Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

chất lượng giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở học viện hậu cần giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.06 KB, 115 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Bác Hồ, sự thương yêu đùm bọc của nhân dân, Quân đội nhân dân Việt
Nam đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu kiên cường, dũng cảm,
cùng với toàn dân làm nên chiến thắng vô cùng oanh liệt trong hai cuộc kháng
chiến vĩ đại của dân tộc. Chiến thắng đó đã chứng tỏ rằng: sức mạnh vơ địch để
qn đội ta vượt qua khó khăn, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược là sức
mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí trang bị, nghệ thuật quân sự, kỷ
luật quân đội… Trong đó, con người mà trước hết là bản lĩnh chính trị, ý chí quyết
chiến, quyết thắng, tinh thần sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân là yếu tố quan trọng hàng
đầu, có ý nghĩa quyết định sức mạnh của quân đội ta.
Bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu, tinh thần phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp cách
mạng của cán bộ, chiến sĩ qn đội khơng phải tự phát hình thành, phát triển mà phải
trải qua quá trình chủ động, tích cực tiến hành tổng hợp các nội dung, biện pháp công
tác tư tưởng, công tác tổ chức, nhất là cơng tác giáo dục chính trị (GDCT) của Đảng
và qn đội. Chính vì vậy, để nâng cao sức mạnh tổng hợp, quân đội phải đặc biệt coi
trọng đổi mới nội dung, hình thức, khơng ngừng cao chất lượng GDCT, có như vậy
mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, xây dựng quân đội vững
mạnh về chính trị, hồn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho.
Khẳng định vai trò của cơng tác GDCT, Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ
XI của Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng
giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống…”, và
“ tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính
thuyết phục, hiệu quả của cơng tác tư tưởng, tun truyền, học tập chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
nhà nước…” [20, tr. 216, 256].



2
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, vai trò của công tác GDCT trong
đào tạo cán bộ quân đội, những năm qua, Tổng cục Chính trị đã xác định: “Các
trung tâm nghiên cứu cần coi trọng hơn những đề tài khoa học thiết thực góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng của quân đội
trước yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị trong tình hình mới. Các nhà trường
qn đội cần coi trọng và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng,
giáo dục nhân cách cho đội ngũ học viên” [52, tr.8].
GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần là
một hoạt động quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng trong quân đội, một bộ
phận của công tác đảng, cơng tác chính trị (CTĐ, CTCT) nhằm trực tiếp xây dựng
thế giới quan, phương pháp luận khoa học, hình thành niềm tin cộng sản, bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, quan điểm thái độ phục vụ, năng lực thực
tiễn của đội ngũ cán bộ hậu cần cấp phân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao, góp phần hồn thiện và xây dựng phẩm chất, nhân cách người quân nhân
cách mạng, con người mới trong quân đội.
Nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác GDCT, trong những
năm qua, Học viện Hậu cần đã quán triệt đầy đủ quan điểm của Đảng, Quân ủy
Trung ương và Tổng cục Chính trị, tổ chức thực hiện có hiệu quả cơng tác GDCT
trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội. Công tác GDCT của Học viện đã trực
tiếp góp phần xây dựng niềm tin, bản lĩnh chính trị, tinh thần sẵn sàng nhận và
hồn thành mọi nhiệm vụ được giao cho đội ngũ cán bộ hậu cần cấp phân đội,
đóng góp quan trọng vào kết quả đào tạo cán bộ và kết quả hoàn thành nhiệm vụ
chính trị của Học viện, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quân đội, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước yêu cầu mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, GDCT trong đào tạo cán bộ
hậu cần cấp phân đội vẫn còn một số hạn chế. Một bộ phận cán bộ, kể cả giảng viên
và học viên chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị của cơng tác tư tưởng, giáo dục
lý luận chính trị. Khơng ít học viên cịn ngại học hoặc coi nhẹ các mơn lý luận chính



3
trị Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung, hình thức, phương pháp cơng
tác GDCT chưa được đổi mới thường xun, chưa phong phú, cịn khơ cứng. Nhận
thức chính trị, niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nhiệm vụ của quân đội
của học viên đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội còn biểu hiện chưa đầy đủ, vững
chắc. Việc xác định mục tiêu, yêu cầu đào tạo, động cơ thái độ học tập, rèn luyện
còn biểu hiện chưa đúng đắn, chưa yên tâm học tập và cơng tác lâu dài trong qn
đội, có tư tưởng chọn ngành, chọn nghề, viết đơn xin thôi học, thậm chí đào ngũ,
bỏ ngũ... Trong q trình rèn luyện vẫn còn học viên tham gia vào các tệ nạn, tiêu
cực ngoài xã hội, vi phạm kỷ luật quân đội, có trường hợp buộc thơi học trả về địa
phương. Trong khi đó, âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất
là âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hoá”
quân đội... ngày càng quyết liệt; mặt trái của cơ chế thị trường, những tiêu cực
ngoài xã hội đã và đang tác động khơng nhỏ đến q trình hình thành bản lĩnh
chính trị, nhân cách người cán bộ hậu cần.
Trước tình hình đó, GDCT trong qn đội nói chung, ở Học viện Hậu cần nói riêng
càng phải được coi trọng, phải được nâng lên một tầm cao mới nhằm đáp ứng yêu cầu bảo
đảm hậu cần cho các nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của quân đội ta trong bối
cảnh mới. Vì vậy, nghiên cứu “chất lượng giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ hậu cần
cấp phân đội ở Học viện Hậu cần giai đoạn hiện nay” khơng chỉ là u cầu khách quan
mà cịn là vấn đề rất cấp thiết, khơng chỉ có ý nghĩa thiết thực với Học viện Hậu cần mà cịn
góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về chất lượng GDCT của quân đội ta.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu và bài viết liên
quan đến chất lượng GDCT. Tuỳ thuộc từng góc độ, phạm vi nghiên cứu mà các
cơng trình có cách tiếp cận và nội dung đề cập khác nhau. Đáng chú ý là một số
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu, như:
2.1. Các sách đã xuất bản:
- Vũ Ngọc Am, (2003), "Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho

cán bộ, đảng viên cơ sở", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã làm rõ cơ sở


4
lý luận và thực tiễn, những ưu điểm và khuyết điểm trong cơng tác giáo dục chính
trị, tư tưởng ở các đơn vị cơ sở, từ đó đề xuất những giải pháp đổi mới cơng tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở các đơn vị cơ sở. Song chưa
bàn đến chất lượng giáo dục chính trị.
- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, (2000); “Nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị trong huấn luyện quân sự, chuyên môn kỹ thuật”, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách đề cập đến sự thống nhất giữa giáo dục và
huấn luyện quân sự, rút ra bài học kinh nghiệm và những yêu cầu của việc nâng
cao chất lượng giáo dục chính trị trong huấn luyện qn sự, chun mơn kỹ thuật.
- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, (2002), “Nâng cao chất
lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Tác phẩm này bàn sâu về giáo dục chủ nghĩa yêu
nước và chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội mà chưa đề cập
đến chất lượng giáo dục chính trị.
- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, (2006), “Nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị trong đào tạo sĩ quan hải quân hiện nay”, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách đã luận giải tương đối sâu về giáo dục chính trị và
chất lượng giáo dục chính trị. Dù vậy, tác phẩm chưa đưa ra khái niệm về chất
lượng giáo dục chính trị một cách tồn diện và đầy đủ.
Các tác phẩm trên đã đề cập đến vấn đề giáo dục chính trị và chất lượng giáo
dục chính trị trên các góc độ khác nhau, trong đó tương đối thống nhất về mục
đích, hình thức, nội dung giáo dục chính trị hay giáo dục chính trị, tư tưởng. Tuy
nhiên, khi bàn đến chất lượng giáo dục chính trị thì cách luận giải và tiếp cận vấn
đề có sự khác nhau, chưa có sự thống nhất và chưa thực sự đầy đủ. Đặc biệt, chưa
có tác phẩm nào bàn đến vấn đề chất lượng giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ
hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần.

