Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ nhiệm cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý ở các huyện ven biển tỉnh thanh hóa giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.04 KB, 111 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá, mở rộng quan hệ với các nước hội nhập ngày càng sâu hơn với nền kinh
tế thế giới. Nhiệm vụ to lớn và nặng nề ấy đòi hỏi phải huy động toàn diện
các nguồn lực của đất nước, sức lực, trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân, trong
đó,vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định. Đảng lãnh đạo bằng định
ra đường lối, chủ trương, chính sách,... bằng kiểm tra giám sát, bằng vận động
thuyết phục, bằng vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ,đảng viên... và
một phương thức lãnh đạo cực kỳ quan trọng của Đảng ta nữa là công tác tổ
chức cán bộ, xây dựng và bố trí sắp xếp cán bộ trong tồn bộ hệ thống chính
trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, đủ năng lực và phẩm chất, bố trí sắp
xếp đúng người, đúng việc... là một cơng việc to lớn và vô cùng quan trọng
của Đảng. Dân ta thường nói: “cán bộ nào phong trào ấy”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [39, tr.269]; “công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [39, tr.273]. Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: "Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng” [18, tr.66].
Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, nhiều việc, từ phát hiện, tuyển
chọn, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng... đến việc quản lý đánh giá,sử dụng, điều
động, bổ nhiệm cán bộ, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, thực hiện chính sách cán
bộ... Các khâu cơng việc đó liên kết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành một thể thống nhất trong công tác cán bộ, là cơ sở để xây dựng đội ngũ
cán bộ có đủ số lượng và chất lượng cao đáp ứng nhiệm vụ cách mạng. Trong
các khâu đó, việc bổ nhiệm cán bộ vào chức danh lãnh đạo, quản lý có ý


2


nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả và chất lượng
của các khâu công việc khác.
Để cơng tác bổ nhiệm, bố trí sắp xếp cán bộ sát đúng với công việc,
phát huy được năng lực sở trường của cán bộ, điều quan trọng là phải thực
hiện đầy đủ và nhất quán nguyên tắc tập trung dân chủ (TTDC). Tập thể chỉ
quyết định đúng khi phát huy hết tinh thần trách nhiệm của từng thành viên
đồng thời thực sự coi trọng vai trò, quyền hạn của người đứng đầu các tổ
chức, cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ.
Nguyên tắc TTDC trong công tác cán bộ phải được thể chế hóa thành
các quy chế, quy trình, những quy định cụ thể để thực hiện một cách thống
nhất, chặt chẽ, nhất quán... Những nhận xét, kết luận về cán bộ và quy trình
xem xét, bổ nhiệm cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy cơ quan lãnh đạo có thẩm
quyền quyết định, sau khi đã lắng nghe đầy đủ ý kiến của các cơ quan có liên
quan, ý kiến đóng góp của cán bộ, nhân dân và việc tự phê bình, phê bình của
cán bộ, đảng viên. Kết hợp đúng đắn trách nhiệm tập thể với trách nhiệm cá
nhân, mở rộng dân chủ, khơng hình thức.
Trong những năm qua, việc thực hiện các quy chế, quy định, quy trình
về cơng tác cán bộ của Đảng nói chung, trong bổ nhiệm cán bộ nói riêng ở
các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những kết quả quan trọng.
Trong công tác bổ nhiệm, đề bạt cán bộ cơ bản đã phát huy dân chủ, thực hiện
nhiều hình thức công khai lấy ý kiến của cán bộ cấp dưới, của tập thể, của
nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, khắc phục một phần khuyết điểm
trước đây coi công tác cán bộ chỉ là việc riêng của một số người, của cơ quan
tổ chức, đã tạo ra bước tiến bộ đáng kể trong công tác cán bộ.
Bên cạnh những ưu điểm cơ bản đó, cơng tác cán bộ nói chung, bổ
nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ nói riêng cịn bộc lộ những hạn chế, yếu kém.
Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong cơng tác cán bộ có


3

lúc, có nơi chưa nghiêm túc, vẫn cịn khơng ít hiện tượng coi nhẹ việc thực
hiện các quy trình, quy chế, quy định. Vì thế, việc đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân
chủ hoặc dân chủ hình thức; có nhiều trường hợp bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo,
quản lý còn nặng nề về cơ cấu, lúng túng, bị động, có biểu hiện cục bộ, bản
vị, hẹp hịi, định kiến. Có lúc, có nơi bổ nhiệm sai người, sai việc, không phát
huy được sở trường, năng lực cán bộ, dẫn đến cơng việc trì trệ; có trường hợp
cán bộ vi phạm kỷ luật nhưng không kịp thời thay thế. Nhìn chung, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện tại của các huyện mặc dù đã có bước trưởng
thành đáng kể nhưng vẫn cịn khoảng cách khơng nhỏ so với yêu cầu, nhiệm
vụ trước tình hình cách mạng mới hiện nay.
Những yếu kém, khuyết điểm trên có nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan, nhưng nguyên nhân chính là chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ trong công tác bổ nhiệm, đề bạt cán bộ lãnh đạo, quản lý nói
chung, cơng tác bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy
(BTVHU) quản lý nói riêng. Từ những phân tích trên, tác giả lựa chọn đề tài
"Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bổ nhiệm cán bộ diện
Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn hiện nay" để làm luận văn thạc sĩ, với mong muốn góp phần nhỏ bé
vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác cán bộ nói chung, công tác
bổ nhiệm cán bộ của các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về ngun tắc tập
trung dân chủ trong sinh hoạt, hoạt động lãnh đạo của Đảng nói chung và thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong cơng tác cán bộ ở nhiều góc độ khác
nhau. Có thể nêu lên một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề
tài như:


