Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tieu luan tot nghiep thuc hien chinh sach xa hoi thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã long sơn, huyện sơn động giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.62 KB, 48 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước thực chất là một quá
trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với
thực tiễn Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về bản chất chế độ xã hội
chủ nghĩa, là thực hiện mong muốn “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”.
Thực hiện lời di huấn của người: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công
bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Do vậy, chính sách xã hội
giữ vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và
Nhà nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động
lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng các chính sách xã hội vì
mục tiêu làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”,
bản thân là một cán bộ đảng viên, một công dân đang sống trong chế độ xã hội
chủ nghĩa, được hưởng thụ những chính sách của Đảng và Nhà nước. Tôi rất
vinh dự và tự hào vì Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù
hợp với điều kiện xã hội qua các thời kỳ.

1


Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi Đảng phải đề ra các
chính sách xã hội đúng và phù hợp với thực tế. Bởi vì, thực tiễn cho thấy trong
quá trình triển khai thực hiện một số chính sách xã hội như chính sách người có
công, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm... còn gặp nhiều khó khăn và bất
cập là thực trạng chung đòi hỏi Đảng và Nhà nước cũng như mỗi cán bộ đảng
viên cần quan tâm nhiều hơn nữa đến chính sách xã hội.
Xã Long Sơn là một đơn vị xa trung tâm huyện. Việc thực hiện các chính


sách xã hội ở xã Long Sơn trong những năm gần đây, tuy có nhiều tiến bộ và kết
quả đáng kể song vẫn gặp không ít khó khăn, một số chính sách xã hội trở thành
vấn đề bức xúc của địa phương cần phải có những giải pháp thiết thực để giải
quyết có hiệu quả cho nhân dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá chung thực
trạng việc thực hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm
thực hiện tốt chính sách xã hội ở xã Long Sơn vừa có ý nghĩa lý luận và là vấn
đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng, phương
hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện
Sơn Động giai đoạn hiện nay” với mong muốn được ứng dụng những kiến thức
đã học góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp và văn minh.

2


2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài
2.1. Mục đích: Nghiên cứu thực trạng vệc chấp hành và thực hiện chính
sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp
cơ bản thực hiện tốt các chính sách xã hội ở địa phương.
2.2. Nhiệm vụ: Tìm hiểu tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về chính trị xã hội.
- Nghiên cứu thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở
xã Long Sơn trong giai đoạn hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm làm tốt việc tuyên truyền cho cán
bộ, nhân dân chấp hành và thực hiện tốt chính sách xã hội ở địa phương.

3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở
xã Long Sơn qua các năm 2009; 2010; 2011.


4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu, tổng hợp, thống kê, phân tích phỏng
vấn.

3


5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 3 phần lớn sau:

I. Cơ sở lý luận về chính sách xã hội

II. Thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long
Sơn, huyện Sơn Động trong giai đoạn hiện nay.

III. Phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần thực hiện tốt
chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động trong giai đoạn tới.

B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là một bộ phận hữu cơ và giữ
vị trí vai trò đặc biệt trong hệ thống cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhà
chính trị lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, nhà lý luận thiên tài của cách mạng nước
ta. Trong tư tưởng của Người, chính sách xã hội là xây dựng nước Việt Nam
thống nhất, độc lập và hòa bình.

4



Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, mặc dù chính quyền cách
mạng đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợ tóc” Người đã chủ trương đặt
những vấn đề chính sách xã hội gắn liền với chính sách kinh tế lên hàng đầu
thậm chí còn đặt cao hơn cả nhiệm vụ chống ngoại xâm.

Sau này Bác lại nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải
hết sức chăm nom đến đới sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ
có lỗi, nếu dân ốm Đảng và chính phủ có lỗi, nếu dân dốt Đảng và Chính phủ có
lỗi”. Rõ ràng ở đây chính sách xã hội không còn là một sự ban ơn, càng không
phải là thủ đoạn chính trị mị dân, mà là trách nhiệm hàng đầu của Đảng cầm
quyền và Nhà nước trong chế độ mới.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những thập niên qua, Đảng và
Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách xã hội quan trọng hướng tới quần
chúng nhân dân lao động. Những chính sách xã hội đó đã có tác dụng khơi dậy
và phát huy những nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân, làm nên
nhiều kỳ tích anh hùng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.