2.2. Các bài báo đã đăng trên các tạp chí:
- Mai Hồng Bỉnh (2005),“Một số vấn đề về giáo dục chính trị trong quân đội qua
20 năm đổi mới và nhiệm vụ đặt ra hiện nay”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, (số 11).


5
- Nguyễn Tuấn Dũng (2009), “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị trong
quân đội thời kỳ mới”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, (số 8).
- Vũ Hữu Ngoạn (2008), “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư
tưởng trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 12).
- Nguyễn Đức Quyền (2003), “Giáo dục chính trị tư tưởng cho thanh niên
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Thanh niên, (số 22).
- Phạm Hồng Thanh (2006), “Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng trong quân đội”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, (số 3).
2.3. Các bài báo đã đăng trên mạng internet:
- Nguyễn Cừu An (2013), “Nâng cao chất lượng công tác giáo dục, rèn
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4,
khóa XI”, Trang tin điện tử Trường Chính trị Lê Duẩn, 5/3.
- Đặng Gia Duẩn (2013), “Công tác giáo dục của Đoàn cần gắn với tâm lý,
nhu cầu, sở thích của giới trẻ”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, www.tuyengiao.vn, 6/1.
- Trịnh Dũng- Duy Hiển (2009), “Đổi mới hình thức giáo dục chính trị”, Báo
Qn đội nhân dân điện tử, www.qdnd.vn, 11/9.
- Mai Phương (2009), “Nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - u
cầu cấp bách”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, www.qdnd.vn, 4/6.
- Tấn Tuân- Nguyễn Thắng (2012), “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại
đơn vị trong giai đoạn mới: Tiến hành đồng bộ các giải pháp”, Báo Quân đội nhân
dân điện tử, www.qdnd.vn, 18/9.
2.4. Các luận văn, luận án đã bảo vệ:
- Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, chiến sĩ ở đơn vị
cơ sở chiến đấu trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng của Lê

Duy Chương, Hà Nội, năm 2000.
- Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng trong quân đội trước
yêu cầu mới của cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học của Nguyễn Văn Cần, Hà Nội, năm 2001.


6
- Hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên đào tạo cán
bộ hậu cần cấp phân đội quân đội hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị của
Lương Ngọc Vĩnh, Học viện Báo chí và Tun truyền, Hà Nội, năm 2012.
- Cơng tác giáo dục chính trị của Đảng bộ trường Đại học Văn hóa nghệ
thuật Quân đội hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng của Nhâm Cao Thành,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2001.
- Nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan-binh sĩ trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị của Trần Anh Kim, Hà Nội, năm 2005.
- Chất lượng giáo dục chính trị trong các trường đào tạo cán bộ hậu cần
cấp phân đội Quân đội nhân dân ở phía Bắc giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng của Lương Minh Truyền, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2005.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập khá nhiều nội dung
về vấn đề chất lượng GDCT dưới các góc độ khác nhau. Nhiều bài viết luận giải
khá sâu sắc về vị trí, vai trị của GDCT trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Một số cơng trình, bài viết đề cập đến thực trạng chất lượng GDCT, đồng thời
đề xuất nhiều giải pháp nhằm tăng cường công tác GDCT của các cấp uỷ đảng
trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình, bài viết nào nghiên cứu một
cách sâu sắc về chất lượng GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học
viện Hậu cần giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng GDCT,
luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng GDCT trong
đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chất lượng GDCT trong đào
tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần.


7
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng chất lượng GDCT trong đào tạo
cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần từ năm 2007, chỉ rõ nguyên
nhân và kinh nghiệm.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng GDCT trong đào tạo
cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là chất lượng công tác GDCT trong đào tạo cán bộ
hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng giáo dục các môn
khoa học lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách và pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ của
cách mạng, nhiệm vụ của quân đội; chất lượng công tác tư tưởng, tuyên truyền,
giáo dục, rèn luyện đạo đức đối với học viên đang học tập tại Học viện.
- Về đối tượng nghiên cứu, khảo sát: Học viên đào tạo cán bộ hậu cần cấp
phân đội hệ tập trung chính quy.
- Về thời gian: Khảo sát, đánh giá chất lượng công tác GDCT từ năm 2007
đến nay và đề xuất giải pháp thực hiện từ nay đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng, Qn uỷ Trung ương, Bộ

Quốc phịng, Tổng cục Chính trị về GDCT của Đảng trong quân đội nói chung và
ở các nhà trường quân đội nói riêng; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, luật pháp của
Nhà nước về giáo dục, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ; tiếp thu, kế thừa có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan.
5.2. Cơ sở thực tiễn: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở thực tiễn
tiến hành GDCT ở Học viện Hậu cần; các báo cáo tổng kết, đánh giá chất lượng,


8
chất lượng GDCT; kết quả khảo sát thực tế về GDCT và chất lượng GDCT trong
đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần trong phạm vi nghiên
cứu.
5.3. Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
khoa học gồm: phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lơ gíc, chun gia,
tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, điều tra, quan sát, thu thập thơng tin...
6. Đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận giải, làm sáng rõ chất lượng GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp
phân đội ở Học viện Hậu cần giai đoạn hiện nay; xây dựng tiêu chí giá chất lượng
GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần.
- Trên cơ sở khảo sát thực trạng chất lượng GDCT trong đào tạo cán bộ hậu
cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần, chỉ ra được những nguyên nhân, rút ra một
số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng GDCT.
- Đề xuất được các giải pháp dưới góc độ khoa học xây dựng đảng theo
hướng huy động tối đa tiềm năng của Học viện Hậu cần một cách hợp lý để nâng
cao chất lượng GDCT.
6.2. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung thêm tri thức về chất lượng GDCT nói
riêng và chất lượng cơng tác tư tưởng nói chung. Cung cấp luận cứ khoa học cho

lãnh đạo, chỉ huy Học viện Hậu cần đề ra chủ trương, biện pháp nâng cao chất
lượng GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội của nhà trường.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiệp vụ cho cán bộ chính trị ở Học
viện Hậu cần; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập chuyên
ngành CTĐ, CTCT ở các nhà trường quân đội và chuyên ngành công tác tư tưởng
ở trường đại học ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn


9
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có kết cấu 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TRONG ĐÀO TẠO CÁN BỘ HẬU CẦN CẤP PHÂN ĐỘI
Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC VIỆN HẬU CẦN VÀ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TRONG
ĐÀO TẠO CÁN BỘ HẬU CẦN CẤP PHÂN ĐỘI Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN

1.1.1. Khái quát về Học viện Hậu cần
Học viện Hậu cần, tiền thân là Lớp Huấn luyện Cán bộ Cung cấp đầu tiên,
thành lập tháng 5/1951, tại bản Khuôn Lồng, xã Yên Đổ, huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cung cấp bổ sung cho các đại đoàn chủ
lực và phương thức tác chiến mới của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống
Pháp. Học viên tham dự khóa học đầu tiên này là trưởng, phó phịng, ban qn nhu
các đại đoàn, trung đoàn độc lập, một số là cán bộ cấp tỉnh, huyện được điều vào
quân đội. Nội dung học tập gồm: chính trị và nghiệp vụ cơng tác chun mơn.
Đồng chí Trần Đăng Ninh- Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Cung
cấp trực tiếp chỉ đạo lớp học.
Để phục vụ cho sự phát triển lâu dài của quân đội ta và trực tiếp phục vụ

chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, Tổng Quân uỷ, Tổng cục Cung cấp đã quyết
định thành lập Trường Hậu cần trên cơ sở các lớp huấn luyện cán bộ cung cấp. Giai
đoạn này, nhà trường đào tạo được gần 500 cán bộ cung cấp trực tiếp tham gia
chiến đấu và phục vụ chiến đấu, cung cấp và bảo đảm lương thực, thực phẩm, quân
trang, vũ khí, đạn dược và nhiều vật chất hậu cần cho các chiến dịch, các đơn vị,
các hướng, mũi tiến cơng trong điều kiện vơ cùng khó khăn, gian khổ. Các cán bộ
cung cấp đào tạo tại nhà trường đều hồn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần quan
trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Ngày 12/2/1957 Bộ Quốc phòng quyết định đổi tên Trường Hậu cần thành
Trường Cán bộ Hậu cần. Đến 10/1958, đổi tên thành Trường Sỹ quan Hậu cần. Với
sự phát triển nhanh của nhiệm vụ cách mạng, để phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng


10
hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc, ngày 23/7/1974, Bộ Quốc phòng ra
quyết định thành lập Học viện Hậu cần trên cơ sở Trường Sỹ quan Hậu cần với hai
nhiệm vụ cơ bản: đào tạo, bổ túc cán bộ hậu cần sơ, trung và cao cấp cho toàn
quân; tham gia tổng kết công tác hậu cần, nghiên cứu lý luận và biên soạn tài liệu
về hậu cần. Trong điều kiện vơ cùng khó khăn, gian khổ và ác liệt của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, nhà trường vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện,
đào tạo cán bộ hậu cần bổ sung kịp thời cho chiến trường, tham gia lao động sản
xuất, xây dựng và bảo vệ miền Bắc XHCN, phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến
đấu ở chiến trường miền Nam. Góp phần cùng quân đội và cả nước giải phóng
hồn tồn miền Nam thống nhất đất nước năm 1975 [31].
Đến năm 1988, nhà trường tiếp nhận giáo viên và học viên Trường Sỹ quan
Tài chính, thành lập Khoa Tài chính. Tiếp nhận Trường Trung học Quân nhu của
Cục Quân nhu, Trường Trung cấp Xăng dầu của Cục Xăng dầu, thành lập khối đào
tạo trung học kỹ thuật của nhà trường. Tiếp nhận Khoa Chiến thuật ngành của
Trường Sĩ quan Chỉ huy Kỹ thuật Ơtơ thành lập Khoa Chỉ huy Vận tải.
Hiện nay, Học viện Hậu cần đã trở thành một nhà trường lớn, trung tâm đào

tạo và nghiên cứu khoa học hậu cần quân sự của quân đội, đào tạo trình độ từ trung
cấp đến tiến sĩ. Nhiệm vụ chủ yếu của Học viện Hậu cần là đào tạo, bổ túc cán bộ,
nhân viên hậu cần và nghiên cứu khoa học hậu cần quân sự, đào tạo nhân lực phục
vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước và quân đội. Các chuyên
ngành đào tạo bao gồm: đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội có trình độ đại học
với 6 chuyên ngành: Chỉ huy Tham mưu Hậu cần, Quân nhu, Vận tải, Xăng dầu,
Doanh trại, Tài chính; đào tạo cán bộ hậu cần cấp chiến thuật, chiến dịch với 6
chuyên ngành: Chỉ huy Tham mưu Hậu cần, Quân nhu, Vận tải, Xăng dầu, Doanh
trại, Tài chính; đào tạo ngắn hạn cán bộ hậu cần cấp trung đoàn, sư đoàn và quân
sự địa phương; đào tạo trung cấp chuyên nghiệp với 4 chuyên ngành: Nấu ăn,
Xăng dầu, Doanh trại, Tài chính; đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ngành khoa học hậu cần
quân sự và ngành Tài chính- Ngân hàng; đào tạo sỹ quan dự bị, giảng viên hậu cần
cho các nhà trường quân đội; đào tạo cao đẳng, đại học, sau đại học hệ dân sự (3


11
chun ngành: Tài chính - Ngân hàng, Kế tốn và Kỹ sư xây dựng); nghiên cứu
khoa học hậu cần quân sự; sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ khác do Bộ Quốc phịng
giao (hồn thiện, chuyển loại cao đẳng hậu cần, đại học, các ngành hậu cần và bổ
túc cán bộ kinh tế quân đội); đào tạo Quốc tế cho Quân đội Nhân dân Cách mạng
Lào, Quân đội Hoàng gia Cămpuchia.
1.1.2. Giáo dục chính trị trong đào tạo cán bợ hậu cần cấp phân đội ở
Học viện Hậu cần - quan niệm, mục tiêu, yêu cầu và đặc điểm
1.1.2.1. Mục tiêu, yêu cầu và đặc điểm đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội
ở Học viện Hậu cần
* Mục tiêu đào tạo
Căn cứ vào chức năng, tính chất nhiệm vụ của từng loại cán bộ mà các nhà
trường trong quân đội xác định mục tiêu đào tạo cán bộ cụ thể. Học viện Hậu cần
xác định mục tiêu đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội như sau:
Đào tạo những thanh niên, quân nhân có đủ tiêu chuẩn qui định trở thành sĩ

quan hậu cần cấp phân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt;
năng lực chuyên môn nghiệp vụ về chỉ huy, chỉ đạo, bảo đảm và quản lý công tác
hậu cần tài chính ở phân đội.
Học viên tốt nghiệp được cấp bằng đại học ngành hậu cần quân sự, đảm
nhiệm chức vụ ban đầu là trợ lý hậu cần tiểu đoàn; trung đội trưởng vận tải; trợ lý
quân nhu, xăng dầu, doanh trại, tài chính cấp trung đồn, qua thực tế cơng tác, có
khả năng phát triển đảm nhiệm cương vị cao hơn (phó chủ nhiệm hậu cần trung
đồn; trợ lý qn nhu, tài chính, doanh trại, xăng dầu cấp sư đồn) và có tiềm năng
phát triển lâu dài.
* Yêu cầu đào tạo
- Yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức
Trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với Tổ quốc Việt Nam
XHCN, với nhân dân, có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc do Đảng lãnh đạo; kiên định vững vàng trong mọi tình huống, sẵn sàng nhận
và hồn thành mọi nhiệm vụ được giao, phấn đấu trở thành đảng viên.