4

- Đề tài khoa học có liên quan:
+ Đề tài khoa học cấp bộ năm 1999: Bảo đảm và phát huy dân chủ
trong chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, PGS, TS. Mạch Quang
Thắng làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2000.
- Các sách xuất bản liên quan đến đề tài:
+ TS. Nguyễn Tiến Phồn: Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và
thực tiễn, Nxb khoa học xã hội, Hà nội, 2001.
+ TS. Phạm Hồng Chương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb Lý
luận Chính trị, Hà Nội, 2004.
+ PGS, TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS, TS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên): Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.
+ PGS, TS. Trương Thị Thông và TS. Lê Kim Việt (đồng chủ biên):
Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải
pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008.
- Các luận văn luận án liên quan
+ Nguyễn Thái Sơn: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2002.
+ Nguyễn Quang Huy: Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Quận ủy Tây Hồ thành phố Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện
nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2006.
+ Trần Văn Thuận: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp quận của
thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2005.


5
+ Trương Thị Bạch Yến: Chuẩn hóa đội ngũ cấp ủy viên quận, huyện

của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Hà Nội, 2008.
+ Lê văn Đủ:Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm
cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý
giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà nội, 2007.
+ Trịnh Đình Châu: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc
bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính
trị, Hà Nội, 2008.
- Các bài viết đăng trên các Tạp chí:
+ Thu Thuỷ - Anh Dũng: Để nâng cao chất lượng cán bộ ngành Tổ
chức xây dựng Đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10, 2006
+ Nguyễn Đức Hạt: Tiếp tục đổi mới cơng tác cán bộ, Tạp chí Cộng
sản, số 776, tháng 6-2007
+ Bùi Đức Lại: Trách nhiệm người đứng đầu trong cơng tác cán bộ,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6, 2007
+ Trần Minh Tuấn: Về thí điểm bổ nhiệm, đề bạt cán bộ sau khi cán bộ
trình đề án, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7, 2007.
+ Nguyễn Thế Tư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 10, 2007
+ Hồ Đức Việt: Quán triệt sâu sắc, thực hiện đúng, thống nhất các quy
chế, quy định về cơng tác cán bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10, 2007
+ Nông Đức Mạnh: Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ công tác tổ
chức xây dựng Đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11, 2007
+ Anh Minh (2008), “Để nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ”, Tạp
chí Cộng sản.


6
+ Phạm Quang Nghị (2004), “Mối quan hệ giữa quy hoạch, đánh giá

với luân chuyển cán bộ”, Tạp chí Cộng sản.
+ Lê Hữu Nghĩa (2004), “Đánh giá cán bộ - khâu quan trọng trong
cơng tác cán bộ”, Tạp chí Cộng sản.
+ Nguyễn Thế Phấn (1999), “Về năng lực tổ chức thực tiễn và uy tín
của người cán bộ lãnh đạo”, Tạp chí Thơng tin lý luận.
+ Vũ Văn Phúc (1999), “Một số vấn đề về cán bộ thời kỳ công nghiệp
hố, hiện đại hố”, Tạp chí Cộng sản.
+ Đức Vượng (2006), “Một trăm năm thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ”, Tạp chí Cộng sản.
Qua việc khảo cứu các đề tài, các sách,các bài viết và các luận văn tốt
nghiệp... trên cho thấy:
- Cơng tác cán bộ nói chung và bổ nhiệm cán bộ nói riêng là nhiệm vụ
cực kỳ quan trọng trong q trình lãnh đạo của Đảng. Bng lỏng cơng tác
cán bộ, sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ không đúng, bổ nhiệm cán bộ không
đảm bảo sẽ không những không phát huy được năng lực của cán bộ, ảnh
hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị mà
cịn nguy hại đến uy tín của Đảng, vai trị lãnh đạo của Đảng.
- Vì cơng tác cán bộ quan trọng như thế và bao gồm rất nhiều khâu, nhiều
cung đoạn cho nên số lượng bài viết, bài nói, luận văn tốt nghiệp khá nhiều nhưng
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách quy mô, hệ thống mà chỉ thường
nghiên cứu một vài nội dung trong công tác cán bộ, nhất là trong cơng tác bổ
nhiêm cán bộ lại càng ít bài viết và có viết thì cũng chưa thật sự chuyên sâu.
- Công tác cán bộ là một thể thống nhất, có tính liên thơng. Việc phân
cấp cán bộ đã được đăt ra và đang thực hiện. Nhưng thực tế cho thấy còn
thiếu sự thống nhất trong việc phân cấp, nơi thế này nơi thế khác, và đang có
xu hướng khép kín, cát cứ. Cán bộ địa phương nào cơng tác ở địa phương ấy,


