Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

nâng cao vị trí, vai trò của toà án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.71 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ tầm
quan trọng của ngành tòa án.
Cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hồ, ngày 13-91945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33c thiết lập Toà án
quân sự tiền thân của ngành toà án để "xét xử tất cả những người nào phạm
vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà".
Trải qua các giai đoạn cách mạng, các quy định về ngành tòa án nhân
dân đã nhiều lần được cải cách, sửa đổi, đã dần hoàn thiện và nâng cao vị trí,
vai trị của ngành tồ án, góp phần củng cố, từng bước xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (Được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 của Quốc hội Khoá X, kỳ họp thứ 10 thơng qua ngày
25/12/2001) quy định:
Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp [36, tr.13]
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong
những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho


Toà án nhân dân. Do vậy, Toà án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ
máy nhà nước.
Tồ án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp


đến năm 2020” đã khẳng định:
Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý,
khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện
làm việc; trong đó xác định Tồ án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm [5, tr.3].
Vị trí và vai trị của Toà án biểu hiện qua chức năng, nhiệm vụ và thẩm
quyền của Toà án được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Toà án
nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật tố tụng hành
chính và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Tồ án là cơ
quan xét xử duy nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức
năng xét xử của Toà án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao trùm
và xuyên suốt quá trình hoạt động của Tồ án. Điều 127 Hiến pháp 1992 quy
định: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án Nhân dân địa phương, các Toà án
Quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam[36, tr.71]; Điều 1 Luật tổ chức Toà án
Nhân dân quy định: Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và
gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy
định của pháp luật [39, tr.1].
Chỉ có Tồ án mới có quyền nhân danh Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tuyên bố một người có tội hay vô tội.
Theo quy định tại Điều 1 Luật tổ chức Tồ án nhân dân thì: Trong phạm
vi chức năng của mình, Tồ án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản

2


của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân.

Tồ án là một cơng cụ hữu hiệu của Đảng và Nhà nước để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nhân dân và bảo đảm kỷ cương xã hội.
Mọi phán quyết của Tồ án có tính cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước.
Theo quy định tại Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định:
Các bản án và quyết định của Tồ án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những
người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành [36, tr.73]
Toà án là nơi thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật có hiệu quả nhất. Bằng việc xét xử cơng khai, ngồi tác dụng răn đe,
giáo dục, phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung, cịn có tác dụng tuyên
truyền, giới thiệu, giải thích cho quần chúng nhân dân về pháp luật để mọi
người hiểu biết thêm về pháp luật và hướng họ tới “Sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật”. Bằng hoạt động của mình, Tồ án góp phần giáo dục
cơng dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn
trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Tồ án có một vai trị, vị trí quan trọng trong Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Tồ án nhân dân có vai trị quan trọng trong việc giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Toà án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế
xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp
luật khác.

3


Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân vẫn cịn

những mặt tồn tại khơng mang tính pháp quyền, làm ảnh hưởng đến vị trí, vai
trị của ngành toà án như: chất lượng xét xử chưa đáp ứng yêu cầu, tình trạng
các Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị hủy tuy ít nhưng khơng
giảm mà có xu hướng tăng, vẫn cịn án tồn đọng, đặc biệt ở khâu xem xét đơn
yêu cầu theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.
Mặt khác, vị thế của ngành Tòa án trong bộ máy nhà nước chưa được
xứng tầm. Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã xác định
vai trò trung tâm của ngành Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp nhưng
ở nhiều nơi, nhiều địa phương vai trò của ngành Tòa án vẫn chưa được chú
trọng đúng mức. Tình trạng lãnh đạo địa phương coi Tịa án như một sở, một
phòng vẫn còn khá phổ biến, dù mức độ biểu hiện khác nhau. Nhiều bản án có
hiệu lực pháp luật khơng được thực thi, trong đó khơng ít ngun nhân là việc
cản trở đến từ các cơ quan nhà nước khác.
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa hồn chỉnh cũng gây khó khăn
cho các Thẩm phán. Tình trạng “xử thế nào cũng đúng” gây tâm lý mất lòng
tin của người dân vào Tòa án tùy tiện, không công bằng.
Quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm, nhiệm kỳ bỏ nhiệm, quy trình bổ
nhiệm thẩm phán cùng với việc hệ thống Tòa án hoạt động theo địa bàn,
khơng độc lập hồn tồn theo hệ thống ngành dọc ảnh hưởng khơng ít đến
ngun tắc “xét xử độc lập và chỉ tn theo pháp luật” của Tịa án.
Tình trạng cán bộ tịa án, có cả các thẩm phán có những hành vi vi
phạm pháp luật, chạy án, bị dư luận lên án cũng là nguyên nhân gây tâm lý
mất lòng tin của người dân vào Tòa án tùy tiện, khơng cơng bằng.
Do đó, việc nghiên cứu nhằm “nâng cao vị trí, vai trị của Tồ án nhân
dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay” là
vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tơi chọn đề tài này làm
luận văn thạc sỹ luật học.

