hưởng đến quyền dân chủ của công
dân, như: việc bắt, tạm giữ hình sự sau xử lý hành chính cịn cao, để xảy ra
một số trường hợp đình chỉ điều tra do khơng phạm tội hoặc Tịa án tun
khơng phạm tội. Trong công tác tổ chức, cán bộ và sử dụng kinh phí, mua
sắm, thanh lý tài sản có việc chưa thực sự dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ,



3
nên phát sinh đơn tố cáo nặc danh. Những thiếu sót, khuyết điểm nêu trên dẫn
đến chất lượng, hiệu quả việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong
ngành Kiểm sát nhân dân thời gian qua còn có những hạn chế nhất định. Trước
tình hình đó, vấn đề nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở để đề xuất quan điểm và giải pháp thích hợp, nhằm nâng cao
hiệu quả thiết thực của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành
Kiểm sát nhân dân là yêu cầu khách quan. Từ trước đến nay chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu vấn đề này; học viên chọn đề tài: “Thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam” để làm
luận văn thạc sĩ Luật học chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
là vấn đề cần thiết và cấp bách, đáp ứng yêu cầu về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ, dân chủ ở cơ sở, thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cơ sở từ lâu đã thu hút sự quan tâm chú ý của những người làm công tác
nghiên cứu lý luận, quản lý và hoạt động thực tiễn ở nhiều lĩnh vực khác
nhau. Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này
của các cá nhân, tập thể được công bố, như:
- "Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", Nxb Sự thật, Hà Nội,
1991 của Thái Ninh - Hồng Chí Bảo.
- "Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận
và phương pháp nghiên cứu", Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/1992 của Hồng
Chí Bảo.
- "Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", của Trần Quang Nhiếp, Tạp
chí Cộng sản, số 2, tháng 1/1999.
- "Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ", Tạp
chí Quản lý Nhà nước, số 1/1999 của Lê Minh Châu.
- "Dân chủ và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh", của Th.S
Phạm Văn Bính, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 8/2000.



4
- "Tiếp tục xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", của Trương
Quang Được, Tạp chí Cộng sản, số 12, tháng 4/2002.
- "Thực hiện dân chủ trong thời kỳ đổi mới ở nước ta", của Th.S Hồng
Văn Nghĩa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8, năm 2002.
- "Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở", của TS. Đặng Đình
Tân và Đặng Minh Tuấn, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2002.
- "Chung quanh những vấn đề quy chế dân chủ ở nước ta hiện nay" của
Lương Gia Ban, Tạp chí Cộng sản, số 13, tháng 5 năm 2002.
- "Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới", của Tịng Thị Phóng, Tạp chí Cộng sản, số 21, tháng 11/2003.
- "Để thực hiện dân chủ ở cơ sở", của Lê Quang Minh, Tạp chí Cộng sản
số 11, tháng 4 năm 2003.
- "Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới: thành tựu, vấn đề
và giải pháp", của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 3/2004.
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở", của Lê Xuân Đình, Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng 10/2004.
- "Đưa cuộc vận động thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở lên một bước
mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn", của Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Nơng Đức Mạnh, Tạp chí Cộng sản, số 20,
tháng 10/2004.
- "Dân chủ và phát huy dân chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới"
của TS. Lê Trọng Ân, Tạp chí Cộng sản, số 24, tháng 12/2004.
- "Về dân chủ ở cơ sở", của PGS. Nguyễn Huy Quý, Tạp chí Cộng sản,
số 4, tháng 2/2004.
- Đinh Xuân Thảo: “Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam chú trọng
việc nâng cao tính dân chủ và văn hóa trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm

sát, số 2, tháng 2/2005.


5
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với việc thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Chính trị học của Nguyễn
Thị Tâm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường trung học phổ
thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay - thực trạng và giải pháp", Luận án tiến sĩ
Chính trị học của Nguyễn Thị Xuân Mai, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2004.
- “Hồn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Quốc Huy, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2006.
- “Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn
tỉnh Hưng Yêu trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của Ngơ
Thị Hịa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường trên địa bàn thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Việt Nga, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
- Phương Văn Đơng (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
sửa đổi, bổ sung Quy chế thực hiện dân chủ trong ngành Kiểm sát nhân
dân”, Chuyên đề Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
- Nguyễn Văn Đông (2010), “Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra
nhân dân Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực trạng và một số vấn đề, kiến
nghị”, Chuyên đề Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
- “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức,
Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ của Vương Ngọc Thịnh, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2010.
- Nguyễn Kim Sáu (2011), “Công tác kiểm tra việc thực hiện Quy chế

dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp - Thực trạng và
giải pháp”, Chuyên đề viện Kiểm sát nhân dân tối cao.