7
cơ quan nào, ngành nào công tác ở cơ quan ấy, ngành ấy, thiếu tính thống nhất

từ trung ương xuống tận cơ sở. Thiết nghĩ, dù có phân cấp thì cũng nên có
quy định chung tiêu chuẩn cho từng chức danh, từng loại cán bộ. Có như thế
các khâu khác trong công tác cán bộ như phát hiện nguồn, quy hoạch, đào
tạo... mới có cái đích để tổ chức thực hiện.
- Cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán
bộ, quy trình thực hiện cơng tác bổ nhiệm cán bộ cũng không được quy định
một cách thống nhất từ trên xuống dưới, nơi làm cách này, nơi làm cách khác,
chức danh này làm thế này, chức danh kia làm thế khác,... và vì thế, mỗi khi
đề bạt bổ nhiệm một chức danh nào đó xong là dư luận lại bàn tán, ý kiến thế
này, ý kiến thế kia. Tính thống nhất khơng cao và chất lượng bổ nhiệm thực chất
cũng chưa tốt. Nguyên nhân có nhiều nhưng chắc chắn có một nguyên nhân mà
dư luận quan tâm là Đảng lựa chọn bổ nhiệm cán bộ chưa đúng người đúng việc,
chưa thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, biểu hiện ngày càng
nhiều sự nể nang, cục bộ, lợi ích nhóm... Tõ ®ã cã thể khẳng định
rằng, việc thực hiện nghiêm túc nguyờn tc tập trung dân chủ trong bổ
nhiệm cán bộ là hết sc quan trọng trong hoạt động lÃnh đạo của
cp y.
Nhỡn chung, đến nay đã có nhiều các cơng trình nghiên cứu như trên,
các cơng trình đều đã đề cập đến thực trạng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ
diện BTV Huyện ủy quản lý, thực trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong công tác cán bộ... và các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp song chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu
về thực hiện nguyên tắc TTDC trong bổ nhiện cán bộ diện BTVHU quản lý ở
các Huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn đề


8

xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu góp phần thực hiện đúng
nguyên tắc TTDC trong việc bổ nhiệm cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý
ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Đưa ra quan niệm đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy
quản lý; nội dung, hình thức thực hiện nguyên tắc TTDC trong bổ nhiệm cán
bộ diện BTV Huyện ủy quản lý giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc thực hiện nguyên tắc TTDC trong
cơng tác cán bộ nói chung, cơng tác bổ nhiệm cán bộ diện BTVHU quản lý ở
các huyện ven biển của tỉnh Thanh Hóa từ 2005 đến nay, chỉ ra nguyên nhân,
kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu thực hiện tốt nguyên
tắc TTDC trong bổ nhiệm cán bộ diện BTVHU quản lý ở các huyện ven biển
tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện nguyên tắc TTDC
trong việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ thuộc diện BTVHU quản lý.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là 5 huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa
từ 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
nguyên tắc TTDC, đồng thời sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận
thực tiễn, lơgíc - lịch sử, khảo sát thực tiễn, sơ kết, tổng kết, phân tích, so
sánh, tổng hợp...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm


9

góp phần thực hiện đúng nguyên tắc TTDC trong bổ nhiệm cán bộ diện
BTV Huyện ủy quản lý ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG
DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ THUỘC DIỆN BAN
THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ
1.1. CÁC HUYỆN, HUYỆN ỦY VÀ CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ
HUYỆN ỦY QUẢN LÝ Ở CÁC HUYỆN VEN BIỂN TỈNH THANH HÓA

1.1.1. Khái quát về đặc điểm các huyện ven biển tỉnh Thanh Hố
Thanh Hố là một tỉnh phía bắc Trung bộ, có vĩ độ: 19 0 - 35' - 200 - 300,
kinh độ đơng 1040 - 106,300. Diện tích tự nhiên 11.168 km2 và 18.760 km2, bờ
biển dài 102 km, có nhiều cửa lạch (Lạch Sung, Lạch Trào, Lạch Trường,
Lạch Ghép, Lạch Bạng...). Biển Thanh Hố là một kho tài ngun vơ giá về
khống sản, hải sản, danh lam thắng cảnh, có tiềm năng to lớn phát triển các
ngành công nghiệp, khai thác hải sản, du lịch, dịch vụ, có vị trí chiến lược cực
kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thanh Hố có 5 huyện ven biển đó là: Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hoằng
Hố, Hậu Lộc và Nga Sơn.
- Tổng diện tích 5 huyện ven biển Thanh Hố là 813 km 2 (chiếm 22,8%
diện tích tỉnh) với 1.075.363 người (chiếm 25% dân số tỉnh). Các huyện ven
biển có điều kiện tự nhiên, địa hình, thổ nhưỡng phong phú, đa dạng, có vị trí

địa chính trị, kinh tế - xã hội quan trọng của tỉnh, nhất là khi khu kinh tế Nghi
sơn huyện Tĩnh Gia đi vào hoat động. Có huyện bao gồm tồn bộ các đặc
điểm địa lý của tỉnh, như: có đồi núi, trung du, đồng bằng và biển (Tĩnh Gia,
Hậu Lộc, Hoằng Hóa).
- Các huyện ven biển Thanh Hố có lịch sử hình thành, phát triển lâu
đời, có nhiều thành tựu kinh tế, văn hố, có nhiều di tích lịch sử văn hố được
xếp hạng cấp quốc gia, cấp tỉnh. Hệ thống giao thông đường bộ, đường biển,
đường sông phát triển rất thuận lợi cho việc đi lại và phát triển kinh tế.


11
- Nhân dân các huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá có truyền thống đồn
kết, vượt khó khăn, lao động cần cù, sáng tạo, tương thân, tương ái giúp đỡ
lẫn nhau; dũng cảm, kiên cường trong sự nghiệp chống kẻ thù xâm lược.
- Sản xuất kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trong đó chủ yếu là trồng trọt, chăn ni và
đánh bắt thuỷ, hải sản là chủ yếu.
Bên cạnh những thuận lợi về địa kinh tế và chính trị, các huyện ven
biển tỉnh Thanh Hố cũng có nhiều khó khăn, trở ngại:
- Ln phải đối mặt với những khó khăn thử thách do thiên tai, bão lụt,
nắng nóng, khơ hạn kéo dài, xâm thực của nước biển ngày một sâu đã ảnh
hưởng lớn đến sản xuất, nuôi trồng và đời sống nhân dân..
- Số lượng dân cư đơng đúc, trình độ văn hoá của một bộ phận dân
sống bằng nghề khai thác biển còn thấp, việc làm thiếu, lao động dư thừa
nhiều, nhất là lao động nữ. Tỷ lệ hộ nghèo cao, các chính sách xã hội ln là
gánh nặng cho địa phương.
1.1.2. Đặc điểm, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của các đảng bộ
huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
* Đặc điểm của các Đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá
Tương ứng với 5 huyện ven biển tỉnh Thanh Hố có 5 đảng bộ cấp