4



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số bài viết và cơng trình khoa học nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này. Như vấn đề: “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của
Tòa án nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân” Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX.04.06 do TS ng Chu Lưu
chủ nhiệm đề tài; “Tính độc lập của tịa án” của TS Tơ Văn Hịa, sách tham
khảo, Nhà xuất bản Lao động, năm 2007; Vai trò của Tòa án trong hệ thống
tư pháp của TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 1/2001; “Về quyền tư
pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt
Nam” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8 năm
2003; “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” của GS, TS Nguyễn
Đăng Dung, NXB Tư pháp, năm 2004; “Cải cách tư pháp trong tổ chức
quyền lực nhà nước” của GS Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội số 25 năm 2009; Vai trị giải thích pháp luật của tòa
án hiến pháp của Cao Vũ Minh, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân của LS. Phạm Quý Tỵ;
Chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước Đề tài KX 04-02 về “mơ hình
tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ cơng nghiêp hố,
hiện đại hố đất nước”…
Các cơng trình trên đã đề cập một phần đến vấn đề này, tuy nhiên nhìn
chung chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hồn thiện vấn
đề : nâng cao vị trí, vai trị của Tồ án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên
luận văn sẽ tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học pháp lý có liên quan để phát triển và hồn chỉnh vấn đề nghiên cứu
của mình.


5


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mơc đích của luận văn
Luận giải những vấn đề lý luận vµ thùc tiƠn cđa viƯc
nâng cao vị trí, vai trị của Toà án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dng Nh
nc phỏp quyn Vit Nam hin nay
Đa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp
pháp lý nhằm nâng cao vị trí, vai trị của Tồ án nhân dân đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền Vit Nam hin nay
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về v trớ, vai trị của Tồ
án nhân dân trong Nhà nước pháp quyn Vit Nam
Phân tích và đánh giá thực trạng v v trớ, vai trũ ca To ỏn
nhõn dõn.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp pháp lý cơ bản
nhằm nõng cao vị trí, vai trị của Tồ án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam hin nay
4- Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu các quy định pháp luật về vị trí, vai trò của toà
án nhân dân từ khi có Luật tổ chức toà án nhân dân năm
2002 đến nay; qua thực tiễn hoạt động của ngành toà án
trên phạm vi cả nớc.
Vị trí, vai trò của Toà án nhân dân dới các góc độ phi
pháp lý (kinh tế, chính trị) không đề cập trực tiếp trong
luận văn này.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu


6


Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp
luật, quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về nhà nớc và pháp
luật và yêu cầu của việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền Việt
Nam xà hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân.
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên các phơng pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp các
phơng pháp phân tích, tổng hợp, phơng pháp so sánh, tổng
kết thực tiễn.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này luận văn góp
phần làm sáng tỏ cơ së lý ln vµ thùc tiƠn vỊ nâng cao vị trí,
vai trị của Tồ án nhân dân đáp ứng u cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam hiện nay
Ph©n tích đánh giá có hệ thống thực trạng các quy
định cđa ph¸p lt vỊ vị trí, vai trị của Tồ ỏn nhõn dõn. Đề xuất
một số quan điểm và giải pháp pháp lý cơ bản góp phần nõng
cao v trớ, vai trị của Tồ án nhân dân đáp ứng u cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chơng, 7 tit. Cụ thể:
Chơng

Cơ sở lý ln vỊ vị trí, vai trị của Tồ án trong nh nc phỏp

1:

1.1.
1.2.

quyn
Nhà nớc pháp quyền
Vị trí, vai trò của Toà án trong nhà nớc pháp

Chơng

quyền
Thc trng v trớ, vai trò của tòa án nhân dân ở Việt Nam

7


2:
2.1.

Quá trình hình thành và phát triển ngành toà án
và vị trí, vai trò của toà án nhân dân ở Việt

2.2.

Nam
Vị trí, vai trò của toà án nhân dân ở Việt Nam

2.3.

hiện nay
Những bất cập ảnh hởng đến vị trí, vai trò của Tòa


Chơng

án nhân dân
Quan điểm và giải pháp nâng cao vị trí, vai trò

3:

của toà án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng

3.1.

Nhà nớc pháp quyền Việt Nam hiện nay
Quan điểm nâng cao vị trí, vai trò của Toà án

3.2.

nhân dân
Giải pháp nâng cao nâng cao vị trí, vai trò của Toà
án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nớc
pháp quyền Việt Nam hiện nay
Chng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA TỒ ÁN
TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Nhà nước pháp quyền
Nhµ nớc pháp quyền là một hiện tợng chính trị pháp lý

phức tạp, thờng đợc hiểu theo nhiều cấp độ. Cho đến nay
cha có một định nghĩa bao quát hết nội dung của nó. Tuy
vậy, bao trùm lên tất cả, nhà nớc pháp quyền là: nhà nớc tuân

theo pháp luật và quản lý bằng pháp luật, xem pháp luật có
vị trí chi phối mọi hành vi của cơ quan công quyền và công
dân, hoặc nhà nớc pháp quyền là nhà nớc phục tùng pháp
luật, nhấn mạnh vào chủ thể tuân theo pháp luật trớc hết là