6
Ngồi ra, cịn rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học,
các đề tài đã được nghiệm thu, các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, cùng
nhóm đề tài mang mã số 60 38 01 về vấn đề dân chủ, thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Các cơng trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu về dân chủ, thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Các
cơng trình đó cũng đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ chế
thực hiện dân chủ. Các tác giả cũng đã chỉ ra phương hướng và giải pháp nhất
định nhằm bảo đảm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu đầy đủ về việc thực hiện pháp luật về dân chủ trong
ngành Kiểm sát nhân dân. Do đó, việc nghiên cứu đề tài“Thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam” là cơng
trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách đầy đủ, tồn diện và có hệ thống,
góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trong ngành Kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Những kết
quả nghiên cứu các cơng trình khoa học nêu trên là nguồn tài liệu có giá trị
tham khảo để tác giả nghiên cứu luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để
đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam trong tiến trình cải
cách tư pháp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích trên, luận văn có những
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận về dân chủ, dân chủ ở

cơ sở, dân chủ trong cơ quan nhà nước và việc thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân.
- Đánh giá thực trạng việc thực hiện pháp luật về dân chủ trong ngành
Kiểm sát nhân dân thời gian qua.


7
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam trong tiến
trình cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn
đề có liên quan đến thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành Kiểm
sát nhân dân ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
có liên quan đến thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân; không nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở của Viện kiểm sát quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước về lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, về vấn đề dân chủ, thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở cũng như những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay về vấn đề dân chủ và về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương
pháp được sử dụng là các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học
xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân
tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể; đồng thời cũng sử dụng kết hợp các phương

pháp nghiên cứu luật học.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình khảo cứu đầu tiên nghiên cứu một cách tương
đối có hệ thống và tồn diện ở cấp độ luận văn Thạc sĩ Luật học về thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam, luận
văn có những đóng góp khoa học mới, cụ thể như sau:


8
- Về phương diện lý luận: Bổ sung một số vấn đề lý luận về dân chủ ở
cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân
dân; chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở.
- Về phương diện thực tiễn: Đánh giá toàn diện việc thực hiện pháp luật
về dân chủ cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân. Đề xuất quan điểm và một
số giải pháp mang tính khả thi để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở trong ngành Kiểm sát nhân dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị thiết thực trong thực tiễn
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Đồng thời, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo về khoa học pháp lý.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN

CHỦ Ở CƠ SỞ TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. QUAN NIỆM VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VÀ PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ

1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Thuật ngữ dân chủ (demo cratic) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ gồm hai
từ gốc ghép lại: "Demos" (nhân dân) và "Kratia" (quyền lực). Do đó, dân chủ diễn
đạt một cách tổng quát và ngắn gọn nhất có nghĩa là quyền lực của nhân dân hay
cịn là chính quyền của nhân dân. V.I.Lênin cho rằng: “nền dân chủ theo nguyên
nghĩa trong tiếng Hy Lạp là chính quyền của nhân dân” [38, tr.86]. Trong lịch sử
Hy Lạp cổ đại, hình thức quyền lực cơng cộng đầu tiên chính là nhà nước Aten
(Nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử). Như vậy, dân chủ là khái niệm
dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng dân cư với nhà nước.
Theo đó, cộng đồng là chủ thể, có quyền năng áp đặt ý chí lên nhà nước.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước,
Ph. Ăngghen đã bàn về vấn đề dân chủ của chế độ thị tộc, trong đó, ơng đã
trích lại lời của Mcgan:
Tồn thể các thành viên của thị tộc đều là những người tự do,
có nghĩa vụ bảo vệ tự do cho nhau, họ đều có những quyền cá nhân
ngang nhau, cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh qn sự đều khơng địi hỏi
những đặc quyền ưu tiên nào cả; họ kết thành một tập thể thân ái,
gắn bó với nhau bởi những quan hệ dịng máu. Tự do, bình đẳng,
bác ái, tuy chưa bao giờ được nêu thành công thức nhưng vẫn là
những nguyên tắc cơ bản của thị tộc [45, tr.130].
Mặc dù, những giá trị dân chủ đã hiện diện hầu hết trong đời sống của
chế độ thị tộc, song khơng vì thế mà có thể khẳng định rằng chế độ dân chủ