2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chính sách xã hội:

5


Trong bước chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế mở cửa, đa dạng hóa các
loại hình kinh tế, đất nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức, để khắc
phục nguy cơ tụt hậu, khỏi tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển với những hậu
quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh lâu dài trước đây, đồng thời tạo ra những

nguồn xung lực mới cho sự phát triển, cải thiện từng bươc cuộc sống của nhân
dân, sớm đưa nước ta trở thành một quốc gia phát triển của khu vực và thế giới.
Chính sách xã hội cần đưa ra những định hướng toàn diện và đúng đắn. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ:
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ
sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi công dân,
kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật
chất với đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích
lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.

Từ phương hướng chung trên Đảng ta đã đề ra một số quan điểm cơ bản
trong trong quá trình triển khai thực hiện chính sách xã hội:

Một là; Có chính sách xã hội là hệ thống công cụ tác động một cách toàn
diện, bao trùm lên tất cả cac mặt đời sống xã hội. Trong thực tại xã hội, không
một lĩnh vực nào mà chính sách xã hội lại không bao quát tới. Từ quan điểm này

6


đòi hỏi việc đề ra chính sách xã hội cũng như thực hiện chính sách xã hội phải
gắn bó, thống nhất với các hệ thống chính sách khác như chính sách kinh tế,
chính sách văn hóa, chính sách ngoại giao, chính sách dân tộc, tôn giáo, dân số...
Kinh tế và văn hóa là hai lĩnh vực khác nhau, song không tách rời nhau mà
gắn bó mật thiết với nhau, đan xen vào nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau, tác
động lẫn nhau. Trong mối quan hệ này, những mục tiêu xã hội trở thành mục tiêu
động lực của các hoạt động kinh tế. Ngược lại, sự phát triển kinh tế là tiền đề và
điều kiện vật chất cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quôc lần thứ VI đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát

triển”. Trên một tinh thần như thế chính sách xã hộ cần phải được đặt vào vị trí
trung tâm trong mọi hoạt động chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Điều đáng chú
ý là chính sách xã hội không được lạc hậu hơn so với sự phát triển kinh tế. Mặt
khác phải khắc phục xu hướng phát triển kinh tế đơn thuần, chỉ thuần túy vì mục
tiêu lợi nhuận, bất chấp những nhu cầu đòi hỏi và những mục tiêu xã hội khác.

Văn hóa, khoa học, giáo dục đào tạo là những lĩnh vực cần có chính sách
cụ thể riêng, nhưng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với lĩnh vực kinh tế. Trong
thời đại khoa học công nghệ và giao lưu văn hóa- xã hội rộng rãi như hiện nay,
muốn có nhịp điệu phát triển kinh tế cao cần phải có sự phát triển tương xứng về

7


trình độ văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Phát triển khoa học
giáo dục và đào tạo chính là phát triển nguồn lực của mọi nguồn lực. Đầu tư vào
lĩnh vực này chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Đó là đầu tư cơ bản tất yếu
“có lãi” một cách lâu bền nhất. Tất nhiên trong khi cần thiết phải phổ cập tiểu
học, trung học co sở, trẻ mầm non 5 tuổi cho toàn xã hội, tạo ra mặt bằng dân trí
tương đối đồng đều giữa các vùng miền trong nhân dân.

