Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở hiện nay (qua thực tế tỉnh thanh hoá)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.28 KB, 99 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác tư tưởng ln giữ vai trị quan trọng trong tồn bộ hoạt động
của Đảng. Để tiến hành công tác tư tưởng có hiệu quả Đảng ta đã thơng qua
cơng tác lý luận, cơng tác tun truyền và nhiều hình thức, phương thức,
phương pháp hoạt động cụ thể phong phú, sinh động khác, trong đó tun
truyền miệng là một hình thức được Đảng ta hết sức quan tâm ngay từ khi còn
hoạt động bí mật cho đến lúc giành được chính quyền và lãnh đạo toàn xã hội.
Tuyên truyền được Đảng ta sử dụng như một công cụ sắc bén để xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức góp phần quan trọng trong
việc tuyên truyền, hướng dẫn mọi người thực hiện thắng lợi đường lối chính
trị của Đảng.
Thấm nhuần sâu sắc những luận điểm của C.Mác: "vũ khí của sự phê
phán cố nhiên khơng thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào lực lượng quần chúng" [37, tr.25].
V.Lênin khẳng định: "khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách
mạng" [31, tr.30], "chỉ có Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm trịn vai trị chiến sỹ tiên phong" [31, tr.32].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: Tiếp tục đổi
mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết
phục hiệu quả của cơng tác tư tưởng, tun truyền, học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên
tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng.
Báo cáo viên (BCV) là lực lượng quan trọng nòng cốt, chủ lực của
công tác tuyên truyền miệng, được cấp uỷ lựa chọn, công nhận theo những
tiêu chuẩn nhất định do Ban Tuyên giáo của cấp uỷ quản lý và chỉ đạo. BCV



2

là chức danh để chỉ những người làm công tác tuyên truyền miệng, BCV được
coi là người phát ngôn, thông tin chính của cấp uỷ Đảng và cơ quan nhà nước.
Trong bối cảnh tồn cầu hố, các phương tiện thơng tin hiện đại đã đáp ứng
được phần lớn nhu cầu thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tuy
nhiên, vai trị của BCV khơng thể thay thế, bởi lẽ BCV là người trực tiếp
chuyển tải thông tin đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng thời nắm bắt
thông tin từ cơ sở chuyển tải đến cấp uỷ Đảng.
Xuất phát từ nhận thức đó Đảng ta đã sớm ban hành Chỉ thị số 14CT/TW “Về việc tổ chức đội ngũ Báo cáo viên và tuyên truyền viên của
Đảng” từ năm 1977; năm 1997, Trung ương Đảng ra tiếp Thông báo số 71TB/TW “Về việc tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác tuyên truyền
miệng”; và ngày 15/10/2007, Đảng ta tiếp tục ban hành Chỉ thị số 17-CT/TW
“Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tun truyền
miệng trong tình hình mới” nhằm sớm đưa đường lối, chủ trương, nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Thực tiễn hơn 30 năm qua
đã chứng minh rằng: BCV vẫn là lực lượng nòng cốt, chủ yếu trực tiếp tuyên
truyền, phổ biến các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước đến cán bộ đảng viên và nhân dân mà khơng một phương tiện thơng
tin nào có thể thay thế được. Bởi vì tuyên truyền miệng vừa là một khoa học
vừa là một nghệ thuật chuyển tải được rất nhiều thơng tin, từ thơng tin chính
thống có tính chất hệ thống, phân tích tỉ mỉ về kinh tế - xã hội đến những
thông tin về khoa học, kỹ thuật, v.v.., đồng thời chuyển tải những thông điệp
mang yếu tố tâm lý và tình cảm của người nói đến người nghe mà các phương
tiện khác không thể nào chuyển tải hết được.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) ở
nước ta hiện nay, Đảng ta xác định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt, văn hoá vừa là mục tiêu, động lực cho sự phát triển của xã
hội, là nền tảng tinh thần của nhân dân. Để ba trụ cột trên phát triển bền vững