10
đã tồn tại ở hình thái xã hội nguyên thủy. Điều này, Ph.Ăngghen đã giải thích

rất rõ: hội nghị thị tộc đã sử dụng cụm từ dân chủ nhưng chủ yếu để cho
người đọc sau này hình dung được về cơ chế và hoạt động của hội nghị thị tộc
lúc đó. Sau này, khi bàn về Nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử là Nhà
nước Aten, thuật ngữ chế độ dân chủ mới xuất hiện. Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ:
"Không phải chế độ dân chủ đã làm cho Aten sụp đổ… mà chính là chế độ nơ
lệ, tức là cái đã làm cho lao động của người công dân tự do bị khinh thị, đã
làm cho Aten sụp đổ" [45, tr.179]. Luận điểm này đã được VI. Lênin khẳng
định khi nghiên cứu về vấn đề dân chủ, nhất là mối quan hệ giữa dân chủ với
nhà nước trong những nhận định thông thường về Nhà nước, người ta luôn
luôn phạm một sai lầm mà Ph.Ăngghen đã căn dặn phải đề phịng. Sai lầm ấy
là: "Người ta ln ln qn rằng thủ tiêu chế độ dân chủ và Nhà nước tiêu
vong cũng là chế độ dân chủ tiêu vong" [34, tr.101].
Nhà nước và dân chủ là hai hiện tượng hiện hữu gắn bó với nhau khi
xem xét một chế độ dân chủ. Chúng có sự độc lập tương đối, lịch sử chứng minh
đã có thời kỳ dài Nhà nước tồn tại mà khơng có dân chủ, điển hình thời kỳ
phong kiến Trung cổ ở Tây Âu hay giai đoạn phong kiến tập quyền ở châu Á.
Vì vậy, dân chủ được quan niệm ở nhiều khía cạnh khác nhau, có nhà
triết học cho rằng, dân chủ là một thể chế chính trị, một hình thức Nhà nước,
ra đời và tồn tại gắn với sự hiện diện của một giai cấp và Nhà nước nhất định,
do đó, nó là một phạm trù lịch sử mang tính giai cấp; nhưng một số người lại
khẳng định dân chủ như một dịng sơng chảy xun suốt lịch sử, kể cả khi
trong đời sống xã hội trước đây chưa xuất hiện và sau này khơng cịn giai cấp,
Nhà nước; vì thế, có một nền dân chủ chung cho toàn nhân loại và dân chủ là
một phạm trù vĩnh viễn; hoặc qua khảo sát dân chủ dưới nhiều góc độ, một số
học giả lại cho rằng dân chủ là một phạm trù lịch sử, gắn với giai cấp khi nó
là một hình thức Nhà nước và dân chủ là một phạm trù vĩnh viễn không nhất
thiết phải gắn với giai cấp khi nó là một kiểu tổ chức quản lý xã hội. Xuất


11

phát từ quan niệm trên, chúng ta nhận thấy dân chủ được tiếp cận từ nhiều
góc độ khác nhau, nhưng nội dung của dân chủ có sự phát triển theo tiến trình
phát triển của lịch sử nhân loại và dân chủ có thể được hiểu như sau:
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền quyết
định những vấn đề liên quan đến cuộc sống của mình; Dân chủ là
một hình thức tổ chức Nhà nước, một hình thái Nhà nước, một chế
độ chính trị - xã hội, mà ở đó thừa nhận về mặt pháp lý những quyền
cơ bản của con người (quyền tự do, quyền bình đẳng); đồng thời
những quyền này được thể chế hóa thành pháp luật để quy định rõ
mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, Nhà nước với công dân
và cơng dân với cơng dân. Dân chủ với tính cách là một chế độ
chính trị, một hình thái Nhà nước (Nhà nước dân chủ) bao giờ cũng
là sự thống nhất hai mặt: dân chủ và chuyên chính [9, tr.42].
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, dân chủ là quyền làm chủ của nhân
dân, là công cụ, phương tiện bảo vệ và phát huy quyền làm chủ đó. Cho nên, dân
chủ đã trở thành mục tiêu và nguyên tắc trong mọi hoạt động xã hội mà giai cấp
cơng nhân và chính Đảng tiền phong của nó phải quán triệt, chỉ đạo thực hiện
nhằm hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân vào cuộc sống. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là đỉnh cao của nền dân chủ, vì các nền dân chủ trước đó đều là dân
chủ cho giai cấp thiểu số trong xã hội, dân chủ mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Dân chủ chân chính nhất phải là quyền làm chủ của mọi công dân đối với Nhà
nước và xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị- Nhà nước
của xã hội. Trong đó, con người là thành viên của xã hội có đầy đủ tư cách cơng
dân- đó là quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở là tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân, dân là gốc, dân là chủ, dân làm chủ.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về dân chủ
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen dùng khái niệm
nền dân chủ với nghĩa là vấn đề chính quyền, Nhà nước. Hai ơng đã viết: “Giai