Chính trị xã hội về văn hóa- khoa học- giáo dục đào tạo gắn bó chặt chẽ
với tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Tuy nhiên trong khi đưa ra hệ thống chính
sách xã hội nhằm tranh thủ thời cơ, đi tắt đón đầu sự phát triển khoa học và công
nghệ hiện đại của thế giới, thì điều quan trọng cũng phải tính đến những đặc
trưng, đặc điểm của dân tộc. Cần tranh thủ vận dụng chớp mọi cơ may, mở rộng
hợp tác, mạnh dạn trong hội nhập, hòa nhập thích nghi một cách nhạy cảm với
thời cuộc song phải quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Trong việc giải
quyết các vấn đề giai cấp dân tộc, tôn giáo... đều có những nội dung kinh tế, văn
hóa- xã hội, nên mỗi vấn đề trên cần có chính sách cụ thể riêng. Tuy nhiên, chính

sách xã hội sẽ tác động chung vào những lĩnh vực này nhằm góp phần tạo ra sự
công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi công dân, tạo ra sự
thống nhất, đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo ở các vùng
miền; xây dựng và hoàn thiện cơ cấu xã hội mới, tạo ra sự ổn định xã hội cũng

8


như phát huy tối đa tính tích cực và năng động xã hội cho mọi thành viên trong
xa hội.

Hai là; Coi việc xây dựng chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội
là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn dân. Văn kiện
Đại hội X đã khẳng định: “Xây dựng hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng
dịch vụ công cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo
được đáp ứng nhu cầu về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóathông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm... Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa
dạng; phát triển mạnh mẽ hệ thống bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn
dân. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và
phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe...”. Chính sách xã hội bao quát toàn bộ những hoạt động rộng lớn, phong
phú, đa dạng của con người nhằm phục vụ cho con người. Vì vậy, trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện cũng như thực hiện chính sách cần thiết phải thu hút
sự đóng góp, tham gia thực hiện của tất cả các thành viên trong xã hội. Nhà nước
cần đề ra chính sách cụ thể phù hợp với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm
xã hội củ thể. Chính quyền các cấp và các tổ chức xã hội cần tổ chức thực hiện
nghiêm chỉnh chính sách xã hội. Mọi cá nhân tích cực tham gia thực thi, chấp

9



hành chính sách, đồng thời đóng góp, đề xuất, kiến nghị lên cơ quan cấp trên
nhằm bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện chính sách.

Ba là; Cần phải tiến hành một cách đồng bộ chính sách xã hội, song không
dàn trải mà phải tập trung ưu tiên vào một số những vấn đề xã hội có tính chiến
lược cũng như những vấn đề xã hội cấp bách nổi trội lên trong mỗi giai đoạn.
Việc nghiên cứu, khảo sát, xác định và lựa chọn cho trúng các chính sách
xã hội cấp bách hàng đầu thích ứng với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm
xã hội trong sự thống nhất biện chứng với các chính sách cơ bản khác là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược cho cả một thời kỳ lâu dài, là một nhiệm vụ hết sức khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải đầu tư và tập trung xây dựng
một cách đúng đắn.

Bốn là; Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng
góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua
phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của
người lao động. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm giàu hợp
pháp, đồng thời quan tâm một cách thích đáng tới người nghèo, rủi ro, người gặp
khó khăn. Làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa với người có công với cách mạng

10


cũng như phát huy truyền thống uống nước nhơ nguồn, thủy chung, nhân nghĩa
của dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Kết hợp
các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực,
địa phương; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển
kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh

mẽ và bền vững hơn cho cho phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung giải quyết
những vấn đề xã hội bưc xúc...”.

3. Bản chất, nụi dung của chính sách xã hội
3.1. Bản chất của chính sách xã hội
Chính sách xã hội được hình thành từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và đã
được phát triển, biến đổi qua nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử.

Ở mỗi quốc gia khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau, có những hình
thức và loại chính xã hội khác nhau, cũng như có những quan niệm và định
nghĩa khác nhau về chính sách xã hội. Ở nước ta, chính sách xã hội được hiểu là
hệ thống công cụ tác động vào con người, vào các tổ chức đoàn thể xã hội nhằm
điều hòa các hành vi, lợi ích của các nhóm xã hội, góp phần thực hiện công bằng,

11


bình đằng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người, đảm bảo sự phát triển
bền vững.