huyện. Đến nay, 5 đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hố đã có 356 tổ chức
cơ sở đảng, 2.293 chi bộ dưới cơ sở với 48.955 đảng viên.
- Các Đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hố có hệ thống tổ chức từ
huyện đến cơ sở phát triển hồn chỉnh, hoạt động có nề nếp. Về mặt tổ chức,
các đảng bộ được thành lập khá sớm, tập trung trong giai đoạn từ năm 1940
đến 1946. Nhìn chung các đảng bộ đều được thành lập vào thời kỳ trước,
trong cách mạng tháng Tám 1945.
Qua quá trình phát triển, hệ thống tổ chức đảng từ huyện đến cơ sở của
các đảng bộ cấp huyện vùng ven biển tỉnh Thanh Hố thường xun được
kiện tồn, nên hoạt động có nền nếp, thể hiện được vai trị lãnh đạo của mình.


12
- Các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá có đội ngũ cán bộ, đảng
viên đơng đảo, nhiều đảng viên được tôi luyện trong 2 cuộc kháng chiến
chống xâm lược và cuộc chiến đấu chống các thế lực bành trướng, nên có bản
lĩnh chính trị vững vàng, nhưng chủ yếu là nông dân, đặc biệt là nông dân
vùng biển trình độ, năng lực cơng tác hạn chế. Tuổi đời bình quân cao, hơn
50% số đảng viên trên 50 tuổi.
- Từ đặc điểm trên đây và vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh
tuyến biên giới hải đảo, xây dựng đời sống văn hoá, tinh thần đến xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.. là nhiệm vụ hết sức nặng nề của các đảng
bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa.
* Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các đảng bộ huyện ven biển tỉnh
Thanh Hoá
- Các đảng bộ huyện ven biển tỉnh Thanh Hoá là một bộ phận trong hệ
thống tổ chức của Đảng, có vai trị to lớn trong việc lãnh đạo toàn diện các
lĩnh vực và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đặt ra,
giữ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

- Đảng bộ huyện là cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng, đặt
dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, có chức năng lãnh đạo hệ thống chính trị và
nhân dân trong huyện thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy cấp
trên; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng đội
ngũ cán bộ đảng viên đáp ứng yêu cầu, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị
trong thời kỳ cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đảng bộ cấp huyện có nhiệm vụ lãnh đạo tồn diện các mặt hoạt
động trên địa bàn huyện, trong đó, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt các nhiệm
vụ trọng tâm cơ bản sau:


13
+ Lãnh đạo tổ chức cơ sở đảng chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng
bộ, chi bộ và lãnh đạo nhân dân trong huyện thực hiện có hiệu quả các chủ
trương, nhiệm vụ đó.
+ Lãnh đạo xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh trên cả ba
mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
+Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh; lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Liên hệ mật thiết với nhân dân, lãnh đạo tổ chức cơ sở Đảng và cán
bộ, đảng viên ở cơ sở chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích
chính đáng của nhân dân.
+ Lãnh đạo cơng tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cùng với tổ chức cơ sở đảng
kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng của tổ chức đảng và đảng viên.
1.1.3. Quan niệm, vai trò, đặc điểm cán bộ diện Ban Thường vụ

Huyện uỷ quản lý ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa hiện nay
1.1.3.1. Quan niệm về cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý
ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa
Đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Huyện ủy quản lý là những cán bộ chủ
chốt của huyện được Ban Thường vụ trực tiếp quản lý, đề bạt, bổ nhiệm, giới
thiệu ứng cử, bố trí, sắp xếp, điều chuyển, khen thưởng, thi hành kỷ luật và
thực hiện các chính sách khác.
Đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Huyện ủy quản lý gồm các nhóm đối
tượng cụ thể như sau:
Một là: Cán bộ công tác đảng, bao gồm các chức danh: Ủy viên Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện, ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy; Trưởng, Phó


14
các ban đảng, Chánh, Phó Văn phịng Huyện ủy; Giám đốc, Phó giám đốc
Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện; các đồng chí Bí thư, Phó bí thư và Ủy
viên Thường vụ cấp ủy ở các tổ chức đảng trực thuộc Huyện ủy.
Hai là: Cán bộ chính quyền và lãnh đạo, quản lý các cơ quan hành
chính, sự nghiệp bao gồm các chức danh: Phó chủ tịch HĐND, Phó chủ tịch
UBND, Ủy viên thường trực HĐND huyện; Trưởng, Phó phịng, Chánh, Phó
văn phịng UBND huyện; Trưởng, Phó giám đốc Đài truyền thanh huyện;
Giám đốc, Phó giám đốc Trung tâm giáo dục thường xuyên; Chủ tịch, Phó
chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã, thị trấn.
Ba là: Cán bộ mặt trận và các đoàn thể nhân dân bao gồm các chức
danh: Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban MTTQ và Trưởng, Phó các đồn thể
chính trị - xã hội cấp huyện.
1.1.3.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ quản lý ở
các Huyện ven biển Tỉnh Thanh Hóa
Lịch sử đã chứng minh, trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, cán bộ
và công tác cán bộ cũng giữ vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng. Cán bộ là nhân

tố cơ bản, quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Theo C.Mác: Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn. V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai
cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ
của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào” [40, tr.473]. Khi đã giành được chính quyền, lãnh
đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định: Nghiên
cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng
thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta,
luôn khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [39, tr.269] và “Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [39, tr.273].