12
đoạn thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai đoạn giai cấp vô sản tự
xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ”[45, tr.567].
Ăngghen viết trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản cuộc cách mạng
của giai cấp vô sản:
Tạo ra một chế độ dân chủ mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra
quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản. Trực tiếp như ở Anh là
nơi mà hiện nay vô sản đã chiếm đa số trong nhân dân; gián tiếp như ở
Pháp và Đức là nơi mà đa số nhân dân khơng những gồm có vơ sản mà
cịn gồm có tiểu nơng và tiểu tư sản thành thị là những người chỉ mới ở
trong giai đoạn đang chuyển thành giai cấp vô sản [45, tr.455].
Như vậy, chế độ dân chủ là chế độ xã hội trong đó quyền thống trị chính
trị, tức là chính quyền thuộc về nhân dân. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định:
dân chủ là sản phẩm của hoạt động tự giác, đấu tranh cách mạng và in đậm tính
giai cấp. Ph.Ăngghen cịn nói trong Bàn về quyền uy: “khơng có dân chủ thuần
túy và dân chủ bao giờ cũng bao hàm chuyên chính”[37, tr.81]. Điều đó chứng
tỏ, chủ nghĩa duy vật lịch sử quan niệm dân chủ là một phạm trù lịch sử, là sự
khái quát một thực trạng trong các xã hội có giai cấp, hoạt động chính trị, đấu
tranh giai cấp. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ,
V.I.Lênin đã bàn luận tiếp về vấn đề này trong nhiều tác phẩm quan trọng.
Ơng khẳng định dứt khốt: “Dân chủ tức là chính quyền của nhân dân”[38,
tr.86]; “Dân chủ là một trong những phạm trù chỉ của lĩnh vực chính trị mà
thôi” [39, tr.19]. Như vậy, V.I.Lênin cũng quan niệm dân chủ là một phạm trù
lịch sử, các hình thái xã hội khơng có hoạt động chính trị thì dĩ nhiên khơng
có cái gọi là dân chủ.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với
giá trị truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã rất coi trọng
xây dựng chế độ dân chủ và chỉ rõ vai trò, ý nghĩa của việc phát huy quyền



13
làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Theo Người, “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và
động lực của phát triển xã hội, dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ; thực
hiện dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn để giành
thắng lợi” [55, tr.249]. Cùng với việc xây dựng chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh
rất quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân vì Người cho rằng đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là cơ sở pháp lý
cho việc đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong thực tế. Xây dựng Nhà
nước của nhân dân, Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng Nhà nước do dân,
vì dân. Bởi Người hiểu rằng, nhân dân là lực lượng vô cùng hùng hậu: “Lực
lượng tồn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết”, “khơng ai chiến thắng được lực
lượng đó” [56, tr.20]. Người đã sớm nhận thức được sức mạnh của quần
chúng nhân dân, coi trọng dân, lấy dân làm gốc và đã nhắc nhở cán bộ, đảng
viên: "Dân chúng đồng lịng việc gì cũng làm được, dân chúng khơng ủng hộ,
việc gì làm cũng không nên" [54, tr.239]. Bởi vậy trong công cuộc đổi mới,
“xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là trách
nhiệm của dân”[50, tr.698]. Hồ Chí Minh nhận rõ vai trị, tầm quan trọng của
việc thực hành dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có như vậy mới
đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho nhân dân: "Dân chủ, sáng
kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cán bộ
và quần chúng đề ra sáng kiến" [50, tr.698]. Đó cũng chính là mục tiêu phấn
đấu của chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ, có thực hiện dân chủ mới làm cho cán
bộ và quần chúng có sáng kiến, có dân chủ dân mới tin, mới dám nói, mới có
sự sáng tạo và mới dám làm; phải thực hiện một nền dân chủ chân chính,
khơng hình thức, khơng cực đoan, khơng ai được lợi dụng và lạm dụng dân
chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Như vậy, tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ đã vượt lên những tư tưởng về dân chủ của các chính trị
gia, cũng như các học giả cùng thời; khái niệm dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí



14
Minh bao hàm những nội dung tiến bộ, không phải là dân chủ cho một số người
trong xã hội mà là nền dân chủ thực sự của tuyệt đại đa số nhân dân.
- Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ và vai trò, ý nghĩa tầm quan trọng của việc thực hiện dân
chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong những năm qua, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách
mạng, là một nội dung quan trọng trong xây dựng, chỉ đạo thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực để nhân dân vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ cách mạng, lại vừa là bản chất, là đặc trưng của chế độ mới. Những
yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, coi dân là gốc của nước ta đã hình thành
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta từ mấy ngàn năm qua
được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, trong công cuộc đổi mới
đất nước, Đảng ta đã triển khai mạnh mẽ sự nghiệp dân chủ hóa từ các lĩnh
vực tư tưởng, chính trị, đặc biệt là dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, trao cho
nhân dân quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chủ động cải thiện đời sống
của mình. Dân chủ hóa đời sống xã hội đã khơi nguồn sáng tạo cho nhân dân
trong lao động, sản xuất, tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân. Nhiều sáng kiến đã ra đời từ nhân dân, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế, các nhiệm kỳ
Đại hội VII, VIII, IX, X và Đại hội XI đã giành sự chú ý quan tâm nhiều đến
vấn đề dân chủ và đặt ra một cách dứt khoát mục tiêu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách nền hành chính quan liêu bao cấp trước
đây. Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới nói
chung, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh nói riêng, Đảng và Nhà

nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về dân chủ. Đây là một chủ trương


15
đúng đắn, kịp thời, phù hợp với xu thế phát triển, đáp ứng nguyện vọng của
nhân dân, thể hiện ý thức trách nhiệm cao của Đảng, của Nhà nước trước
nhân dân và xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) khẳng định
mục tiêu xây dựng một chế độ dân chủ thông qua Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, cải cách các thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước,
mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, coi đồn kết là động
lực của sự phát triển xã hội. Đại hội đã kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và bổ
sung dân chủ thành một trong năm mục tiêu quan trọng của cách mạng nước
ta thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI lại khẳng định:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của
nhân dân; cán bộ, cơng chức phải hồn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao, tơn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân [24, tr.133].
Kể từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ ra đời đến nay, Đảng và Nhà
nước ta luôn xác định đưa dân chủ thành một trong những nguyên tắc hiến
định tại các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992. Các bản Hiến pháp trên đều ghi rõ: Ở nước ta tất
cả quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân, thể chế qua các ngun tắc:
Đồn kết tồn dân khơng phân biệt nịi giống, trai gái, giai cấp, tơn giáo (lực
lượng của dân chủ); bảo đảm các quyền tự do dân chủ (nội dung của dân chủ);
thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Nguyên tắc
đó đã phản ánh đầy đủ những nội dung của dân chủ mà chúng ta đang hướng
tới và phấn đấu đạt được. Trong suốt quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã đề ra những nguyên tắc thể chế
hóa, đưa ra những phương châm hành động nhằm hiện thực hóa dân chủ vào

cuộc sống ngày càng sâu rộng và đầy đủ hơn. Đó là cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ với phương châm: dân biết, dân bàn, dân


16
làm, dân kiểm tra để thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Nhờ vậy, dân chủ đã từng bước phát triển và đạt được những thành tựu
nhất định trong đời sống xã hội; nền dân chủ đang từng bước được mở rộng và
hoàn thiện, là điều kiện để nhân dân nói chung và cán bộ, cơng chức Nhà nước
nói riêng phát huy tính sáng tạo, cống hiến cho cơng cuộc đổi mới đất nước.
1.1.2. Quan niệm về dân chủ ở cơ sở
Chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa “cao gấp triệu lần dân chủ tư sản”, như V.I. Lênin nói. Đó là một nền
dân chủ tồn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tạo điều
kiện cho mọi thành viên trong xã hội có thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội,
làm chủ thiên nhiên. Đó là mục tiêu cao cả của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, là
nhiệm vụ lịch sử mà Đảng và nhân dân ta phải trải qua bao khó khăn, đổ bao
mồ hôi xương máu phấn đấu lâu dài mới đạt được.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được khẳng định trong
đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Quyền dân chủ của
công dân được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố. Hệ
thống chính quyền ở nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực
thuộc), huyện (thị, quận) và xã (phường) đều vận hành theo nguyên tắc tập
trung dân chủ: Đó là nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hiệu quả của dân chủ thể hiện trực tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ sở. Cơ sở xã,
phường, cơ quan, doanh nghiệp... là nơi trực tiếp thực hiện đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước; là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản
xuất, học tập và công tác; là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa các
tầng lớp nhân dân với các cấp ủy đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên,

cơng chức điều hành và xử lý công việc hàng ngày. Nhân dân đòi hỏi được
biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng
thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng ngày của cấp ủy, chính