12
Có ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh, giữ vững và chấp hành
nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước; biết
phát huy dân chủ, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, có tinh thần đồn kết
xây dựng đơn vị vững mạnh tồn diện.
Có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hố dân tộc, có đạo đức lối
sống trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn.
- Yêu cầu về trình độ kiến thức, năng lực thực hành
Nắm vững kiến thức cơ bản và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các môn KHXH&NV, CTĐ, CTCT và nghị quyết
của Đảng, chỉ thị của cấp trên để giáo dục xây dựng đơn vị. Biết tiến hành CTĐ,
CTCT ở phân đội hậu cần, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, tổ chức Đảng
trong sạch vững mạnh.
Nắm vững nguyên tắc hình thức chiến thuật cấp phân đội và một số hình

thức chiến thuật cấp trung, sư đoàn làm cơ sở tổ chức bảo đảm hậu cần theo các
phương án chiến đấu, biết chỉ huy quản lý phân đội chấp hành nghiêm kỷ luật, điều
lệnh, điều lệ, chế độ qui định của quân đội và pháp luật nhà nước.
Có trình độ chun mơn nghiệp vụ về hậu cần quân sự: cơ bản, hệ thống,
chuyên sâu; biết vận dụng thực hành chỉ huy, chỉ đạo, bảo đảm, quản lý và huấn
luyện ở phân đội hậu cần, hồn thành nhiệm vụ trong thời bình và thời chiến.
Nắm vững chức trách, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp cơng tác của trợ lý
hậu cần tiểu đồn, trung đội trưởng vận tải, trợ lý quân nhu, doanh trại, xăng dầu,
tài chính trung đồn, có phương pháp cơng tác khoa học, cụ thể, quyết đoán. Biết
thực hành huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ hậu cần cho bộ đội và nhân viên
thuộc quyền; tổ chức quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, phương
tiện kỹ thuật hậu cần ở phân đội.
- Yêu cầu về sức khỏe
Có sức khoẻ tốt, đáp ứng yêu cầu phục vụ quân đội lâu dài [32].
* Đặc điểm giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội


13
Là một bộ phận của công tác GDCT trong quân đội, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Tổng cục Chính trị, Đảng ủy Học viện, GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp
phân đội mang đầy đủ những đặc điểm chung của đối tượng cán bộ, chiến sĩ trong
toàn quân. Tuy nhiên, GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội cịn có những
yếu tố đặc thù, chi phối đáng kể đến chất lượng GDCT. Những đặc điểm riêng này
một mặt xuất phát từ đặc điểm đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội hiện nay, mặt khác
xuất phát từ bản thân quá trình tổ chức GDCT tại đơn vị có những yếu tố đặc trưng
riêng. Nghiên cứu, nắm vững những đặc điểm riêng này là cơ sở khoa học để xác định
nội dung, phương pháp GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội đạt hiệu quả
cao. Đặc điểm đó nổi lên những vấn đề cơ bản sau đây.
- Đặc điểm mô hình và mục tiêu đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội
Về mơ hình, mục tiêu đào tạo cán bộ hậu cần hiện nay là đào tạo học vấn gắn

với đào tạo chức danh là cán bộ của Đảng trong quân đội vì thế yêu cầu người cán
bộ hậu cần tốt nghiệp ra trường phải đạt được 3 mục tiêu: có trình độ đại học về
chun ngành hậu cần quân sự, là cán bộ trong quân đội và phải là đảng viên. Sản
phẩm của quá trình đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ngồi việc phải có trình độ
đại học với văn bằng cử nhân hậu cần quân sự thì phải là người cán bộ trực tiếp
quản lý, chỉ huy phân đội hậu cần làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, đồng thời trực
tiếp tiến hành CTĐ, CTCT cho cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền nhằm xây dựng cho
phân đội hậu cần vững mạnh về chính trị, hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Chun mơn của người cán bộ hậu cần là một công tác đặc thù, gắn liền với việc
quản lý vật tư, tài sản, tài chính của quân đội, trực tiếp chăm lo, săn sóc bộ đội từ
việc ăn, ở, sinh hoạt và đời sống hằng ngày của bộ đội như: cơm ăn, nước uống,
quần áo mặc, nhà ở ... chun mơn đó diễn ra trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu của bộ đội, trong điều kiện và hoàn cảnh hết sức đặc biệt và khó khăn
gian khổ, thậm chí cả hy sinh. Trong mọi tình huống, cơng việc người cán bộ hậu
cần tác động lớn đến sức khỏe và tinh thần chiến đấu của bộ đội, đồng thời rất dễ bị
cám dỗ bởi lợi ích vật chất, dễ bị tha hóa, tiêu cực, tham ơ, lãng phí... Vì vậy, cán


14
bộ hậu cần đòi hỏi phải được GDCT, đạo đức thật tốt để có quan điểm thái độ phục
vụ đúng đắn, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, biết chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ
mới hoàn thành nhiệm vụ chun mơn của mình.
Ngồi thực hiện nhiệm vụ chun mơn, người cán bộ hậu cần phải có trách
nhiệm tổ chức chỉ huy phân đội hậu cần thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm hậu cần.
Công tác bảo đảm hậu cần có vai trị rất quan trọng vì liên quan đến nhiều người,
tác động vào ý chí chiến đấu, tinh thần cán bộ, chiến sĩ. Do vậy, người làm công tác
hậu cần phải được GDCT rất chu đáo mới có thái độ phục vụ đúng đắn và làm tròn
bổn phận của mình. Ngồi thực hiện nhiệm vụ chun mơn, người cán bộ hậu cần
còn là cán bộ của Đảng trong quân đội nên phải biết tiến hành CTĐ, CTCT, xây
dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, bảo đảm cho đơn vị ln hồn thành tốt

nhiệm vụ được giao, nhất là trong điều kiện có sự chống phá của các thế lực thù
địch, trong chiến tranh, các tình huống đặc biệt. Vì thế trong quá trình đào tạo tại
Học viện, học viên đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội phải được GDCT đầy đủ,
trang bị những kiến thức cần thiết để nhận thức đầy đủ chủ trương, quan điểm của
Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước. Khi đó mới hồn thành chức trách
nhiệm vụ được giao.
- GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần vừa
thực hiện theo nội dung, chương trình giáo dục các mơn KHXH & NV theo quy định
của Bộ Quốc phòng, vừa thực hiện theo nội dung, chương trình GDCT tại đơn vị
Đối với đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội, nhà trường trong qn đội nói
chung, nội dung, chương chương trình GDCT thực hiện theo 2 hình thức bao gồm:
dạy học các mơn KHXH & NV (giáo dục chính khóa) và GDCT tại đơn vị (giáo
dục thường xuyên). Tổ chức dạy học các môn KHXH & NV trong nhà trường
quân đội do các khoa (bộ môn) KHXH & NV đảm nhiệm dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng ủy, Ban Giám đốc và hướng dẫn, kiểm tra về nội dung và nghiệp vụ của
Phịng Chính trị, Phịng Đào tạo, Ban Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo; đồng thời chịu sự kiểm tra hướng dẫn của cơ quan chính trị và cơ quan
tham mưu cấp trên.