8


nhà nớc, cơ quan nhà nớc, viên chức nhà nớc chỉ đợc làm
những điều pháp luật cho phép, nhằm chống xu hớng tuỳ
tiện, chuyên quyền, độc đoán trong hoạt động của bộ máy
nhà nớc.
Trong lịch sử nhân loại đà xuất hiện nhiều quan niệm
khác nhau về nhà nớc pháp quyền trong những điều kiện cụ
thể nhất định. Tựu trung, có hai điều kiện cho nhà nớc pháp
quyền xuất hiện:
Thứ nhất, phải có nhu cầu dân chủ, ở đâu và lúc nào
đợc xác định chủ thể quyền lực nhà nớc là của nhân dân.
Thứ hai, phơng pháp quản lý đó chỉ có thể bằng pháp
luật.
1.1.1. Lịch sử các t tởng nhà nớc pháp quyền
T tởng nhà nớc pháp quyền đà xuất hiện từ thời cổ đại
do yêu cầu bảo đảm dân chủ lúc bấy giờ. Ngời ta bắt đầu
tìm kiếm những nguyên tắc, hình thức để thiết lập mối
quan hệ giữa pháp luật và quyền lực.
Nhờ vào sự thừa nhận của quyền lực mà pháp luật trở
thành sức mạnh của quyền lực công khai đợc tổ chức có trật
tự, đợc tổ chức bằng pháp luật, bị hạn chế, ràng buộc bởi
pháp luật, do đó trở thành quyền lực nhà nớc công bằng,
nghĩa là phù hợp với pháp luật. Nh vậy, thừa nhận nhà nớc nh một

tổ chức pháp lý của sức mạnh quyền lực công khai là t tởng cơ
bản của nhà nớc pháp quyền.
Thi phong kin, Nh nc khụng hoc ít biết đến pháp quyền. Tuy
nhiên, thời kỳ này ở phương Tây đã có khơng ít các quan điểm, tư tưởng tiến

9


bộ của các nhà tư tưởng, các nhà thần học góp phần bảo tồn và làm phong phú
thêm các ý tưởng về Nhà nước pháp quyền thời cổ đại. Theo Ôguytxtanh
(357-430)- giáo chủ Bắc Phi cho rằng quyền lực Nhà nước phải được thực
hiện như một thứ quyền lực phục vụ. Đó là cơng cụ để thực hiện tình u và
sự công bằng. Những người cầm quyền phải đặt quyền uy vào sự phục vụ
nhân dân… Tômát Đa canh (1225-1247) cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho
mỗi người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt được sự dồi dào về vật
chất, tinh thần. Xã hội công dân trước sau sẽ thay thế xã hội thần dân, vì nó là
sản phẩm của lý trí chứ không phải là sản phẩm thuần tuý, bản năng.
Thời kỳ tư bản chủ nghĩa, học thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản
từng bước hình thành. Nhà nước tư sản cũng từng bước được thiết kế theo mơ
hình nhà nước pháp quyền trên cơ sở thế giới quan mới của giai cấp tư sản
đang lên - thế giới quan pháp lý. Đó là sự phục hồi, kế thừa các giá trị tư
tưởng có liên quan đến nhà nước pháp quyền thời cổ đại và đưa các giá trị
đó lên tầm cao hơn phù hợp với đòi hỏi mới của lịch sử. Có thể kể ra một số
đại biểu tiêu biểu: Lý thuyết về tự do của Giơnlốccơ (1632-1704). Ơng cho
rằng “luật tự nhiên là bắt buộc vì nó là tự do”. Tự do là giá trị chủ đạo của
pháp quyền tự nhiên, của sự luận giải của nhà nước và thể chế chính trị hợp
lý. Pháp quyền tự nhiên bắt nguồn từ sự liên kết của con người với nhau
thành cộng đồng theo một quy luật tự nhiên. Trong sự liên kết đó, con người
thoả thuận với nhau lập nên Nhà nước. Nhà nước là cơ quan quyền lực
chung của xã hội, pháp luật giữ địa vị thống trị trong nhà nước. Quyền lực

nhà nước về bản chất thuộc về nhân dân, do nhân dân uỷ nhiệm. Nhà nước
có nghĩa vụ bảo vệ quyền tự do và quyền sở hữu do lao động đem lại như là
bảo đảm quyền tự nhiên của mỗi công dân. Lý thuyết về tự do của Tơmát
Hốp xơ (1588-1679): Nhà nước đóng vai trị điều hành sự phát triển của xã
hội. Pháp luật cần phải được Nhà nước sử dụng như là một tất yếu trong
quản lý xã hội. Với sự xuất hiện của nhà nước, tự do cá nhân với nghĩa là