17
quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân dân có quyền làm chủ và
được hưởng lợi từ cơ sở và ở cơ sở.
Nhận thức rõ bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, ngay từ khi chính
quyền nhân dân mới được thành lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lực
nhà nước là của nhân dân. Theo đó, “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân
chủ và sinh hoạt chính trị của tồn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo
của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia công
việc quản lý của Nhà nước” [53, tr.590]. Người nhấn mạnh việc thực thi dân
chủ ở từng địa phương, từng cơ sở, từng cán bộ, từng người dân,... và từng
công việc phải cụ thể, rõ ràng. Vận động tất cả lực lượng, mỗi cán bộ, đảng
viên... thậm chí những người dân có nhận thức đều phải có trách nhiệm làm
cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong vị thế của người làm
chủ. Người yêu cầu “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và
kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh
địa phương” [50, tr.698 - 699].
Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa
phương, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm
cụ thể để cống hiến cho sự phát triển chung một cách tự giác.
Ngày nay phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
là thể hiện tư tưởng của Người. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương thực
hiện có nề nếp phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và
chủ trương đó ngày càng được thực tế kiểm nghiệm tính cần thiết khách quan,
và để q trình dân chủ hoá thực sự đi vào cuộc sống, chúng ta cần cụ thể hoá
phương châm này. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương

Đảng khoá VIII (tháng 6/1997) khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước
mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện
mọi chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.


18
Theo tinh thần của Nghị quyết đó, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 30-CT/TW ngày
18/02/1998 và Chính phủ đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đó là những văn bản có
tính chính trị và pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây
dựng và thực hành thực hiện dân chủ- làm chủ.
Dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của người dân, (mặc dù
có cả dân chủ đại diện) được tiến hành từ cấp xã, phường trở xuống
(đến cấp thơn, xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp) theo
phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chủ ở
cơ sở trước hết là dân chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí (qua ý
kiến) nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ
quan chính quyền ở cơ sở [48, tr.15].
Dân chủ ở cơ sở là nền tảng dân chủ thực của quảng đại quần chúng
nhân dân. Có nhiều hình thức để thực hiện dân chủ ở cơ sở như: trưng
cầu ý dân; bầu và bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử; bàn bạc, thảo luận, tham
gia quyết định, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các vấn đề phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội, trật tự an ninh ở cơ sở; tố cáo, khiếu nại; xây dựng quy định,
quy ước tự quản…
Như vậy, khái niệm về dân chủ ở cơ sở đã đề cập đến cả ba loại hình
dân chủ ở xã, phường, thị trấn; cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước
như quy định tại Nghị định số 71/1998/ NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính
phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đó là

hệ thống các cơ quan, đoàn thể ở Trung ương, ở cấp tỉnh và cấp huyện, trong
đó có ngành kiểm sát nhân dân.
1.1.3. Quan niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là quyền làm chủ của con người trong cộng đồng xã hội nên
ngồi tính giai cấp, tính xã hội, dân chủ cịn mang tính pháp lý. Quyền tự do


19
dân chủ là quyền chính trị, dân sự, kinh tế gắn với cá nhân không thể chuyển
dịch, do điều kiện kinh tế xã hội quyết định. Vì, thực hiện quyền làm chủ,
quyền tự do dân chủ nhằm giành lấy và bảo vệ các lợi ích vật chất, mà trước
hết, là lợi ích kinh tế và lợi ích tinh thần khác. Dân chủ chỉ trở thành hiện thực
khi nó được đảm bảo bằng một lợi ích kinh tế hoặc lợi ích tinh thần nhất định.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thơng qua hình thức dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
là biểu hiện của nền dân chủ qua hình thức dân chủ đại diện. Nhưng, làm thế
nào để Nhà nước thực sự là của nhân dân mới là điều cần bàn. Đó là Nhà
nước, trong đó quyền lực phải thuộc về nhân dân, nhân dân lập ra Nhà nước,
trao quyền cho Nhà nước, Nhà nước thông qua hệ thống cơ quan để thực hiện.
Nhà nước do nhân dân là nhân dân thực hiện giám sát, kiểm tra mọi hoạt động
của Nhà nước, hạn chế hoặc tăng quyền hành cho Nhà nước; tham gia vào
công việc của Nhà nước; miễn nhiệm, bãi nhiệm những đại biểu dân cử. Nhà
nước vì nhân dân là Nhà nước chỉ được làm những gì mà nhân dân đã giao,
khơng được làm những gì nhân dân chưa giao. Hoạt động của Nhà nước này
phải theo ngun tắc: cái gì có lợi cho dân thì nên làm, cái gì có hại cho dân
thì khơng được làm. Cịn nhân dân được làm tất cả những gì mà Nhà nước
khơng cấm. Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo nhân dân làm như
thế nào là có lợi nhất và chăm lo đến đời sống của nhân dân.
Như vậy, dân chủ là quá trình vận động liên tục thông qua mối quan hệ
giữa Nhà nước và cơng dân. Mối quan hệ này địi hỏi phải được quy định và