Xuất phát từ quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực,
vừa là trung tâm của mọi sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sang tạo mọi giá trị
vật chất và tinh thần cho xã hội, chính sách xã hội cần phải tác động một cách
toàn diện vào tất cả các mặt của đời sống con người, nhằm phát huy mạnh mẽ
nhân tố con người. Theo Mác: “Trong tính hiện thực của mình, bản chất con
người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Do đó, chính sách xã hội cần phải
tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư
tưởng, giáo dục nhằm phát triển cân đối, toàn diện cho mỗi cá nhân cũng như
toàn xã hội. Dù biểu hiện dưới nhiều hình thức văn bản, nội dung khác nhau,
song về bản chất, chính sách xã hội luôn hướng vào những hoạt động nhằm điều

hòa các mâu thuẫn, xung đột, giảm bớt các bất công, căng thẳng xã hội, góp phần
cân đối thu nhập, giải quyết việc làm, phân phối lại lợi ích, tạo ra sự công bằng
hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ, khuyến khích người có nhiệt tình, tài năng,
giúp đỡ người nghèo khó, rủi ro không may trong cuộc sống, đảm bảo an ninh,
an toàn xã hội cũng như quyền tự do công dân và sức khỏe, hạnh phúc cho con
người.

12


3.2. Nội dung của chính sách xã hội
Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của chính sách xã hội, song
cho đến nay đa số các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng, chính sách xã hội
không chỉ giới hạn trong một số vấn đề như bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội,
phúc lợi xã hội mà phải có nội dung hết sức rộng lớn. Báo cáo Chính trị tại Đại
hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX và X đều chỉ rõ: “Chính sách xã hội bao trùm
mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và
văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc...”.

Có rất nhiều loại chính sách xã hội, song có thể khái quát lại một số nhóm
chính sách sau đây:

Thứ nhất; Hệ thống chính sách xã hội nhằm tác động điều chỉnh cơ bản xã
hội
Theo quan điểm tiếp cận khoa học mới hiện nay, chính sách xã hội cần
phải tác động một cách đồng bộ, hài hòa và thích hợp vào tổng thể các phân hệ
cơ cấu xã hội bao gồm: cơ cấu xã hội- giai cấp, cơ cấu xã hội- nghề nghiệp, cơ
cấu xã hội- dân số, cơ cấu xã hội lãnh thổ, cơ cấu xã hội- dân tộc...

13



Trong khi tác động vào các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản, hệ thống chính
sách xã hội cần tạo ra sự thống nhất giữa tính ổn định và tính năng động xã hội,
vừa góp phần giảm bớt những xung đột và sai lệch xã hội, vừa tạo ra tính tích
cực xá hội và những yếu tố cần thiết cho sự cân bằng, ổn định và phát triển bền
vững trong xã hội. Vạch ra một hệ thống các chính sách xã hội nhằm tác động
một cách tích cực, hiệu quả vào các quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc để từ đó
góp phần phát huy mạnh mẽ hơn nữa nhân tố con người, đó là một trong các
mục tiêu chiến lược của chính sách xã hội hiện nay ở nước ta.

Thứ hai; Hệ thống chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất
Trong hệ thống chính sách này, trước hết phải kể đến nhóm chính sách
nhằm tạo ra nhiều việc làm cũng như những điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất
cho con người lao động. Chính sách xã hội về việc làm hướng tới khẳng định
quyền có việc làm và những hình thức làm việc phù hợp với trình độ, sức khỏe,
năng lực và đặc điểm của từng người lao động. Chính sách xã hội về việc làm
không chủ trương cào bằng xóa nhòa mọi sự khác biệt giữa các thành viên lao
động mà hướng vào việc củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra động
lực nhằm khuyến khích tính tích cực của người lao động, sắp xếp, phân bố, hỗ
trợ hợp lý người lao động.

14


Nhóm chính sách này cùng hướng vào những mục tiêu như an toàn, an
ninh, sức khỏe cho người lao động, giảm bớt những rủi ro, tai nạn trong lao động
hay những thiệt hại do những đổ vỡ không tránh khỏi của một số doanh nghiệp
do nền kinh tế thị trường gây ra.