10


những ý muốn của cá nhân có thể bị thu hẹp, nhưng tự do cá nhân với
nghĩa là tiền đề cho tự do của người khác thì được mở rộng ra; Lý thuyết
về tam quyền phân lập của Môngtecxkiơ (1869-1755): trong xã hội có nhà
nước người ta sử dụng pháp luật. Quyền lực tối thượng của xã hội là thuộc
về nhân dân. Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền là quyền lập pháp,
quyền thi hành những điều luật về công pháp (quyền hành pháp) và quyền
thi hành những điều trong luật dân sự (quyền tư pháp). Các quyền này được
giao cho hệ thống các cơ quan nhà nước khác nhau. Không một cơ quan
nào vượt lên những cơ quan kia và khơng một cơ quan có thể tước đoạt
quyền cá nhân của công dân; Lý thuyết về chủ quyền nhân dân, khế ước xã
hội của Rút xô (1712-1788): Quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân,
nhân dân thực hiện chủ quyền của mình thơng qua việc uỷ quyền cho các
đại biểu của mình trong bộ máy nhà nước. Khế ước xã hội có thể hiểu là
pháp luật và bộ máy nhà nước do nhân dân tạo ra. Khi nhà nước vi phạm
khế ước xã hội đã thoả thuận thì nhân dân có quyền thay thế bằng nhà nước
mới…; Lý thuyết của Can tơ (1724-1804): Nhà nước pháp quyền là cộng
đồng của những người phục tùng pháp luật, cần phải ngăn chặn sự lạm
quyền của một hay một số người đối với người khác. Mọi hoạt động của
công dân đều phải tuân thủ pháp luật. Sự phân chia thành các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp là cần thiết trong một nhà nước, nơi nhân dân

vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quyền lực; Lý thuyết của Hêghen
(1770-1831): Nhà nước pháp quyền là sự thể hiện trong thực tế những ý
niệm dưới những hình thức nhất định của tồn tại thực tế của con người.
Pháp luật là sự thể hiện của tư tưởng tự do.
Trong xã hội, nhà nước ở vị trí cao nhất và cao hơn cả con người. Pháp
quyền vừa là sự sáng tạo, vừa là sản phẩm của nhà nước. Sự phân quyền trong
nhà nước là nhằm đảm bảo tự do công cộng, chống lạm quyền, chuyên chế,
vũ lực và phi pháp.

11


1.1.2. Tư tưởng của Mác, Ph.Ăng ghen và V.I. Lênin về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Khái niệm nhà nước pháp quyền chưa được sử dụng nhưng những tư
tưởng cốt lõi của nhà nước pháp quyền đã được đề cập sâu sắc theo quan
điểm cách mạng và khoa học trong học thuyết Mác Lênin về nhà nước và
pháp luật đó là xây dựng một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp; một chế
độ dân chủ triệt để “là do nhân dân quy định”, “tự do của mỗi người là điều
kiện pháp triển tự do của tất cả mọi người”; dân chủ là xuất phát từ con người
và pháp luật cũng vì con người; pháp chế nghiêm minh theo hướng giải phóng
con người. Nói cách khác, trong khi đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, một
nhà nước kiểu mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã kế thừa và
pháp triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” Mác, Ăng ghen đặt vấn đề xây
dựng một xã hội mới trong đó “tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự
do của tất cả mọi người” và “giải phóng con người” là mục tiêu của một nhà
nước pháp quyền kiểu mới; là nhà nước tổ chức được đời sống chung của
nhân dân, trong đó bảo đảm được sự phát triển tự do tối đa và “phát triển toàn
diện con người”. Về mặt nhà nước, Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân

chủ triệt để, dân chủ là “do nhân dân tự quy định”, là bước chuyển từ xã hội
thần dân sang xã hội công dân, là từ “nhân dân của nhà nước” sang “nhà nước
của nhân dân”, “Dân chủ là xuất phát từ con người”.
Những tư tưởng nhà nước pháp quyền ấy được Lênin tiếp thu và phát
triển trong quá trình xây dựng nhà nước kiểu mới, trước hết là xác định rõ
“mục đích của chính quyền Xơ Viết là thu hút những người lao động tham gia
vào quản lý nhà nước” và “việc thu hút được mọi người lao động tham gia
vào quản lý là một trong những ưu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa”. Về mặt pháp luật, Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế
trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây

12


dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhà nước phải dùng phương pháp “căn cứ
vào luật lệ của mình là điều kiện cần và đủ cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi triệt
để”. Lênin đã sáng tạo ra khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa một yêu cầu
quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước, nhà nước pháp quyền
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước
của dân, do dân và vì dân là tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và của Đảng ta trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển những quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác
Lênin, sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hố thế giới vào xây dựng chính
quyền nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ
chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ cơng chức nhà nước;
trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể
hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền, thể hiện ở một số điểm sau:

- Theo Hồ Chí Minh, nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết
phải là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Ngay sau khi giành được chính
quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới
về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hồ Chí Minh đề ra một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là:
Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Năm 1919, tám yêu sách của nhân
dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên quan đến vấn đề
pháp quyền, cịn lại liên quan đến cơng lý và quyền con người. Người yêu cầu
thực dân Pháp phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng
các đạo luật, người bản xứ cũng có quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp
luật như người Âu, xố bỏ hồn tồn các tồ án đặc biệt.