điều chỉnh bằng pháp luật. Qua đó cho thấy, dân chủ có mối quan hệ mật thiết
với pháp luật. Dân chủ chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng pháp luật. Dân
chủ và pháp luật ràng buộc, chi phối lẫn nhau. Pháp luật phản ánh mức độ của
nền dân chủ, dân chủ là thước đo giá trị của pháp luật. Pháp luật đóng vai trị
quan trọng trong quản lý nhà nước, bởi pháp luật là công cụ quản lý chủ yếu,
phổ biến, hiệu lực nhất của quản lý nhà nước. Cho nên, pháp luật là phương


20
tiện ghi nhận và thực hiện nền dân chủ xã hội, là cơ sở để tổ chức các thiết
chế dân chủ, các hình thức thực hiện dân chủ trong xã hội. Pháp luật chứa
đựng nội dung của dân chủ, quy định các quyền tự do dân chủ trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Do đó, pháp luật là phương tiện để xác lập cơ chế làm chủ cho các
tổ chức và cá nhân, quy định các biện pháp củng cố, mở rộng và thực hiện
dân chủ trên thực tế. Pháp luật có tác dụng quy định chặt chẽ, chính xác
nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế quyền lực, hạn chế tình trạng lạm
quyền, độc đốn chun quyền, vi phạm các quyền tự do dân chủ của các chủ
thể cầm quyền. Pháp luật là công cụ không chỉ để nhân dân làm chủ, mà còn
để xử lý các văn bản, mọi hành vi vi phạm nền dân chủ của xã hội, ảnh hưởng
xấu đến quyền, lợi ích của nhân dân.
Khái niệm về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhấn mạnh
và khẳng định vai trị khơng thể thiếu của pháp luật đối với quá trình thiết lập,
củng cố và phát huy dân chủ. Pháp luật chính là công cụ để Nhà nước định ra
chế độ dân chủ, thiết lập các quy tắc, chuẩn mực của dân chủ, xác định rõ đặc
điểm pháp lý của các mối quan hệ dân chủ… Trong đó, trước hết phải kể đến
vai trò của pháp luật trong việc xác định mối quan hệ pháp lý giữa nhân dân
và Nhà nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để đảm bảo dân chủ thật sự, pháp
luật cần quy định rõ nguyên tắc hoạt động của Nhà nước, các cơ quan nhà
nước và viên chức Nhà nước. Đồng thời, Người cũng đã xác định rõ nguyên

tắc quan trọng hàng đầu trong mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân là:
“Các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà nước phải thật sự tôn trọng quyền
làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt quan cách mạnh ra lệnh
cho oai” [54, tr.311].
Pháp luật về thực hiện dân chủ trực tiếp ở nước ta đã hình thành từ rất
sớm, ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 tại Điều 32 xác định những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần


21
ba tổng số Nghị viện đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định. Theo
Điều 70, việc sửa đổi Hiến pháp phải do đa số nghị viện đề nghị sau đó phải
tổ chức trưng cầu dân ý. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, tại Điều 53,
một trong những quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là quyết định
việc trưng cầu ý kiến nhân dân. Theo quy định tại Điều 53 của Hiến pháp
1992, công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà
nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Bầu cử là một hình
thức dân chủ trực tiếp của công dân. Chế độ này trong thời gian qua thể hiện
tính ưu việt, qua đó nhân dân trực tiếp tham gia vào việc lựa chọn những đại
biểu xứng đáng đủ sức, đủ tài, vừa hồng vừa chuyên để thành lập nên cơ quan
đại diện cho ý chí nguyện vọng của mình. Đồng thời, nhân dân cũng có quyền
bãi nhiệm các đại biểu dân cử nếu các đại biểu đó không thực hiện tốt sự ủy
nhiệm của nhân dân. Trong việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào các chức vụ nhất
định trong cơ quan Nhà nước đều lấy phiếu tín nhiệm của tập thể cán bộ, cơng
chức, viên chức. Trên cơ sở đó, cơ quan, Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền
sẽ quyết định bổ nhiệm cán bộ theo ý kiến đa số đã bỏ phiếu tín nhiệm.
Thơng qua hoạt động lấy ý kiến của nhân dân đóng góp vào các
chủ trương chính sách, các dự án luật, pháp lệnh của Đảng và Nhà nước; kiến
nghị của công dân cũng là một hình thức dân chủ trực tiếp được quy định theo

pháp luật. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt nam tổng hợp ý kiến,
kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền xem xét và giải quyết.
Nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình đối với các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, cán bộ, công chức được trao quyền khi vi phạm pháp
luật, là kết quả giám sát trực tiếp của nhân dân. Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo,
Luật Thanh tra không chỉ thể hiện quyền tự do dân chủ của cơng dân mà cịn là
cơng cụ pháp lý để cơng dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.