Thứ ba; Nhóm chính sách tác động vào quá trình tái sản xuất ra con người
(chính sách dân số).
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức một
cách sâu sắc hơn và chú trọng nhiều hơn vào chính sách dân số. Phấn đấu để có
một quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân số hợp lý cũng như mức tăng
dân số phù hợp với trình độ và nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội nước ta trong
những năm tới đây là mục tiêu chiến lược mà nhóm chính sách xã hội về dân số
cần thiết phải có những đóng góp thiết thực vào quá trình này. Trong thời kỳ
chuyển đổi chiến lược từ giai đoạn dân số - kế hoạch hóa gia đình sang thời kỳ
dân số - phát triển; dân số - sức khỏe, sinh sản, từ việc chủ yếu chú trọng vào
công tác thông tin – giáo dục – truyền thống sang chiến lược truyền thông thay
đổi hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược truyền thông thay đổi
hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược quan trọng như chiến lược
dân số Việt Nam (2002-2010); chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản (20052010); Pháp lệnh dân số; mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đòi hỏi Đảng

15


và nhà nước kịp thời sửa đổi, hoàn thiện sớm các chính sách về dân số. Điều đó
nhằm tạo những bước chuyển mới về chất, giải quyết một cách căn bản sức ép
dân số, đi trước, đón đầu được những biến động tiếp theo của dân số, góp phần
nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống, khai thác hơn nữa tiềm năng con người,
trên cơ sở đó thúc đẩy hơn nữa nhịp độ phát triển của đất nước.

Thứ tư; Nhóm chính sách xã hội tác động vào quá trình phân phối và phân
phối lại thu nhập.
Nhóm chính sách này bao gồm một tập hợp các chính sách về tiền lương,
về tiền thưởng, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội
nhằm tạo ra động lực tích cực cho mọi người lao động, tạo ra sự công bằng
tương đối, thực hiện chủ nghĩa nhân đạo cho toàn xã hội. Là một đất nước phải

trải qua hai cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, phải chịu những tổn thất lớn về
người, về của, do đó, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến chính sách đền ơn,
đáp nghĩa cho những người đã hy sinh, đóng góp nhiều cho đất nước. Cần củng
cố, hoàn thiện chế độ, chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Mặt khác, cũng cần có một hệ thống
chính sách khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận kợi cho những người có
tài năng, các nhà khoa học, các nhà quản lý, kinh doanh giỏi để họ có thể phát
huy tối đa năng lực sáng tạo và khả năng cống hiến của mình cho đất nước. Sau

16


cùng là những chính sách hướng vào các lĩnh vực bảo hiểm lao động, bảo hiểm
nghề nghiệp, bảo hiểm kinh doanh, bảo hiểm tài sản, phương tiện vật chất...

Trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là trong thời kỳ mở cửa, hội nhập khu
vực và quốc tế, rất nhiều vấn đề nảy sinh như bảo hiểm tự nguyện, bảo hiểm cho
người Việt Nam lao động ở nước ngoài, bảo hiểm trong quân đội, mở rộng bảo
hiểm sang học sinh, tuổi trẻ học đường... Đó là vấn đề bức xúc mà Đảng, Nhà
nước Việt Nam cần sớm nghiên cứu, tổng kết và ban hành các chính sách mới
nhằm đáp ứng những yêu cầu mà cuộc sống đang đặt ra.

Thứ năm; Nhóm chính sách xã hội về cư trú và nhà ở.
Thực hiện tốt vấn đề tự do cư trú và nhà ở cho nhân dân là một trong
những nhiệm vụ quan trọng, phản ánh một phần bộ mặt nhân đạo của xã hội ta.
Là một quốc gia còn nghèo, đất đai hạn hẹp, lại đang trong thời kỳ chuyển đổi
mạnh mẽ - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhu cầu tự do cư
trú và nhà ở (kể cả ở đô thị và nông thôn) đang là một nhu cầu bức xúc của đông
đảo quần chúng nhân dân. Chính trong bối cảnh này, Đảng và Nhà nước ta cần
hết sức thận trọng, chu đáo và cần có cái nhìn chiến lược, tổng thể, lâu dài trong

quy hoạch xây dựng và phân phối quĩ đất đai, nhà ở. Xây dựng một cách đồng
bộ nhóm chính sách xã hội nhằm giải quyết hợp lý và khoa học vấn đề cư trú,

17


nhà ở là một trong những nhiệm vụ bức xúc trước mắt cũng như lâu dài ở nước
ta.