15
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của mình. Đảng ta ln ý thức hết sức rõ về vai trò, tầm
quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [18, tr.66].
Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, mức độ đúng đắn của đường lối và
việc cụ thể hố đường lối chính xác, kịp thời cũng như việc thực hiện đường
lối, chính sách thắng lợi đều tuỳ thuộc ở chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung,
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị nói
riêng. Vì vậy, văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng nhấn
mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước
hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các
ngành của hệ thống chính trị” [22, tr.293].

Đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ các Huyện ven biển
Tỉnh Thanh Hóa quản lý là những người trực tiếp quán triệt, cụ thể hoá
việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, là lực lượng giữ vai trò nòng cốt, quyết định
trong việc đề ra nhiệm vụ và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
Đảng bộ huyện và cơ sở; đồng thời, có vai trị nịng cốt trong việc xây dựng
hệ thống chính trị từ huyện xuống cơ sở, trong việc giữ gìn sự đồn kết
thống nhất trong nội bộ Đảng và trong nhân dân, là nguồn cán bộ để bổ
sung vào các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh. Muốn vậy, cấp uỷ huyện, nhất
là Ban Thường vụ Huyện uỷ phải làm tốt cơng tác cán bộ, để có được một
đội ngũ cán bộ chất lượng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng của địa
phương và của tỉnh.


16
1.1.3.3. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy
quản lý ở các Huyện ven biển Tỉnh Thanh Hóa
- Đội ngũ cán bộ diện BTV Huyện ủy quản lý có nguồn gốc, thành phần
xuất thân, mơi trường công tác đa dạng, từ nhiều nguồn khác nhau. Đa số
xuất thân từ nông dân và nông thôn, tham gia hoạt động, công tác, chiến đấu
và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến tranh bảo
vệ Tổ Quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một số cán bộ được trưởng thành
từ hoạt động thực tiễn, một số có nguồn gốc từ giai cấp cơng nhân, hoạt động
quản lý kỹ thuật với những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, nhiều cán bộ có
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn nhưng lại khơng có điều kiện học tập qua
trường lớp chính quy, trình độ lý luận, chun mơn còn hạn chế. Tuy vậy, họ
là những người được thừa hưởng truyền thống yêu quê hương, đất nước, cần
cù chịu khó lao động, ln cố gắng tích cực học tập, công tác để vươn lên,
chủ động, sáng tạo trong công việc, có tinh thần tương thân, tương ái, đồn
kết, gắn bó với cộng đồng, gần gũi với quần chúng nhân dân, được quần

chúng tín nhiệm.
- Đội ngũ cán bộ diện BTV Huyện ủy quản lý ở các Huyện ven biển
Tỉnh Thanh Hóa là những người có trình độ hiểu biết về đường lối, chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Là
đội ngũ cán bộ chủ chốt nên họ là những người có kiến thức, kinh nghiệm
hoạt động trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đồn thể, vận động
quần chúng, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước; có năng lực tổ chức, quản lý,
chỉ đạo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; có khả năng chủ trì xây dựng hoặc
thẩm định các đề án, chuyên đề công tác liên quan đến lĩnh vực được phân
công công tác và chỉ đạo hoạt động tại các cơ sở.
- Đội ngũ cán bộ diện BTV Huyện ủy quản lý ở các Huyện ven biển
Tỉnh Thanh Hóa phần đông phải kiêm nhiệm. Đây là điều kiện làm cho vai


17
trò, năng lực của mỗi cán bộ được phát huy tối đa, đồng thời làm cho việc
triển khai các chủ trương chính sách quan trọng của Đảng vào các lĩnh vực cụ
thể thuận lợi. Việc bàn bạc đưa ra các quyết định và tổ chức chỉ đạo thực hiện
các mặt cơng tác trong thực tế có thể được tiến hành nhanh chóng. Nhưng bên
cạnh đó,việc phải kiêm nhiệm nhiều chức vụ đã làm cho cán bộ phải đảm
đương quá nhiều cơng việc, làm nhiều chức năng, khơng có điều kiện đi sâu
sát vào từng vấn đề cụ thể và nhất là khơng có thời gian cần thiết, tham khảo
kinh nghiệm, tham gia học tập để khơng ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về
lý luận, mở rộng tầm nhìn và hoàn thiện kỹ năng lãnh đạo, quản lý.
- Đội ngũ cán bộ diện BTV Huyện ủy quản lý ở các Huyện ven biển
Tỉnh Thanh Hóa hiện nay là đối tượng chủ yếu nằm trong diện điều chỉnh của
chế độ bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử, được Đảng giới thiệu để bầu cử hoặc
bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và
đồn thể nhân dân. Tùy theo chức danh cụ thể, mà mỗi cán bộ được bổ nhiệm,
giới thiệu ứng cử theo yêu cầu. Chế độ điều chỉnh này được thực hiện song

song với việc đánh giá năng lực, phẩm chất, kết quả hoạt động công tác trong
thực tế của mỗi cán bộ và liên quan trực tiếp đến các quyết định bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, chuyển công tác và thi hành kỷ luật.
Trong quá trình thực hiện theo chế độ điều chỉnh này, mỗi cán bộ lãnh
đạo, quản lý diện BTV Huyện ủy quản lý, một mặt chịu sự chi phối trực tiếp
hay gián tiếp bởi thẩm quyền quản lý của BTV Huyện ủy, đồng thời giao cho
cấp ủy địa phương theo dõi một số nhiệm vụ cụ thể. Mặt khác họ cũng phải
chịu sự giám sát, đánh giá, kể cả những ý kiến phản ánh, kiến nghị của các tổ
chức, cơ quan, đơn vị nơi họ hoạt động, cơng tác và chính quyền nơi cư trú
1.1.3.4. Quan niệm về bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện
uỷ quản lý ở các Huyện ven biển Tỉnh Thanh Hóa
Bổ nhiệm thực chất là một từ ghép Hán-Việt giữa từ “Bổ” và từ
“Nhiệm”; “Bổ” nghĩa là bù vào chỗ thiếu, chỗ khuyết, bổ sung người vào