15
GDCT tại đơn vị là một nội dung quan trọng của cơng tác chính trị, tư tưởng
- văn hóa, một nội dung cơ bản của nhiệm vụ huấn luyện bộ đội; là khâu căn bản,
trung tâm, có ý nghĩa quyết định hình thành nhân cách quân nhân - học viên, phẩm
chất “Bộ đội Cụ Hồ” và năng lực hoạt động thực tiễn của quân nhân, công nhân
viên chức, lao động quốc phịng [72]. Nội dung, chương trình và thời gian GDCT
cho các học viên của các nhà trường quân đội nói chung cán bộ hậu cần cấp phân
đội nói riêng, hằng năm phải thực hiện theo mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, chỉ lệnh huấn luyện chiến đấu của Tổng Tham mưu trưởng và chỉ thị
GDCT của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Tổng cục Chính trị chịu trách nhiệm
xác định nội dung, chương trình, biên soạn tài liệu GDCT chung, thống nhất trong

toàn quân. Các đơn vị trực thuộc Bộ, trong đó có Học viện Hậu cần căn cứ chương
trình, nội dung do Tổng cục Chính trị xác định và tình hình nhiệm vụ của đơn vị,
biên soạn tài liệu học tập chính trị theo phân cấp. Cấp Học viện biên soạn tài liệu
giáo dục truyền thống và nhiệm vụ của Học viện. Cấp trực thuộc Học viện biên
soạn tài liệu GDCT cho đối tượng thuộc đơn vị mình theo nội dung, chương trình
qui định và hướng dẫn của cơ quan chính trị. Tài liệu GDCT đơn vị tự biên soạn
phải thơng qua chính trị viên, bí thư cấp ủy và báo cáo cơ quan chính trị Học viện.
Những nội dung GDCT do Tổng cục Chính trị qui định là điều kiện “cần”,
song điều kiện “đủ” để hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ hậu cần
cấp phân đội địi hỏi phải có thêm những kiến thức được tổng kết từ thực tiễn
ngành hậu cần ngoài đơn vị. Điều đó yêu cầu chủ thể giáo dục phải nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, bổ sung, làm phong phú thêm nội dung GDCT để bảo đảm có
tính đặc thù. Nếu khơng tích cực, chủ động nghiên cứu, biên soạn thành tài liệu
GDCT riêng cho đối tượng cán bộ hậu cần thì nội dung giáo dục sẽ khơng đầy đủ,
không sát đối tượng, xa rời thực tiễn, không đáp ứng được yêu cầu giáo dục phẩm
chất người cán bộ hậu cần trước địi hỏi của nhiệm vụ chun mơn, theo mục tiêu,
u cầu đào tạo.
Tùy tình hình chính trị, kinh tế và tình hình nhiệm vụ của đất nước, quân đội,
ngành hậu cần, những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mà nội dung, chương trình


16
được lựa chọn cho phù hợp với mỗi đối tượng hằng năm. Với đối tượng đào tạo
cán bộ hậu cần cấp phân đội thì nội dung được xác định như đối tượng hạ sĩ quan,
binh sĩ ngoài đơn vị huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Ngoài các nội dung giáo dục
do Tổng cục Chính trị qui định, Học viện cũng xác định nội dung giáo dục liên
quan đến đối tượng, mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nhiệm vụ của đơn vị, giáo dục
truyền thống, giáo dục đối tượng mới nhập học (đầu khóa), giáo dục cho đối tượng
kết nạp Đảng, giáo dục cho Đoàn viên thanh niên, giáo dục các đối tượng cá biệt
thơng qua các hình thức bổ trợ, ngoại khóa rất phong phú và đa dạng... Thơng qua

đó làm cho học viên tiếp thu được kiến thức chung nhất theo qui định và nhiều kiến
thức đặc thù của đối tượng đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội.
- Đặc điểm đối tượng, mơi trường chính trị xã hội trong và ngoài Học viện
Học viên đào tạo cán bộ cấp phân đội là những thanh niên trong độ tuổi từ 18
đến 25, đã tốt nghiệp trung học phổ thông (một số là chiến sĩ đang thực hiện nghĩa
vụ quân sự) đăng ký dự thi vào Học viện. Khác với sinh viên học trong các trường
đại học dân sự, những thanh niên này phải trải qua vòng sơ tuyển về chính trị và thể
lực ở cơ quan quân sự địa phương, có đủ điều kiện phục vụ lâu dài trong quân đội
mới được dự thi vào Học viện. Sau khi trúng tuyển trong kỳ thi tuyển sinh quân sự,
thí sinh được triệu tập về Trường Sĩ quan Lục quân 1, tham gia khoá huấn luyện
quân sự trong thời gian 6 tháng để làm quen với môi trường quân sự, trở thành người
chiến sĩ trước khi trở thành học viên quân sự. Sau đó, học viên trở về Học viện và
được phân ngành đào tạo theo nhu cầu, kế hoạch sử dụng cán bộ của quân đội.
Thời gian đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện là 4 năm. Trong
quá trình học tập tại Học viện, học viên thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm và
quyền lợi của hạ sĩ quan, chiến sĩ. Tốt nghiệp ra trường, học viên được phong quân
hàm sĩ quan cấp thiếu uý, trung uý; được Bộ Quốc phòng điều động đến nhận công
tác ở các đơn vị thuộc các quân, binh chủng, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.
Một trong những đặc điểm đáng chú ý của học viên hậu cần cấp phân đội là
đại đa số học đều là những thanh niên, học sinh phổ thông, chưa am hiểu nhiều về
lĩnh vực hoạt động quân sự; kiến thức chính trị, lý luận chính trị cịn rất hạn chế,


17
trong khi đó, khi ra trường, họ sẽ là những sĩ quan hậu cần, làm công tác chỉ huy,
quản lý, chuyên môn nghiệp vụ theo yêu cầu của quân đội. Để đạt mục tiêu, yêu
cầu đào tạo, trong quá trình học tập tại Học viện, học viên được quản lý chặt chẽ
theo các chế độ quy định của quân đội. Ngoài nhiệm vụ học tập và tham gia vào
các hoạt động rèn luyện để trở thành người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam,
họ còn phải rèn luyện phương pháp, tác phong lãnh đạo, chỉ huy, ý thức kỷ luật,

phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ qn đội. Chính vì vậy, ngồi các
kiến thức thu nhận được qua các bài giảng trên lớp, các hoạt động xã hội sau giờ
học cũng góp phần rất lớn trong việc hình thành những phẩm chất nhân cách, tư
tưởng chính trị của người cán bộ quân đội tương lai.
Cũng như các đối tượng đào tạo cán bộ cấp phân đội của quân đội, GDCT
trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần nói riêng thường
được bắt đầu bằng việc giáo dục các môn lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh theo chương trình đào tạo chính khóa. Những mơn học này trang bị
tri thức cơ bản làm cơ sở hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học,
làm hành trang cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của học viên tại trường cũng
như khi về đơn vị. Tuy nhiên những mơn học này có tính khái qt và trừu tượng
hóa rất cao, địi hỏi người học phải có vốn sống, sự trải nghiệm hoạt động thực tiễn
xã hội. Trên thực tế, đối tượng đào tạo lại là những thanh niên mới rời khỏi ghế nhà
trường phổ thông, chưa quen với các mơn lý luận chính trị và chưa trải nghiệm
trong cuộc sống xã hội, do vậy, người học rất bỡ ngỡ khi tiếp cận và dễ nảy sinh
tâm lý ngại và sợ học các mơn lý luận chính trị. Nhiều học viên rơi vào trạng thái
trung bình chủ nghĩa trong học tập rèn luyện. Để khắc phục tình trạng này, cơng tác
GDCT phải tìm được phương pháp làm cho người học dần thích nghi với yêu cầu
dạy học đại học và phát huy tính tích cực chủ động, tự tin trong q trình nhận thức
của mình. Đó là một yêu cầu rất quan trọng đối với chủ thể GDCT mà đặc biệt là
các giảng viên lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngồi những khó khăn trên, cơng tác GDCT cho học viên đào tạo cán bộ hậu
cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần còn bị tác động của tình hình kinh tế - xã hội


18
trong và ngoài Học viện, những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường,
của hội nhập quốc tế, làm ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của đối tượng, ảnh
hưởng đến chất lượng GDCT cho học viên. Một số học viên thi tuyển vào Học viện
với mục tiêu chưa rõ ràng, động cơ chưa đúng đắn. Có học viên chấp nhận thi vào

trường quân đội theo sự hướng dẫn, động viên của gia đình, bạn bè và người thân,
hoặc vì lý do giảm bớt gánh nặng kinh tế của gia đình chứ khơng hồn tồn là vì
mục tiêu, trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc, với qn đội. Khơng ít học viên có tư
tưởng lựa chọn ngành nghề, thường chọn vào các khoa Tài chính, Xăng dầu mà
học viên nghĩ là ngành có thể mang lại thu nhập cao.
Vị trí đóng qn của Học viện Hậu cần nằm giữa Thủ đô Hà Nội, trung tâm
kinh tế, văn hóa, đối ngoại của cả nước. Bên cạnh những giá trị văn hóa và thành
tựu kinh tế- xã hội của trung tâm Thủ đô mang lại, những tác động của mặt trái, các
quan hệ xã hội phức tạp, hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội, lối sống không lành
mạnh cũng tác động lớn, là thách thức không nhỏ đến quá trình đào tạo cán bộ cấp
phân đội ở Học viện Hậu cần, nhất là đối với học viên lần đầu sống trong mơi
trường thành phố, ít trải qua thử thách, rèn luyện trong môi trường quân đội, chưa
đủ bản lĩnh sống thì càng dễ bị tác động. Nhận biết rõ đặc điểm này sẽ giúp cho chủ
thể GDCT biết tổ chức hình thức, phương pháp phù hợp để nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác GDCT.
- Đặc điểm về năng lực đào tạo, chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên
phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động GDCT
Học viện Hậu cần có truyền thống hơn 62 năm đào tạo cán bộ hậu cần. Trải
qua quá trình xây dựng và phát triển, Học viện đã có hệ thống các cơ quan vững
mạnh, đội ngũ cán bộ giảng viên đủ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và
quân đội giao cho. Tham gia vào q trình GDCT tại Học viện có nhiều lực lượng,
trong đó có đội ngũ giảng viên giảng dạy các mơn KHXH & NV của 2 khoa (Lý
luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Khoa Cơng tác Đảng, cơng tác Chính trị)
có trình độ chun mơn tốt và kinh nghiệm giảng dạy. Về trình độ: 100% giảng viên


19
có trình độ đại học, trong đó sau đại học 70%, tiến sĩ 16%, 2 phó giáo sư. Đội ngũ
cán bộ quản lý học viên 100% trình độ đại học. Đội ngũ cán bộ tiểu đồn cơ bản có
kinh nghiệm công tác, đã trải qua công tác quản lý và đào tạo cấp trung, sư đoàn.

Tuy nhiên cán bộ quản lý học viên và một bộ phận giảng viên có tuổi đời cịn
trẻ, kinh nghiệm thực tiễn cơng tác hậu cần chưa nhiều, kiến thức lý luận chính trị
chưa thật phong phú, nhiều đồng chí vừa tốt nghiệp ra trường đã tham gia cơng tác
quản lý, giảng dạy, do đó còn lúng túng, bỡ ngỡ trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ
và GDCT cho học viên.
Hệ thống giảng đường cơ sở vật chất thiết bị của Học viện đang được đầu tư
khá hiện đại, thư viện của Học viện đã có hệ thống tra cứu tài liệu và số hóa các tài
liệu thuận tiện cho việc tra cứu và đọc sách, hệ thống mạng LAN, INTRANET khá
đầy đủ, mạng internet đã trang bị tới tiểu đoàn, giảng đường đã được quan tâm đầu
tư với trang thiết bị ngày càng hiện đại. Đã có 70% phịng học được trang bị máy
tính và máy chiếu, phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật mô
phỏng trong giảng dạy.
Ở các tiểu đồn quản lý học viên, các phịng Hồ Chí Minh đã được trang bị
đầy đủ các thiết bị trang âm, sách, báo tham khảo, tài liệu nghiên cứu theo đúng
Thơng tư 24. Đội chiếu phim, nhà văn hóa câu lạc bộ, nhà truyền thống cũng được
nâng cấp, sửa chữa củng cố và hồn thiện góp phần tham gia tích cực vào quá trình
GDCT tại đơn vị với nội dung, hình thức phong phú.
- Đặc điểm tổ chức biên chế, hệ thống cơ quan tiến hành công tác GDCT.
Bộ máy tổ chức quản lý, lãnh đạo của Học viện Hậu cần rất chặt chẽ. Cơ
quan lãnh đạo, quản lý cao nhất ở Học viện Hậu cần là Đảng uỷ và Ban Giám đốc.
Trực thuộc Ban Giám đốc là các phòng, ban chức năng, các khoa, bộ mơn, các hệ,
tiểu đồn, đại đội, lớp. Các tiểu đoàn quản lý học viên thành lập tổ chức đảng cơ sở
hai cấp gồm đảng bộ tiểu đoàn và các chi bộ trực thuộc ở đại đội học viên. Về tổ
chức đoàn, các tiểu đoàn quản lý học viên thành lập tổ chức đoàn cơ sở ba cấp gồm
đoàn cơ sở tiểu đoàn, liên chi đoàn ở đại đội và các chi đoàn ở các lớp học viên. Với
hệ thống tổ chức chặt chẽ như vậy sẽ rất thuận lợi cho công tác quản lý, giáo dục tư