3

thì các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
phải được cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác cho đội ngũ BCV và thơng
qua hoạt động tuyên truyền miệng của BCV những quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước sẽ đến cơ sở, thâm nhập vào cơ sở
tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng cũng như trong tồn xã
hội. Đó là u cầu hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của đất nước ta hiện nay.
Trong thời gian qua, ở Thanh Hoá do những nguyên nhân khách quan
và chủ quan khác nhau, việc quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động của đội ngũ BCV trong tồn tỉnh nói chung, BCV cấp cơ sở
nói riêng cịn những bất cập nhất định. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quán
triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của
đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong cơng
tác quán triệt, triển khai các nghị quyết, chị thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước... đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân trong giai đoạn hiện
nay. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, học viên chọn đề tài: "Thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở hiện
nay (Qua thực tế tỉnh Thanh Hoá)" làm luận văn thạc sĩ Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, vấn đề quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn đã có nhiều cơng trình nghiên cứu nhằm làm rõ thực chất của vấn đề
này ở những khía cạnh cụ thể khác nhau, được công bố trên nhiều sách, báo, tạp
chí, luận văn, luận án, đề tài khoa học… Tiêu biểu là một số cơng trình sau:
- Đề tài “Đổi mới tư duy lý luận ứng dụng vào việc đổi mới nội
dung, chương trình bài giảng và giáo trình giảng dạy lý luận Mác - Lênin,
theo yêu cầu đổi mới về giáo dục lý luận Mác - Lênin trong Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ V”, GS Nguyễn Đức Bình - Chủ nhiệm đề tài
cấp bộ, năm 1991.



4

Nội dung của đề tài khẳng định tính cấp thiết của việc quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc đổi mới nội
dung, chương trình bài giảng và giáo trình các mơn học lý luận Mác Lênin. Muốn đổi mới về giáo dục lý luận Mác - Lênin trước tiên phải đổi
mới tư duy lý luận và ứng dụng nó vào trong đổi mới nội dung, chương
trình, giáo trình các mơn học Mác - Lênin theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ V.
- Đề tài “Những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành
chương trình trung cấp lý luận chính trị trong các trường đào tạo cán bộ của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh, thành phố đến năm 2000”, ThS Tống Trần Sinh Đề tài cấp bộ, tháng 4/1995.
Đề tài chứng minh tính hợp lý, đúng đắn của việc đào tạo lý luận chính
trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở các trường chính trị tỉnh, thành
phố; chỉ ra cơ sở khoa học và thực tiễn của việc hình thành chương trình trung
cấp lý luận chính trị. Thực chất là làm rõ tính thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong việc thiết kế nội dung, chương trình, giáo trình sao cho phù hợp với
đối tượng học viên ở các trường chính trị tỉnh, thành phố.
- “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao tư
duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính trị hiện nay” của
Nguyễn Đình Trãi, Tạp chí Triết học, số 1/1999.
Tác giả làm rõ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với tư cách là
một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và nêu ra vị trí, vai trị của
ngun tắc này với việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên ở các trường
chính trị tỉnh, thành phố như một yêu cầu tất yếu khách quan trong quá trình
CNH, HĐH đất nước.
- “Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn” của Vi Thái
Lang, Tạp chí Triết học, số 1/1999.
Quan điểm mà tác giả đưa ra trong bài viết này về mối quan hệ biện

chứng giữa lý luận và thực tiễn được vạch rõ trên cả bình diện bản thể luận và


5

nhận thức luận. Quan hệ này là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ
thể; nên khi nắm được tính chất biện chứng của q trình này để nhận thức và
vận dụng sẽ thiết lập được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ
nghĩa thực dụng thiển cận cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý
luận sng.
- "Thơng tin và vấn đề tiếp nhận xử lý thông tin của tư duy người Việt
Nam", Lê Thị Duy Hoa, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2001.
- “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh”, PGS.TS Trần Văn Phòng trong sách “Tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
Tác giả đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là về tư
tưởng triết học trong hệ thống tư tưởng của Người. Một trong những nội dung
quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc liên quan trực tiếp đến công tác giáo dục và đào
tạo cán bộ, đó chính là ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tác giả
đã tìm hiểu và hệ thống lại những quan điểm của Hồ Chí Minh nhìn nhận dưới
góc độ triết học về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một giải pháp cơ
bản nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Đây được coi là một
trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta.
- "Thông tin với hoạt động giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường
đại học" , Phan Thị Thanh Hải, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2003. Tác
giả đã phân tích rõ bản chất thông tin, phân loại thông tin và phát huy vai trị
của thơng tin trong hoạt động giảng dạy lý luận Mác - Lênin.
- “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao
chất lượng giảng dạy ở trường chính trị tỉnh (Qua thực tế tỉnh Bình Thuận)”,
Nguyễn Thị Thuận Bích, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2004.