Thứ sáu; Nhóm chính sách xã hội tác động đến lĩnh vực văn hóa tinh thần
của xã hội.
Con người không chỉ cần được bảo đảm về những điều kiện vật chất, việc
làm... mà còn bảo đảm về những nhu cầu văn hóa tinh thần... Nhóm chính sách
xã hội bao gồm những chính sách về giáo dục, đào tạo, đào tạo lại; các chính
sách nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi về hoạt động văn hóa, văn nghệ, tự
do trao đổi và tiếp nhận, hưởng thụ thông tin, những nhu cầu về sinh hoạt, nghi
ngơi, vui chơi, giải trí...
Nhóm chính sách này có vị trí và vai trò hết sức quan trong, góp phần tạo
ra một xã hội hoàn chỉnh, cân bằng, vận hành một cách hài hòa đồng bộ và ăn
nhịp với nền văn minh nhân loại.

Hiện tại cần chú ý đặc biệt đến chính sách giáo dục. Trong đó chính sách
cho giáo viên, học sinh, nhất là học sinh nghèo, học sinh khó khăn. Đồng thời
chú ý đầu tư cho việc phát triển triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho nhà trường, điều
kiện giảng dạy cho giáo viên. Đây là nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay mà
Đảng và Nhà nước cần quan tâm.

18



II. THỰC TRẠNG VIỆC CHẤP HÀNH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở
XÃ LONG SƠN HUYỆN SƠN ĐỘNG TỈNH BẮC GIANG

1. Vài nét khái quát về địa lí, tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở xã Long Sơn
huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang.

Xã Long Sơn huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang trước và trong kháng chiến
chống thực dân pháp thuộc huyện Hải Chi đặc khu Hồng Quảng (Quảng Ninh),
sau hòa bình lập lại được sát nhập về huyện Sơn Đông tỉnh Bắc Giang. Long Sơn
là vùng quê có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới Đảng bộ và nhân dân xã Long Sơn quyết
tâm phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh đi lên chủ
nghĩa xã hội.

Xã Long Sơn là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Sơn Động, phía đông
giáp với xã Dương Hưu, phía nam giáp với huyện Hoành Bồ - Quảng Ninh, Phía
tây giáp với xã Thanh Luận, Bồng Am, phía bắc giáp với xã An Lạc.

19


Long Sơn là một xã vùng cao có đồi núi đan xen với những cánh đồng và
các khu dân cư; có diện tích đất 6489,14 ha; Trong đó đất ở 52,48 ha, đất nông
nghiệp 438,33 ha, đất lâm nghiệp 5771,43 ha còn lại là hồ ao, song suối và núi
cao; hệ thống giao thông duy nhất có đường quốc lộ 279 chạy từ trung tâm
huyện qua Long Sơn đến Quảng Ninh, Hải Phòng. Năm 1983 chợ Long Sơn
được thành lập, chợ họp theo phiên hàng hóa phong phú đa dạng, các mặt hàng
chủ yếu vận chuyển từ nơi khác đến. Long Sơn là trung tâm kinh tế văn hóa

chính trị lớn thứ ba sau hai thị trấn của huyện; đồng thời Long Sơn là vùng đất
anh hùng giàu truyền thống cách mạng.
Hiện nay xã Long Sơn có 1176 hộ, 5344 nhân khẩu, mật độ dân cư thưa thớt
sống rải rác thành 7 thôn bản và 1 khu phố chủ yếu ven dọc theo hai bên đường
quốc lộ 279, cáo 8 dan tộc anh em. dân tộc kinh là chủ yếu. Nhân dân địa
phương làm nghề nông nghiệp là chính, kết hợp với chăn nuôi gia xúc gia cầm
và phát triển vườn rừng, có một bộ phận vừa làm ruộng kết hợp với buôn bán
nhỏ chiếm 10%, là đơn vị không có nghề truyền thống. Một bộ phận thanh niên
trong độ tuổi 18 đến 30 vào làm công nhân khai thác than cho công ty than Đông
Bắc. Tổng thu nhập hằng năm 17,2 tỉ đồng bình quân 3,2 triệu đồng/ người/ năm;
đời sống của nhân dân tương đối ổn định, kinh tế từng bước có sự gia tăng.