20
tưởng, chính trị cho học viên. Tồn Đảng bộ, Ban Giám đốc Học viện và các cơ

quan chức năng đều quan tâm tiến hành CTĐ, CTCT. Đây là nhiệm vụ chính trị
quan trọng của cấp uỷ, của chỉ huy ở Học viện Hậu cần.
1.1.2.2. Giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội quan niệm, nội dung, hình thức, phương pháp
Quan niệm về GDCT và GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội
Theo cách hiểu chung nhất, về bản chất, giáo dục là “hoạt động nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng
nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra”. [80, tr.379]. Giáo dục được hiểu theo nhiều cấp độ khác nhau, trong
đó cơng tác tư tưởng tiếp cận giáo dục dưới góc độ là một hoạt động có mục đích
của xã hội và các lực lượng giáo dục, tác động có kế hoạch, có hệ thống đến con
người để hình thành những phẩm chất nhân cách. Giáo dục có nội dung phong phú
như: thế giới quan khoa học, chính trị - tư tưởng, đạo đức, kinh tế, thẩm mỹ, pháp
luật, lao động, quân sự... Trong đó, giáo dục chính trị là nội dung giáo dục chủ đạo
và có vị trí đặc biệt quan trọng nhằm xây dựng các phẩm chất quy định bản chất xã
hội, bản chất giai cấp cho đối tượng giáo dục [64, tr.316].
Theo chính trị học, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp; là vấn đề quyền
lực của giai cấp này đối với giai cấp khác; là sự tham gia của nhân dân vào các
công việc của nhà nước; là tổng hợp những hình thức, phương pháp, hoạt động
thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái để giành, giữ và điều khiển hoạt động của
nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Thơng thường, chính trị được
nhận diện ở hai giác độ chủ yếu. Căn cứ vào những hình thức biểu hiện của chính
trị, gồm: tư tưởng, học thuyết, cương lĩnh, đường lối của chính đảng, chính sách
của nhà nước, người ta xem chính trị là sản phẩm trực tiếp của tư duy, thuộc về lĩnh
vực tư tưởng tinh thần. Ở giác độ khác, chính trị được xem là dạng hoạt động vật
chất đặc biệt của chủ thể chính trị nhằm theo đuổi và thoả mãn lợi ích, mà trước hết
là lợi ích kinh tế. Đó là những hoạt động nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực nhà


21
nước, hoạt động kiến tạo hệ thống chính trị nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp

cầm quyền [26, tr.10-11].
Với cách tiếp cận như trên, bản chất của GDCT là q trình tác động có mục
đích, có hệ thống của một đảng, một giai cấp, một tổ chức nhằm truyền bá hệ tư
tưởng, đường lối chính trị vào quần chúng nhân dân, để hệ tư tưởng đó trở thành
hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống xã hội. Dưới chủ nghĩa xã hội, GDCT hướng
vào xây dựng lý tưởng, niềm tin, thế giới quan khoa học, là quá trình truyền bá
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của đảng cộng sản cầm quyền đối với nhân
dân lao động nhằm duy trì quyền lực của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động,
bảo đảm cho thắng lợi của XHCN.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, GDCT được coi là một bộ phận rất quan
của công tác tư tưởng của Đảng, có chức năng chủ yếu là trang bị cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân một hệ thống những kiến thức về lĩnh vực chính trị
của đời sống xã hội. Mục đích của cơng tác GDCT là hướng vào xây dựng thế giới
quan khoa học, niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng và sự lãnh đạo của Đảng; rèn luyện
bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống; đấu tranh với những tư tưởng
phản động, xét lại; thúc đẩy tính tích cực, tự giác của quần chúng tham gia vào các
phong trào hành động cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng con người mới, nền
văn hoá mới ở nước ta hiện nay, GDCT là một hoạt động cơ bản để hình thành văn
hố chính trị cho nhân dân lao động. Ở cấp độ cá nhân, văn hố chính trị bao gồm
các yếu tố cơ bản là: tri thức chính trị, niềm tin chính trị và tính tích cực chính trị xã hội, trong đó hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi [24, tr.170-193].
Từ sự phân tích nêu trên, có thể quan niệm GDCT của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một bộ phận của công tác tư tưởng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật Nhà nước, các tri thức và giá trị chính trị của nhân loại, những truyền thống
của dân tộc…để nâng cao nhận thức chính trị, hình thành niềm tin và cổ vũ tính
tích cực chính trị - xã hội của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.


22
Với nghĩa đó, khái niệm GDCT có ngoại diên khá rộng, nó bao hàm cả cơng

tác GDCT tập trung theo trường lớp và các hoạt động GDCT thường xuyên, không
tập trung như: sinh hoạt của các tổ chức, các phương tiện thông tin đại chúng,
phong trào thi đua, các cuộc vận động…
GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội là GDCT cho một đối
tượng cụ thể, hoạt động trong môi trường quân sự. Từ khái niệm nêu trên, có thể
quan niệm: Giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học
viện Hậu cần là toàn bộ các hoạt động nhằm nâng cao trình độ giác ngộ chính trị,
xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, hình thành niềm tin cộng sản,
bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ hậu cần cấp phân đội, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Chủ thể của hoạt động GDCT là Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là cấp
uỷ, các cơ quan chức năng của các cấp uỷ Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, cán
bộ, đảng viên và những người trực tiếp làm công tác tư tưởng. Đối tượng của
GDCT là cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân.
Ở Học viện Hậu cần, chủ thể tiến hành giáo dục chính trị cho học viên cấp
phân đội là một hệ thống rất đa dạng và được tổ chức rất chặt chẽ. Bao gồm Đảng
uỷ, Ban Giám đốc, cơ quan chính trị, cơ quan đào tạo. Chủ thể trực tiếp lãnh đạo và
tổ chức thực hiện là cấp uỷ, chỉ huy các hệ, tiểu đoàn, lớp, đại đội học viên; các
khoa và đội ngũ giảng viên KHXH&NV; cán bộ quản lý học viên, nòng cốt là cán
bộ chính trị. Chủ thể tham gia là Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; các
khoa quân sự, khoa học cơ bản, các khoa chuyên môn nghiệp vụ; các cơ quan chức
năng và toàn thể cán bộ, giảng viên, đảng viên, đoàn viên…
Học viên là đối tượng nhưng cũng là chủ thể GDCT bởi họ là chủ thể nhận
thức của q trình giáo dục. Trong mỗi học viên ln diễn ra quá trình đấu tranh
giữa cái cũ với cái mới, cái tích cực với cái tiêu cực, cái đã thành thói quen với cái
mới đang được thiết lập. Trong tập thể học viên có sự giáo dục của học viên cấp
trung, sư đoàn với học viên cấp phân đội, sự đấu tranh giữa các thành viên tích cực
với những thành viên chậm tiến, thụ động thờ ơ với chính trị.