13


Sau này, bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh
chuyển thành "Việt Nam yêu cầu ca", trong đó yêu cầu thứ bảy là:
"Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền"
- Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã đề cập đến vai trị của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý đất nước bằng
pháp luật và đảm bảo pháp luật được thực thi có hiệu lực, hiệu quả; mọi lĩnh
vực đều phải có sự kiểm sốt của Nhà nước và sự kiểm soát đo bằng pháp
luật. Pháp luật giữ vị trí thống trị, tối cao. “Thần linh pháp quyền” trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thực chất là một yêu cầu đối với một nhà nước dân chủ,
chịu sự ràng buộc của pháp luật. Quan điểm này phản ánh nội dung cốt lõi
của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng
thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của

Người. Theo Người, muốn pháp luật nghiêm minh, phát huy hiệu lực, cần có
các điều kiện:
Trước hết, pháp luật đó phải phản ánh đúng và bao quát các lĩnh vực,
các quan hệ diễn ra trong xã hội.
Thứ hai, pháp luật phải đến được với dân, "đi vào giữa dân gian".
Thứ ba, cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và
nghiêm minh.
- Trong nhà nước pháp quyền mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp
luật. Trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ cộng hồ năm
1945, Hồ Chí Minh đã trích Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1976 “Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hố cho họ những quyền mà
khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người nói: “Suy rộng ra câu
ấy có nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng,

14


dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trong
điều 7 Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh soạn thảo quy định “Tất cả cơng dân
Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và
cơng cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” “Pháp luật của
ta là bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người, vì vậy không chỉ nhân dân mà các
cơ quan nhà nước cũng phải tn thủ pháp luật, tơn trọng tính tối cao của
pháp luật và phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội”.
- Mặc dù coi trọng pháp luật nhưng Hồ Chí Minh khơng cho rằng pháp
luật là độc tơn trong xã hội. Người nói rằng “nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp
cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người, ở đời
và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ
và áp bức”.

- Trong việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân, Người
nói: Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do
của mình, nhưng phải tơn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng
quyền tự do của mình quá mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm
pháp. Khơng thể có tự do cho bọn việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự
do của nhân dân.
- Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, pháp
luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích của cơng dân, nhưng cũng quy
định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện. Hưởng quyền và thực hiện
nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của một người dân làm chủ nhà nước.
- Với Hồ Chí Minh, pháp luật khơng phải là để trừng trị con người mà
là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của
Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản
pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho
ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào
theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam.

15


1.1.4. Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về nhà
nước và pháp luật, xuất phát từ lịch sử thực tiễn cách mạng Việt Nam, vận
dụng phù hợp với đặc điểm và truyền thống Việt Nam: xây dựng một nhà nước
kiểu mới thực sự của dân, do dân và vì dân, hợp hiến, hợp pháp, pháp luật
hướng tới giải phóng con người và tất cả vì con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã từng bước xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII trong
nội dung về “Những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới” đã nêu nhiệm vụ

thứ 7 là “Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân”. Đây là lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng chính thức
sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam trở thành chủ trương có tầm chiến lược, bao trùm tồn bộ tổ chức, hoạt
động của nhà nước, trở thành định hướng cho tồn bộ q trình và nội dung
đổi mới, tổ chức, hoạt động của nhà nước.
TiÕp tơc cơ thĨ ho¸ quan điểm nói trên, trong văn kiện
Đại hội i biu ton quc ln th X của Đảng đà xác định một
trong những đặc trng chủ yếu của xà hội xà hội chủ nghĩa
mà chúng ta xây dựng là có Nhà nớc pháp quyền xà hội chủ
nghĩa của dân, do nhân dân, vì nhân dân dới sự lÃnh đạo
của Đảng Cộng sản. §¹i héi đại biểu tồn quốc lần thứ X cđa Đảng
đà chỉ rõ những nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng nhà
nớc pháp quyền xà hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân ở nớc ta hiện nay với một số nguyên tắc,
phơng pháp luận sau:

16


- Việc xây dựng nhà nớc xà hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện
nay là một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ bắt
nguồn từ đặc điểm của thời đại ngày nay, thời đại quá độ
từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xà hội, mà còn xuất phát
từ thực tế và đòi hỏi của cách mạng Việt Nam "muốn cứu nớc và giải phóng dân tộc, không có con đờng nào khác con
đờng cách mạng vô sản" [31, tr.314].
- Nhà nớc hiện nay ta đang xây dựng là nhà nớc xà hội
chủ nghĩa, nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do đảng cộng sản lÃnh

đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cơng xà hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân" [11, tr.9]. Nhà nớc
ta do đó là nhà nớc thuộc phạm trù nhà nớc vô sản.
- Xây dựng nhà nớc xà hội chủ nghĩa là một quá trình,
hơn nữa đối với nớc ta là một quá trình lâu dài. Nớc ta quá
độ lên chủ nghĩa xà hội từ một xuất phát điểm thấp: cha trải
qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa, cha trải qua chế
độ dân chủ t sản. Với xuất phát điểm nh vậy chúng ta không
có khả năng tạo lập ngay cơ sở kinh tế - xà hội đầy đủ cho
chủ nghĩa xà hội, cho nhà nớc xà hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy, xây dựng nhà níc x· héi chđ nghÜa ë níc ta lµ mét quá
trình gắn liền với sự nỗ lực bền bỉ cải biến, phát triển kinh
tế - xà hội theo định hớng x· héi chđ nghÜa.
- Nhµ níc hiƯn nay lÊy viƯc bảo vệ và xây dựng đất nớc
theo con đờng xà hội chủ nghĩa là nhiệm vụ chủ yếu, hơn

17


nữa lại dựa trên cơ sở là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, trong đó thành phần kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ
đạo.
- Nhà nớc hiện nay là nhà nớc mà các chức năng thống trị
chính trị của giai cấp và chức năng xà hội thống nhất hữu cơ
với nhau. Để giữ vững bản chất giai cấp của nhà nớc, đảm bảo
nhà nớc thực sự là nhà nớc pháp quyền của dân, do dân và vì
dân chúng ta đà và đang thực hiện các nhiệm vụ:
Thứ nhất: Đổi mới và nâng cao chất lợng hoạt động của
bộ máy nhà nớc nói chung, của cơ quan lập pháp nói riêng,

thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia, cải tổ bộ máy
tổ chức và hoạt động t pháp.
Thứ hai: Đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong
bộ máy nhà nớc.
- Nhà nớc tổ chức và hoạt động tuân theo nguyên tắc
quyền lực nhà nớc là thống nhất nhng có phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và t pháp. Tổ chức và hoạt động
của nhà nớc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Núi tóm lại, có nhiều quan điểm về nhà nước pháp quyền nhưng có thể
nêu những đặc điểm cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền như sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp
và pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật chi phối và có hiệu lực pháp lý
tối thượng trong xã hội, pháp luật phản ánh ý chí chung của nhân dân, phản
ánh lợi ích chung của xã hội.
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ chức khoa
học, bảo đảm nguyên tắc phân quyền và yêu cầu về sự độc lập của tư pháp.

18


Tức nhà nước phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp và có
cơ chế hữu hiệu giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật,
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Trong nhà nước pháp quyền phải đảm
bảo tính pháp quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước và người chủ của
nó là nhân dân và xác lập sự tơn trọng Hiến pháp. Vì vậy, phải đảm bảo sự
độc lập của tồ án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật.
- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải được áp dụng công bằng,
nhất quán, bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời.
- Trong nhà nước pháp quyền không chỉ công dân có nghĩa vụ với nhà

nước mà nhà nước cũng phải có nghĩa vụ với cơng dân. Quyền của cơng dân
là trách nhiệm của nhà nước và ngược lại, quyền của nhà nước là trách nhiệm
của công dân.
- Nhà nước pháp quyền tôn trọng và bảo vệ quyền công dân và quyền
con người. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền
tự do của công dân, mà con phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó
khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì mà pháp
luật khơng cấm trong khuôn khổ không xâm hại đến tự do của người khác.
1.2. Vị trí, vai trị của tồ án trong nhà nước pháp quyền
1.2.1. Vài nét về vị trí, vai trị của tồ án trong nhà
nước chiếm hữu nơ lệ và nhà nước phong kiến- nhà nước
trước khi có nhà nước pháp quyền
Ngay từ thời Hy lạp cổ đại các học giả đã khẳng định ở đâu có pháp
luật thì ở đó phải có một hệ thống đảm bảo cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm chỉnh. Sự bảo đảm đó trước hết phải bằng hoạt động của
các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan này có chức năng xét xử
các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, của nhà nước. Đó là hệ
thống các cơ quan tư pháp.

19


Trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, quyền lực
nhà nước và pháp luật thể hiện sự thống trị của giai cấp chủ nô và giai cấp địa
chủ, chính vì vậy khơng có sự phân cơng rạch ròi giữa ba nhánh quyền lực lập
pháp, hành pháp và tư pháp như nhà nước pháp quyền đương đại. Quyền tư
pháp (xét xử) cũng như các quyền lập pháp và hành pháp hoàn toàn nằm trong
tay giai cấp thống trị trong xã hội đại diện là nhà Vua. Nhà Vua vừa ban hành
các văn bản pháp luật, vừa tổ chức thực hiện pháp luật, vừa xét xử các hoạt
động vi phạm các văn bản pháp luật do Nhà Vua ban hành. Toàn bộ quyền xét