20


Những yếu tố tự nhiên, tình tình chính trị xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho
xã Long Sơn phát triển kinh tế mạnh mẽ. Giá tri sản xuất nông nghiệp chăn nuôi
được tiếp tục duy trì ổn định, diện tích lúa đạt năng xuất cao,đàn gia cần phát
triển, công tác khuyến nông đầu tư ngân sách cho phát triển sản xuất hằng năm
luôn vượt kế hoạch, giá trị thu nhập bình quân trên 1 ha đất gieo trồng đạt và
vượt chỉ tiêu kế hoạch.

Khu vực phát triển công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ
trên địa bàn từng bước được phát triển, tạo việc làm cho lao động tại chỗ, thu
nhập của người dân tăng lên. phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sốn văn
hóa luôn được cấp ủy chính quyền, MTTQ quan tâm chỉ đạo, ngày hội đoàn kiết
toàn dân 18 tháng 11 hằng năm đi vào nền nếp được đông đảo nhân dân tham
gia, tăng thêm đoàn kết, tình cảm gắn bó trong cộng đồng dân cư.

Công tác xã hội hòa giáo dục luôn được duy trì tốt, chương trình phát triển

giáo dục được triển khai thường xuyên và kịp thời, chất lượng giáo dục ở cả ba
cấp học được nâng lên (năm sau cao hơn năm trước) tỉ lệ giáo viên giỏi, học sinh
giỏi, học sinh tốt nghiệp THCS, thi đỗ vào trường THPT đạt tỉ lệ cao nhất nhì
trong huyện, năm học 2010 – 2011 trường THCS xã đạt danh hiệu tiên tiến xuất
sắc cấp tỉnh, trường Tiểu học và Mầm non đạt tiên tiến xuất sắc cấp huyện, cơ sở

21


vật chất luôn được đầu tư tu bổ, trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia năm 2007,
dự kiến trường THCS đạt chuẩn quốc gia năm 2011, trường mầm non vào năm
học tiếp theo.

Công tác an ninh và trật tự an toàn xã hội luôn được duy trì tốt, điều kiện
kinh tế, chính trị xã hội ổn định đã góp phần vào việc chấp hành và thực hiện tốt
chính sách xã hội ở địa phương Long Sơn.

2. Thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn
huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
2.1Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực
Thứ nhất: Lĩnh vực dân số và việc làm:
Thực hiện chính sách dân số gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định dân
số là mục tiêu phấn đấu, là biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân được các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội ở địa
phương đặc biệt quan tâm.

Trong những năm qua, xã Long Sơn đã chấp hành nghiêm túc và triển khai
thực hiện có hiệu quả chính sách dân số và coi đây là nội dung trọng tâm trong
chiến lược phát triển kinh tế văn hoá xã hội của địa phương. Từ trước năm 2000


22


với sự bùng nổ dân số nói chung và ở Long Sơn nói riêng đã ảnh hưởng không
nhỏ đến lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến tình trạng dư thừa lao động và
gia tăng các tệ nạn xã hội nhưng trong những năm gần đây tỉ lệ tăng dân số giảm
đi rõ rệt; năm 2008 là 1,5%, năm 2009 là 1,46%, năm 2010 là 1,38%.

Để có được kết quả trên Đảng ủy, chính quyền, MTTQ, các ngành đoàn thể
đã cùng với cán bộ làm công tác dân số tuyên truyền vận động thực hiện chính
sách dân số bằng nhiều hình thức như: Thông tin trên hệ thống truyền thanh của
xã và các thôn bản về dân số và kế hoạch hóa gia đình, vận động chị em trong độ
tuổi sinh đẻ không vi phạm sinh con thứ ba, thực hiện nuôi con khỏe dạy con
ngoan.