22
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Nhà nước ra đời sau Chỉ thị số 30/ CT-TW ngày 18/02/1998 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước tiến mới của quá
trình mở rộng và phát huy dân chủ của cán bộ, công chức, viên chức. Triển
khai thực hiện Nghị quyết số 55/NQ-UBTVQH10 ngày 30/7/1998 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Chính Phủ đã ban hành các Nghị định có nội dung về
thực hiện dân chủ cơ sở như: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998,
Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998, Nghị định số 07/1999/NĐ-CP
ngày 13/02/1999, theo đó Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính Nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước
ra đời. Sau 09 năm thực hiện, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 nâng lên thành Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ngày 20/4/2007. Từ quá trình phân tích
trên, có thể hiểu: “Pháp luật về dân chủ ở cơ sở là những quy tắc xử sự do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh giữa Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện quyền làm
chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
1.2. QUAN NIỆM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ

TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.2.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong
cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan hiến định (được quy định trong
Hiến pháp năm 1992), là một trong bốn cơ quan cơ cấu trong tổ chức bộ máy
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan kiểm sát việc tuân
thủ pháp luật.
Chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân được quy định tại
Điều 137 Hiến pháp năm 1992 và tại Điều 1, Điều 2, Luật Tổ chức Viện kiểm


23
sát nhân dân năm 2002: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền cơng tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình” và
“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân đều phải được xử lý theo pháp luật”. Như vậy, về chức năng, nhiệm
vụ của Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các công tác kiểm sát, như: Thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra
các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều tra một số loại tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư

pháp; thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hơn nhân
và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù. Viện kiểm
sát nhân có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động
tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm
tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm do các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ
trang nhân dân và cá nhân chuyển đến; chịu trách nhiệm thực hiện việc thống


24
kê tội phạm. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát
nhân dân có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan
Tịa án, Công an, Thanh tra, Tư pháp, các cơ quan khác của Nhà nước, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các đơn vị vũ
trang nhân dân để phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời,
nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp;
tuyên truyền, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.
1.2.2. Quan niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong
ngành kiểm sát nhân dân
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm
a. Khái niệm
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân là một định hướng và nhiệm vụ rất quan

trọng trong công cuộc thực hiện đổi mới đất nước của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay. Để có một Nhà nước pháp quyền cần phải đảm bảo nhiều yếu tố,
một trong những yếu tố đó là phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,
đồng bộ và điều quan trọng hơn là hệ thống pháp luật ấy phải được tổ chức
thực hiện trong thực tế với sự chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh và
thường xuyên của mọi chủ thể bằng nhiều hình thức thích hợp, làm cho pháp
luật thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước và xã hội.
Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích của con người
nhằm làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong đời
sống xã hội. Bảo đảm dân chủ trong ngành KSND cũng là một trong những
vấn đề được pháp luật điều chỉnh và cần phải được thực hiện trên thực tế.
Như Hồ Chí Minh quan niệm: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng


25
có thể giải quyết mọi khó khăn trong tiến trình phát triển dân chủ, xây dựng
xã hội mới- xã hội chủ nghĩa” [55, tr.36].
Vì vậy, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành KSND vừa
là thừa nhận việc thực hiện thường xuyên các quyền làm chủ của cán bộ,
công chức và viên chức; vừa tăng cường trách nhiệm giữa cơ quan trong
ngành KSND và cán bộ, cơng chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của cán bộ, công chức; là khâu quan trọng và cấp bách, trước mắt cũng như
lâu dài trong quá trình xây dựng và hoàn thiện ngành KSND, nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Muốn
giữ vững và phát huy được bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân thì cần phải mở rộng dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân nói chung và cán bộ, cơng
chức nói riêng tham gia xây dựng ngành KSND trong sạch, vững mạnh; khắc
phục tình trạng quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ trong cơ quan. Như vậy, có
thể rút ra khái niệm: “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành

KSND là quá trình hiện thực hóa những quy định của pháp luật về dân chủ ở
cơ sở trong cơ quan, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của chủ thể
pháp luật để phát huy quyền làm chủ, sự sáng tạo trong tổ chức và hoạt động
của ngành KSND, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam”.
b. Đặc điểm
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trong ngành KSND là một
trong những nội dung của thực hiện pháp luật nên nó cũng có những đặc
điểm, bản chất giống với thực hiện pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, thực
hiện pháp luật về dân chủ trong ngành KSND cịn có những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện là tồn bộ cán bộ, cơng chức, viên chức
trong ngành KSND;


×