18
cơng việc gì đó hoặc chia cho mọi người đóng góp, cịn “Nhiệm” là uỷ việc
gì: uỷ nhiệm, đảm nhiệm, nhiệm chức. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng
do Nhà xuất bản Thanh Hố ấn hành tháng 6/1998 thì “Bổ nhiệm là cử giữ
một chức vụ trong bộ máy Nhà nước” [58, tr.97]. Như vậy, bổ nhiệm cán bộ
được hiểu là việc cử cán bộ đảm nhận, đảm nhiệm chức vụ nào đó (hoặc uỷ
thác cơng việc, chức vụ đó cho cán bộ đảm nhiệm) trong một tổ chức, cơ
quan, đơn vị nhất định.
Khái niệm bổ nhiệm cán bộ tuy chưa được các nhà kinh điển nghiên
cứu một cách hoàn chỉnh, song cũng đã được đề cập khá nhiều. Theo quan
điểm của V.I.Lênin, công tác cán bộ cần phải bố trí, sử dụng đúng năng lực
của từng cán bộ, phù hợp với vị trí, tính chất của từng cơng việc, nhiệm vụ,
nhất là những cán bộ giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng sản Nga
và Chính quyền Xơ Viết. Với kinh nghiệm, tính nhạy cảm chính trị sâu sắc
của mình, V.I.Lênin hiểu rất rõ trình độ, năng lực và phẩm chất của những cán

bộ do mình đào tạo, bồi dưỡng. Vì vậy, trong lựa chọn, bố trí cán bộ Người
chỉ rõ:
Chú ý tìm cho ra và thử thách một cách hết sức nhẫn nại, hết sức
thận trọng những người thật sự có tài tổ chức, những người có bộ óc
sáng suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa
trung thành với chủ nghĩa xã hội lại vừa có năng lực lặng lẽ (bất
chấp sự hỗn loạn và ồn ào)… Chỉ có những người như thế, chúng ta
mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo lao động của nhân dân, lên
những chức vụ lãnh đạo, quản lý [38, tr.236-237].
Theo V.I.Lênin, công việc như vậy lúc này là hệ trọng nếu không “tất
cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”. Người chỉ ra, chúng ta
chỉ lựa chọn cán bộ phụ trách và ở đây khơng thể có vấn đề khơng tín nhiệm đối
với một người nào đó đã khơng được bầu mà chỉ có vấn đề xem xét việc đó có


19
lợi cho sự nghiệp không và người được lựa chọn có xứng đáng với chức vụ mà
người ấy đảm nhiệm không. Ở đây V.I.Lênin muốn chỉ rõ yêu cầu, mục đích, ý
nghĩa của việc lựa chọn, đề bạt, sử dụng cán bộ trước hết phải từ cơng việc mà
tìm người thích ứng, đủ phẩm chất, năng lực đảm bảo cho cơng việc ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về dùng người, về sử dụng cán
bộ. Người nói: “phải khéo dùng cán bộ”, tức là đặt người đúng việc, vì việc
mà đặt người, chứ khơng phải vì người mà đặt việc. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và
giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì
gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tuỳ chỗ mà dùng được” [39, tr.72]. Cịn thậm chí
nếu người có tài mà khơng biết dùng tài của họ thì cũng khơng được việc.
Trong q trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh rất
xem trọng việc bố trí, sử dụng cán bộ và đòi hỏi cần phải thực hiện đảm bảo
những yêu cầu cụ thể sau: 1) Phải hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ, có như

vậy mới bố trí và sử dụng đúng, tránh được những thiếu sót, sai lầm, mới phát
huy được mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của cán bộ. 2) Phải khéo dùng cán bộ,
phải đặt đúng người, đúng việc, vì việc mà đặt người; khéo dùng cán bộ thể
hiện ở chỗ biết kết hợp các thế hệ, các loại cán bộ một cách đúng đắn; khi
dùng cán bộ phải hết sức khách quan, công tâm, chống tư tưởng địa phương
chủ nghĩa, “óc bè phái, óc hẹp hịi”. 3) Phải “có gan cất nhắc cán bộ”, tức
mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào các cương vị cần thiết để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra. 4) Phải thương yêu cán bộ và tích cực giúp
đỡ cán bộ sửa chữa khuyết điểm, chớ nên thành kiến, xa lánh những cán bộ có
thiếu sót, khuyết điểm. Đây là những quan điểm, chỉ dẫn hết sức độc đáo và
đúng đắn trong cách dùng người, bố trí, sử dụng cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí


20
Minh, Đảng ta có nhiều chủ trương, quan điểm đúng đắn, sáng tạo về công tác
cán bộ, Đảng ta cho rằng: Bổ nhiệm cán bộ là quyết định cử cán bộ giữ một
chức vụ lãnh đạo trong bộ máy tổ chức, thực chất là giao trách nhiệm quyền
hạn cho cán bộ lãnh đạo một ban, một bộ, một ngành, một cơ quan, đơn vị…
Đây là khâu quyết định trong công tác cán bộ.
Khái niệm nêu trên chỉ rõ ba đặc trưng quan trọng của khâu bổ nhiệm
cán bộ:
Thứ nhất, bổ nhiệm là quyết định cử cán bộ giữ một chức vụ lãnh đạo,
quản lý trong cơ cấu tổ chức. Trong một cơ cấu tổ chức có nhiều chức danh
cần sử dụng cán bộ, những cán bộ được bổ nhiệm có nghĩa là được cất nhắc
từ vị trí người bị lãnh đạo, bị quản lý lên vị trí của người lãnh đạo, quản lý
hoặc từ vị trí người lãnh đạo, quản lý cấp thấp lên vị trí người lãnh đạo, quản
lý cấp cao hơn. Chính vì vậy, việc bổ nhiệm cán bộ ln là một động lực tích
cực khuyến khích cán bộ phấn đấu vươn lên.