xử thực chất chỉ là công cụ trong tay giai cấp cầm quyền để đàn áp giai cấp
chiếm đại đa số trong xã hội (giai cấp nô lệ, giai cấp nông dân), cũng như tất
cả các nhóm người của dân cư tự do cịn lại và bắt họ phải phục tùng lợi ích
giai cấp của những kẻ cầm quyền. Bị đối xử bất bình đẳng một cách rõ rệt,
giai cấp chiếm đại đa số trong xã hội những người nô lệ hay những người
nông dân hầu như bị loại ra khỏi các quan hệ pháp luật tố tụng mà chỉ được sử
dụng với tính chất là chứng cứ trong những điều kiện nhất định khi là bị can,
bị cáo hay người làm chứng, thậm chí trong nhiều trường hợp họ có thể bị áp
dụng các hình thức tra tấn dã man để lấy cung và phục vụ mục đích của giai
cấp thống trị.
Tất cả các hình phạt được áp dụng theo thủ tục hoạt động hành chính
của những kẻ có chức vụ, quyền hạn đặc biệt trong Nhà nước, chỉ có một số
khơng đáng kể các hình phạt là được áp dụng theo thủ tục tố tụng hình sự.
Hình phạt được áp dụng thể hiện rõ tính chất man rợ, khủng bố với các
mục đích là đe doạ, làm cho phải khiếp sợ, gây nên những đau đớn về thể xác,
hạ thấp nhân phẩm con người.
1.2.2. Vị trí, vai trị của Tồ án trong nhà nước pháp quyền
Trong nhà nước pháp quyền, Toà án được giao quyền xét xử, quyền chủ
yếu trong quyền tư pháp một trong ba quyền lực nhà nước là quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp. Toà án là cơ quan độc lập có thẩm quyền

20


riêng biệt do luật định, chuyên thực hiện việc xét xử bằng hoạt động tố tụng
tư pháp tương ứng về hiến pháp, hình sự, hành chính, dân sự, kinh tế để bảo
vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công
dân cũng như hồ bình và an ninh nhân loại và đây là thẩm quyền riêng biệt
của toà án để giải quyết những xung đột giữa các quan hệ xã hội. Chính vì
vậy tồ án có vị trí đặc biệt trong nhà nước pháp quyền.

Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền thể hiện ở một số điểm sau:
Thứ nhất. Khẳng định trong thực tiễn nguyên tắc phân công quyền lực
trong nhà nước pháp quyền.
Trong nhà nước pháp quyền sự phân công của ba nhánh quyền lực
được thể hiện ở chỗ mỗi nhánh quyền lực được tổ chức thành hệ thống cơ
quan công quyền riêng trong bộ máy nhà nước, được phân công thực hiện các
chức năng nhiệm vụ và quyền hạn tương ứng riêng biệt để chuyên trách các
dạng hoạt động độc lập.
Hệ thống toà án một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước
với thẩm quyền riêng biệt là xét xử và kiểm tra hiến pháp (quyền tư pháp) để
giải quyết những xung đột giữa các quan hệ xã hội đã khẳng định trong thực
tiễn nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền đó là nguyên tắc phân
công quyền lực.
Thứ hai. Khẳng định trên thực tiễn nguyên tắc về tính phối hợp, chế
ước, kiểm tra lẫn nhau của ba nhánh quyền lực nhà nước trong nhà nước
pháp quyền.
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước phải được phân công
phân nhiệm một cách rõ ràng, đồng thời cũng phải có sự kiểm tra, kiềm chế
đối trọng lẫn nhau để tránh sự lạm quyền của bất cứ nhánh quyền lực nào.
Toà án bằng việc xét xử các vi phạm về Hiến pháp và các vi phạm hành
chính thực hiện sự kiểm tra với hai nhánh quyền lực kia (quyền lập pháp và

21


quyền hành pháp). Ví dụ: các quyền và tự do của con người và của công dân
trong nhà nước pháp quyền được ghi nhận về mặt pháp lý trong hiến pháp và
cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật khác bằng hoạt động của cơ quan lập
pháp, được thực thi trong đời sống xã hội bằng hoạt động của cơ quan hành
pháp thì được bảo vệ một cách hữu hiệu bằng hoạt động tố tụng thơng qua hệ

thống tồ án. Hoặc thơng qua hoạt động giải thích và kiểm tra các quy phạm
pháp luật hoạt động của toà án đã kiềm chế đối với hoạt động của cơ quan lập
pháp và cơ quan hành pháp.
Trong nhà nước pháp quyền, toà án là cơ quan áp dụng pháp luật, khi
mà pháp luật được coi là có vị trí tối thượng, phán xét về khả năng vi phạm
các quyền công dân từ phía người khác hoặc từ phía Nhà nước, lại cũng là nơi
phán xét các quyết định của các cơ quan hành pháp nếu có biểu hiện vi phạm
quyền cơng dân hoặc thẩm quyền của các cơ quan khác thì phải đảm bảo tính
độc lập của tồ án.
Tính độc lập của toà án cho phép toà án đưa ra những phán quyết đúng
đắn chống lại sự tuỳ tiện của hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp.
Bảo đảm không có sự can thiệp từ phía cơ quan lập pháp và cơ quan
hành pháp vào các phán quyết của toà án, bảo đảm để cơng chúng có được
lịng tin vào sự không thiên vị của các thẩm phán khi họ giải quyết các việc tư
của dân.
Thứ ba. Khẳng định nguyên tắc về tính tối cao của pháp luật, pháp
luật ngự trị trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhà nước pháp quyền ổn định và phát triển là do được điều chỉnh bằng
nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau (quy phạm pháp luật, quy phạm đạo
đức, quy phạm tơn giáo…) trong đó quy phạm pháp luật có tính chất quyết
định vì pháp luật do nhà nước ban hành có tính chất bắt buộc chung và đảm
bảo thực hiện trên thực tế bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Pháp luật