23
Nội dung của GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu
cần gồm giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tình hình nhiệm vụ cách
mạng, nhiệm vụ quân sự quốc phòng, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị; giáo dục
làm rõ đối tượng, đối tác, bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, tinh
thần cảnh giác cách mạng; giáo dục chủ nghĩa yêu nước XHCN, lịch sử, truyền thống,
bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng, của giai cấp, của quân đội, của đơn vị và địa
phương; giáo dục pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, chuẩn mực về phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống; đồng thời trang bị những kiến thức cần thiết về kinh tế,
khoa học, văn hóa xã hội, hình thành nhân cách người qn nhân cách mạng.
Mục đích của GDCT cho học viên là nhằm nâng cao nhận thức chính trị, xây
dựng niềm tin chính trị, bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực hoạt động thực hiện
nhiệm vụ của người cán bộ hậu cần cấp phân đội. Đối với mỗi học viên, GDCT
cung cấp tri thức, xây dựng niềm tin đối với Đảng và công cuộc đổi mới, vào sức
mạnh chiến thắng của quân đội, cổ vũ tinh thần tích cực, tự giác học tập, rèn luyện
để trở thành người sĩ quan, cán bộ hậu cần ưu tú. Chỉ thị 124-CT/QUTW của
Thường vụ Quân uỷ Trung ương ban hành năm 2011 khẳng định “…cơng tác giáo
dục chính trị là nội dung trọng tâm, là phương thức cơ bản xây dựng bản lĩnh
chính trị, niềm tin; là phương pháp cách mạng của Đảng, xây dựng nhân tố chính
trị, tinh thần; là một khoa học, một nghệ thuật…” [48, tr.2].
Hình thức GDCT trong học viên đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội rất
phong phú, biểu hiện ở hai loại hình hoạt động chính là GDCT chính khố theo
chương trình đào tạo và GDCT thường xun tại đơn vị. Các hình thức giáo dục
chính khố gồm: lên lớp, thảo luận, tham quan, ơn tập, kiểm tra… Các hình thức
GDCT tại đơn vị rất đa dạng, bao gồm: học tập chính trị theo chương trình huấn
luyện hàng năm do Tổng cục Chính trị quy định; sinh hoạt chính trị, tư tưởng;
thơng báo thời sự, chính sách; ngày chính trị và văn hố tinh thần; đọc báo, nghe
đài, xem truyền hình; thơng qua các hoạt động thực hiện nhiệm vụ, các phong trào



24
thi đua, các cuộc vận động, kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, của Đảng, quân
đội, đơn vị; các hoạt động văn hoá, văn nghệ, vui chơi giải trí, giao lưu …
Phương pháp GDCT bao gồm: thuyết phục, tự phê bình và phê bình, nêu
gương, đối thoại, tranh luận; tổ chức hoạt động rèn luyện, tạo tình huống giáo dục,
thi đua, khen thưởng, xử phạt…
GDCT sử dụng toàn bộ các phương tiện, cơ sở vật chất của công tác tư tưởng,
như: Phịng Hồ Chí Minh, thư viện, nhà truyền thống, hội trường, các phương tiện
nghe nhìn, máy ảnh, máy chiếu phim, pa nơ, áp phích, khẩu hiệu…
Là một bộ phận của CTĐ, CTCT và là một hoạt động cụ thể của công tác tư
tưởng trong quân đội, GDCT tiến hành theo các nguyên tắc, phương châm của
CTĐ, CTCT và của công tác tư tưởng.
1.2. CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TRONG ĐÀO TẠO CÁN BỘ HẬU
CẦN CẤP PHÂN ĐỘI Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN

1.2.1. Quan niệm, tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục chính trị trong
đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần
1.2.1.1. Quan niệm chất lượng giáo dục chính trị trong đào tạo cán bộ hậu
cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần
Theo quan niệm thông thường, chất lượng được hiểu, là “cái tạo nên phẩm
chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc.” [80, tr.139]
Tiếp cận quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin, mọi sự vật,
q trình đều có chất lượng. Chất là tính quy định, là tổng hợp hữu cơ những thuộc
tính để khẳng định bản chất sự vật, hiện tượng và phân biệt nó với sự vật, hiện
tượng khác. Lượng là tính quy định về qui mơ lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp,
số lượng ít hay nhiều để làm rõ chất của sự vật.
Cách tiếp cận khái niệm chất lượng được đa số các nhà nghiên cứu đồng tình
là tính phù hợp với mục đích, hay đạt được các mục đích đề ra trước đó. Những
người ủng hộ cách tiếp cận này cho rằng chất lượng khơng có ý nghĩa gì nếu

khơng gắn với mục đích của sản phẩm hay dịch vụ đó. Chất lượng được đánh giá
bởi mức độ mà sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng được mục đích đã tuyên bố. Cách
tiếp cận này cho phép cung cấp một hình mẫu để xác định các tiêu chí mà một sản


25
phẩm hay dịch vụ cần có. Nó là một khái niệm động, phát triển theo thời gian, tuỳ
thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tuỳ thuộc vào đặc thù của
từng loại trường và có thể sử dụng để phân tích chất lượng giáo dục đại học ở các
cấp độ khác nhau. Ví dụ, nếu mục đích của giáo dục, đào tạo là cung cấp nguồn
nhân lực cho xã hội thì chất lượng ở đây sẽ được xem là mức độ đáp ứng của sinh
viên tốt nghiệp đối với thị trường lao động cả về số lượng và loại hình. Cịn nếu để
xét chất lượng về một khố học nào đó thì chất lượng sẽ được xem xét trên góc độ
là khối lượng, kiến thức, kỹ năng, mà khoá học đã cung cấp, mức độ nắm, sử dụng
các kiến thức và kỹ năng của sinh viên sau khoá học v.v.
Trên thực tế, việc xác định tiêu chí đánh giá chất lượng trong GDCT ln là
một vấn đề khó bởi tính trừu tượng dẫn đến sự khó khăn trong lượng hóa các yếu tố
của tư tưởng con người. Tuy nhiên về mặt phương pháp luận, có thể hình dung chất
lượng của GDCT thơng qua xem xét chất lượng chính trị của sản phẩm đào tạo. Chất
lượng sản phẩm đào tạo là chỉ số tốt nhất để đánh giá chất lượng GDCT trong đào
tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần. Song cần phải thống nhất quan
niệm về sản phẩm đào tạo và các tiêu chí đánh giá chất lượng sản phẩm đào tạo.
Theo quan điểm trên, người cán bộ hậu cần cấp phân đội có thể được quan
niệm là sản phẩm cuối cùng của quá trình đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội.
Nghĩa là người cán bộ hậu cần tốt nghiệp ra trường. Hoặc cũng có thể được quan
niệm là sản phẩm của từng giai đoạn giáo dục trong quá trình đào tạo cán bộ hậu
cần cấp phân đội, nghĩa là sự biến đổi của học viên dần đạt đến mục tiêu đào tạo.
Cách thứ nhất giúp ta đánh giá mức độ đạt được mục tiêu đào tạo một cách tổng
hợp. Cách thứ hai, cho ta hiểu biết chi tiết q trình đạt đến mục tiêu đào tạo để
có thể có những tác động kịp thời vào từng giai đoạn, hoặc từng lĩnh vực của hoạt

động GDCT trong đào tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội. Chúng tôi tiếp cận sản
phẩm đào tạo như một quá trình hình thành, phát triển nhân cách người cán bộ
hậu cần chứ không phải thời điểm ra trường.
Với cách tiếp cận trên có thể nêu khái niệm chất lượng GDCT trong đào
tạo cán bộ hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần như sau: Chất lượng GDCT


×