Thứ hai, những cán bộ được bổ nhiệm lên vị trí mới được trao trách
nhiệm và quyền hạn tương xứng. Bổ nhiệm cán bộ là quyết định trao cho cán
bộ đó một quyền hạn mới, cao hơn cương vị cơng tác hiện tại, đồng thời địi
hỏi cán bộ đó phải phát huy trách nhiệm cá nhân tương xứng với quyền hạn
được trao.
Thứ ba, bổ nhiệm cán bộ giữ vai trị quan trọng có ý nghĩa quyết định
trong cơng tác cán bộ. Là cơng việc mang tính khoa học về tổ chức, độ chính
xác của việc bổ nhiệm cán bộ thể hiện chất lượng, hiệu quả của công tác quản
lý. Bổ nhiệm sai cán bộ sẽ làm cho tổ chức trì trệ, rối loạn, nhiệm vụ bê trễ
khó hồn thành.
- Những trường hợp cần bổ nhiệm cán bộ:
+ Khi có sự thay đổi tổ chức hoặc thay đổi các chức danh lãnh đạo,
quản lý trong tổ chức.


21
+ Những chức danh lãnh đạo, quản lý còn thiếu cần bổ nhiệm cho đủ.
+ Thực hiện quy hoạch sắp xếp cán bộ chủ trì, bảo đảm cho đội ngũ
phát triển liên tục, kế tiếp nhau theo hướng dự định.
+ Rà xét, phát hiện những cán bộ được sử dụng không phù hợp cần
điều chỉnh.
Gần đây, theo quy chế kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW ngày
04/7/2007 của Bộ Chính trị (khố X) thì: bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán
bộ ứng cử (gọi chung là bổ nhiệm cán bộ), tức là cấp uỷ có thẩm quyền quyết
định cử cán bộ (bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử) vào các vị trí lãnh đạo, quản lý
của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Từ những tư tưởng, quan điểm, quan niệm nêu trên có thể hiểu bổ
nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý ở các Huyện ủy ven biển
Tỉnh Thanh Hóa là việc tập thể Ban Thường vụ Huyện uỷ các Huyện quyết
định cử cán bộ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý của các tổ chức trong hệ

thống chính trị cấp huyện và chức danh chủ chốt cấp xã, thị trấn thuộc phạm
vi phân cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhằm mục đích quản lý, sử
dụng cán bộ có hiệu quả, đảm bảo việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của từng đơn vị và Đảng bộ huyện.
Qua quan niệm cho thấy:
Chủ thể quyết định bổ nhiệm cán bộ là Ban Thường vụ Huyện uỷ. Bên
cạnh đó, cịn các tổ chức và cá nhân liên quan tham gia vào quá trình thực
hiện công tác bổ nhiệm cán bộ như: cơ quan tham mưu về công tác tổ chức
cán bộ, người đứng đầu và các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị
huyện và cơ sở.
Đối tượng xem xét bổ nhiệm là cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban
thường vụ Huyện ủy quản lý có đủ phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực, có


22
uy tín, sự tín nhiệm cao và phải đủ tiêu chuẩn.
- Nguyên tắc, thủ tục bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ
quản lý ở các huyện ven biển tỉnh Thanh Hóa.
Ngun tắc, quy trình, thủ tục bổ nhiệm cán bộ phải thực hiện theo
đúng quan điểm, chủ trương, nghị quyết, điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước,
Điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội; đặc biệt là Quyết định số 68 của Bộ
Chính trị (khoá X) và Quyết định số 483 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Thanh
Hóa khóa (khố XVII) về ban hành quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán
bộ ứng cử. Trên cơ sở đó, Ban Thường vụ Huyện uỷ thực hiện bổ nhiệm cán
bộ thuộc cấp mình quản lý phải đảm bảo đúng nguyên tắc, đặc biệt nguyên tắc
tập trung dân chủ, đảm bảo quy trình, thủ tục:
Một là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Đảng là người đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, tiêu chuẩn, quy

chế, quy định về công tác cán bộ và thông qua các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng
viên trong cả hệ thống chính trị để lãnh đạo, tổ chức thực hiện các quyết định
của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ.
Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các ngành, các cấp.
Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và tổ chức
đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các
ngành, các cấp.
Hai là, cấp uỷ, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo cơ quan có thẩm
quyền xem xét, quyết định một cách dân chủ trên cơ sở phát huy đầy đủ trách
nhiệm và quyền hạn của từng thành viên, nhất là của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị, cơ sở.
Mọi vấn đề về công tác cán bộ phải do tập thể cấp uỷ và tổ chức đảng có


23
thẩm quyền (theo phân cấp quản lý) thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số.
Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm
phát hiện, đề xuất bổ nhiệm cán bộ và tổ chức thực hiện các quyết định của
tập thể về cán bộ trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
Cá nhân đề xuất bổ nhiệm, cơ quan tham mưu thẩm định, tập thể cấp uỷ
đảng quyết định phải chịu trách nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, cơ sở, phải
căn cứ vào phẩm chất, đạo đức, năng lực và sở trường của cán bộ để bổ
nhiêm cán bộ.
Xuất phát từ công việc, từ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và
tiêu chuẩn từng chức danh, kết quả đánh giá cán bộ mà bổ nhiệm cán bộ đúng
chỗ, đúng lúc, đúng sở trường, thực hiện "vì việc đặt người", "có lên có
xuống", "có vào có ra". Tránh bổ nhiệm cán bộ vào vị trí mà bản thân cán bộ
chưa được học, chưa từng làm hoặc chưa am hiểu.