22


khơng chỉ ghi nhận vị trí, giới hạn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước,
người dân mà cịn có hiệu lực ràng buộc các cơ quan nhà nước, mọi người
dân phải hoạt động, hành động trong khuôn khổ luật định. Toà án bằng việc
xét xử các vi phạm về Hiến pháp, vi phạm hành chính, hình sự, dân sự và

kinh tế khẳng định trong thực tế nguyên tắc về tính tối cao của pháp luật,
pháp luật ngự trị trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư. Toà án thơng qua hoạt động xét xử có vai trị bảo vệ chế độ
hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công dân
trong nhà nước pháp quyền. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội,
tạo mơi trường ổn định để quốc gia phát triển đồng thời góp phần vào hồ
bình và an ninh của nhân loại. Khẳng định tính chất công bằng, nhân đạo, dân
chủ và pháp chế của nhà nước pháp quyền.
Để thực hiện quyền tư pháp của Toà án trong nhà nước pháp quyền có
các yêu cầu cơ bản sau:
- Hoạt động của toà án phải dựa trên ba nguyên tắc được thừa nhận
chung của nhà nước pháp quyền với tính chất là nền tảng quan trọng nhất
như: tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người; đảm bảo tính tối cao
của hiến pháp và pháp luật trong hoạt động xét xử; phân công quyền lực để đảm
bảo cơ chế kìm hãm và đối trọng (kiểm tra và chế ước) của ba nhánh quyền lực
nhà nước.
- Tồ án hoạt động độc lập, khơng phụ thuộc vào hai nhánh quyền lực
lập pháp và hành pháp. Quyền tư pháp chỉ do Toà án thực hiện và bằng hoạt
động xét xử (tài phán) về hiến pháp, hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế.
- Tồ án hoạt động dựa trên các nguyên tắc tố tụng tiến bộ và dân chủ
được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế là: pháp chế; độc lập của thẩm
phán; xét xử tập thể; xét xử công khai; xét xử bằng miệng; xét xử trực tiếp và
liên tục; đảm bảo quyền tự do sử dụng tiếng dân tộc đối với người không biết

23


ngơn ngữ tiến hành tố tụng; tranh tụng; bình đẳng trước pháp luật; Hoạt động
dựa trên nguyên tắc nhân đạo, khơng cho phép thành lập các Tồ án đặc biệt.


24


Chương 2
THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRỊ
CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành tồ án và vị trí vai
trị của tồ án nhân dân ở Việt Nam
2.1.1. Toà án nhân dân trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với chủ trương phá
huỷ đến tận gốc rễ bộ máy hành chính, bộ máy tư pháp, quân đội nhà nghề,
nhà tù và trại tập trung của chế độ thực dân phong kiến... ngày 13-9-1945,
Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh thiết
lập các toà án quân sự, đánh dấu sự ra đời của toà án nhân dân ở nước ta.
Theo Sắc lệnh này, về thẩm quyền xét xử, toà án quân sự xét xử tất cả
những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trừ trường hợp phạm nhân là binh sĩ thì
thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật (Điều 2); Toà án quân sự xét xử tất
cả các hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc sau ngày 19-8-1945. Ngoài
ra, đối với những nơi ở xa các Toà án quân sự đã được thành lập theo Sắc lệnh
này thì trong những trường hợp đặc biệt, Chính phủ ”có thể cho Uỷ ban nhân
dân địa phương thành lập một Tồ án qn sự có quyền xử trong một thời kỳ
và theo đúng những nguyên tắc định trong Sắc lệnh này” (điều 7). Về thẩm
quyền theo lãnh thổ trong Sắc lệnh này chưa được đề cập đến. Để việc tranh chấp
về thẩm quyền theo lãnh thổ không xảy ra, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh ngày 26-4-1945 ấn định địa phương thẩm quyền
của các toà án quân sự.
Về tổ chức, các toà án quân sự được thiết lập gồm: ở Bắc bộ tại Hà Nội,
Hải Phịng, Thái Ngun, Ninh Bình; ở Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi;
ở Nam bộ tại Sài Gịn, Mỹ Tho. Tiếp theo đó, do u cầu của nhiệm vụ xét


25


×