Tổ chức thành lập được 8/8 thôn bản và khu phố có câu lạc bộ không sinh
con thứ ba, hằng tháng tổ chức sinh hoạt tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, sức
khỏe vị thành niên và tác hại của việc dẻ dày, đẻ nhiều; chính sách dân số luôn
được thông tin kịp thời đến người dân để triển khai thực hiện, do vậy trong ba
năm gần đây trên địa bàn xã không có người vi phạm chính sách dân số kế hoạch
hóa gia đình.

23


Vấn đề lao động và việc làm hiện nay là yêu cầu bức xúc của nhân dân địa
phương. Hằng năm sau khi nhận được kế hoạch về công tác lao động và việc làm
của UBND huyện xây dưng, UBND xã Long Sơn tổ chức triển khai kế hoạch
công tác lao động, việc làm tới toàn thể nhân dân trong xã. Năm 2008 tổ chức
được hai hội nghị tư vấn xuất khẩu lao động, dạy nghề có 240 người tham gia;

giải quyết việc làm cho 150 người làm công nhân khai thác than, 50 lao động tại
chỗ, 15 người đi xuất khẩu lao động. Năm 2009 giải quyết được 80 lao động vào
làm tại xí nghiệp than Đông Bắc, 20 lao động vào làm việc tại xí nghiệp may
Sơn Động và hơn 50 lao động tại chỗ. Năm 2010 mở 2 lớp dạy nghề chăn nuôi
thú y có 100 người tham gia đã giả quyết việc làm tại chỗ cho số lao động này.

Thứ hai: Vấn đề xóa đói giảm nghèo.
Tỷ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn xã Long Sơn còn cao chiếm đến 46,9 % số
hộ trong toàn xã so với chuẩn nghèo của chính phủ tại quyết định số
170/2005/QĐ-TTg ngày 8/72005. Đây là vấn đề thách thức không nhỏ đối với sự
phát triển của xã Long Sơn. Vì vậy địa phương đã xác định đây là nhiệm vụ
trọng tâm cần quan tâm thực hiện.

Hằng năm Xã Long Sơn xây dựng kế hoách chỉ đạo rà soát thống kê hộ
nghèo đúng qui trình, đúng mức thu nhập nhà nước qui định, để triển khai các

24


chính sách hỗ trợ tới người nghèo; đồng thời giao chỉ tiêu giảm nghèo tới 8 thôn
bản của địa phương.

Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của xã triển khai kế hoạch điều tra, rà soát,
thống kê hộ nghèo theo đúng qui trình, giải quyết đầy đủ chế độ chính sách cho
người nghèo đảm bảo đúng nguyên tắccông khai dân chủ. Hằng năm xây dựng
phương án giao cho các đoàn thể, thôn bản phụ trách theo dõi định hướng cho
các gia đình triển khai thực hiện các phương án khả thi để phát triển kinh tế gia
đình nhằm vươn lên thoát nghèo.

Thực hiện tốt việc quản lí các đối tượng của chương trình và các dự án,

chính sách giảm nghèo từ năm 2008 đến nay tổng số hộ được vay vốn là 930 hộ
trong đó hộ nghèo là 493 hộ, số học sinh, sinh viên được vay vốn là 290 em,
tổng dư nợ ngân hàng đến tháng 6 năm 2011 là 21,4 tỉ đồng. Số người nghèo
được cấp thẻ BHYT là 493 hộ với tổng số thẻ 2465 thẻ; số hộ cận nghèo được hỗ
trợ 50% tổng số tiền mua thẻ BHYT là 135 hộ.

100 % học sinh Phổ thông và học sinh Mầm non được miễn học phí, 560
học sinh các cấp con người nghèo được hỗ trợ kinh phí học tập với tổng số tiền
682 200 000 đồng / năm học. toàn bộ là vốn là nguồn vốn từ trung ương cấp.

25


×