Nhất thiết không điều động những cán bộ bị kỷ luật, khơng hồn thành
nhiệm vụ ở đơn vị, cơ quan này sang nhận chức vụ tương đương hoặc cao hơn
ở nơi khác.
Ở những nơi trì trệ, yếu kém phải thay cán bộ chủ chốt thì mạnh dạn bổ
nhiệm cán bộ trẻ được rèn luyện, thử thách, được đào tạo và có đủ tiêu chuẩn
vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý thích hợp.
Bốn là, đảm bảo sự ổn định, kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị, cơ sở.
Cần đảm bảo tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, hình
thành mối tương quan lực lượng đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài.
Trong bổ nhiệm cán bộ cần chú ý đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát
triển vững chắc trong cả đội ngũ cán bộ; kết hợp hài hoà cán bộ lớn tuổi
dày dạn kinh nghiệm với cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản đã qua rèn luyện


24
thực tiễn.
1.2. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ
DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN UỶ QUẢN LÝ Ở CÁC HUYỆN VEN BIỂN
TỈNH THANH HÓA - QUAN NIỆM, NỘI DUNG, QUY TRÌNH THỰC HIỆN

1.2.1. Quan niệm về nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm
cán bộ diện Ban thường vụ Huyện ủy quản lý
+ Quan niệm về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
các Đảng Cộng sản. Song, nguyên tắc này khơng chỉ đóng khung trong đảng,
mà khi giành được chính quyền, nó đã được thực hiện trong quản lý và hoạt
động của nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và của nhiều tổ chức chính trị xã hội trong chế độ XHCN.
Nguyên tắc TTDC được C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra lần đầu vào năm
1847 trong việc tổ chức “Liên minh những người cách mạng”; sau đó, được

tiếp tục khẳng định trong tổ chức “Liên minh công nhân quốc tế” (Quốc tế I)
do chính C.Mác sáng lập vào năm 1864 và cùng với Ph.Ăngghen lãnh đạo tổ
chức này nhằm đáp ứng nhu cầu của của phong trào công nhân là phải thống
nhất lực lượng trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản, bảo đảm sự
ổn định, nhất trí và tính tổ chức của đội tiên phong.
V.I. Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo nguyên tắc tập trung
dân chủ phù hợp với những điều kiện lịch sử và thời đại mới. Ngay từ năm
1905, tại Hội nghị Trung ương Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga, V.I.
Lênin đề nghị đưa nguyên tắc TTDC vào chương trình nghị sự của Hội nghị
và được Hội nghị chấp thuận. Tuy nhiên, tại Hội nghị, nguyên tắc TTDC vẫn
chưa được đưa vào Điều lệ của Đảng Công nhân dân chủ-xã hội Nga, vì cịn
có những ý kiến khác nhau. Đảng Cơng nhân dân chủ-xã hội Nga họp Đại hội
từ ngày 23-4 đến ngày 8-5, năm 1906 để thống nhất lực lượng và nguyên tắc


25
tổ chức của Đảng. Tại Đại hội này, V.I. Lênin trình bày “Cương lĩnh hành
động” của Đảng. Người viết: “nguyên tắc tập trung trong Đảng hiện nay được
mọi người thừa nhận” [38, tr.279]. Đại hội nhất trí thơng qua Điều lệ mới của
Đảng. Điều lệ ghi rõ: Tất cả các tổ chức đảng phải được xây dựng theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Như vậy, nguyên tắc TTDC lần đầu tiên được
ghi trong Điều lệ của Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga vào năm 1906 và
được thực hiện cho đến khi Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản ở
các nước Đông Âu tan rã vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
Ở Việt Nam, thuật ngữ nguyên tắc tập trung dân chủ xuất hiện lần đầu
tiên vào năm 1929, trong Điều lệ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (gọi tắt
là “Thanh niên cách mạng hội”- một trong tổ chức tiền thân của Đảng Cộng
sản Đông Dương. Trong Điều lệ Hội thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc
tháng 5-1929 ghi: “Hội tổ chức theo nguyên tắc tập trung” [32, tr.20]. Trong
“Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam” được thông qua Hội nghị

thành lập Đảng ngày 03-02-1930 chưa ghi nguyên tắc TTDC. Tháng 10-1930
Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, quyết định đổi tên Đảng thành
Đảng Cộng sản Đông Dương và thông qua “Điều lệ Đảng Cộng sản Đơng
Dương”, trong đó ghi: Đảng Cộng sản Đơng Dương cũng như các chi bộ của
Quốc tế Cộng sản phải tổ chức theo lối dân chủ tập trung. Trải qua các nhiệm
kỳ Đại hội Đảng, trong Điều lệ Đảng, Đảng ta đều khẳng định: “Đảng tổ chức
theo nguyên tắc tập trung dân chủ” và xác định TTDC là nguyên tắc tổ chức
cơ bản của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị Người sáng lập và lãnh
đạo Đảng ta đã luôn khẳng định: Đảng phải hoạt động theo nguyên tắc dân
chủ tập trung. Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ thực hiện nghiêm túc
trong hoạt động của Đảng mà trong hoạt động của Nhà nước. Điều 6, Hiến
pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, ghi: “Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo


×