Tác giả của luận văn đã khái qt tình hình thực tế cơng tác giáo dục lý
luận chính trị ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời gian qua (trước


6

2004) vẫn còn nhiều hạn chế. Tác giả đã phân tích nguyên nhân chủ quan,
nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng đó và nghiên cứu đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị ở các trường chính
trị tỉnh, thành phố thơng qua thực tế tỉnh Bình Thuận.
- "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ báo cáo viên của
Đảng bộ cấp huyện ở đồng bằng sông Cửu Long", Huỳnh Minh Khởi, Luận
văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2006. Tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận
chính trị và vai trị của nó đối với hoạt động của người BCV.
- "Thông tin với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở", Nguyễn Thị Huệ, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội 2007. Tác giả đã
phân tích sâu vai trị của thơng tin đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở và đề ra giải pháp phát huy vai trị của của thơng tin đối
với hoạt động lãnh đạo, quản lý.
- “Phát huy vai trị thơng tin chính trị - xã hội trong hoạt động tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở tỉnh Cà Mau hiện nay”,
Nguyễn Hồng Vệ, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2008. Tác giả đã làm rõ
thực trạng phát huy vai trị của thơng tin chính trị - xã hội đối với hoạt động
tuyên truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở Cà Mau, đề xuất một số giải
pháp phát huy vai trị của thơng tin chính trị - xã hội đối với cơng tác tuyên
truyền miệng của đội ngũ BCV cấp cơ sở ở Cà Mau trước yêu cầu mới.
- "Vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ BCV cấp tỉnh
ở Thanh Hoá ", Trịnh Khắc Bân, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2012.
Tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận chính trị và vai trị của nó đối với hoạt
động của đội ngũ BCV cấp tỉnh ở Thanh Hố, từ đó đề xuất những phương

hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ này để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù vậy, vấn đề “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ sở hiện nay (Qua thực tế tỉnh Thanh
Hoá)” vẫn là mảng trống cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.


7

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay (qua
thực tế tỉnh Thanh Hoá), luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm quán triệt tốt
hơn nguyên tắc này trong hoạt động của đội ngũ BCV này.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích tầm quan trọng của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ BCV.
- Phân tích, làm rõ thực trạng quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay (qua thực tế
Thanh Hoá).
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ
BCV cấp cơ sở hiện nay (qua thực tế tỉnh Thanh Hóa).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng: Đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay.
- Phạm vi: Tác giả tập trung nghiên cứu sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay (qua thực tế
tỉnh Thanh Hoá).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sử dụng những văn bản, chỉ thị, nghị quyết, quyết định… của Ban
Tuyên giáo Trung ương, Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh
Hoá về hoạt động của đội ngũ BCV.
- Vận dụng và kế thừa sáng tạo các cơng trình của các tác giả đi trước
về vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Sử dụng phương pháp lịch sử và lơgic; phân tích và tổng hợp.


8

- Sử dụng kết quả điều tra xã hội học và kết quả tổng kết hoạt động của
đội ngũ BCV cấp cơ sở (qua thực tế tỉnh Thanh Hoá) những năm gần đây.
- Phát phiếu thăm dò.
- Phỏng vấn nhanh.
- Lấy ý kiến chuyên gia.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động của đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay (qua thực tế tỉnh Thanh
Hố). Từ đó, thấy được tầm quan trọng của đội ngũ BCV cấp cơ sở trong việc
giúp cấp uỷ cấp cơ sở chuyển tải các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Xuất phát từ quá trình nghiên cứu và hoạt động, luận văn mạnh dạn đề xuất
một số giải pháp mang tính cụ thể nhằm mang lại hiệu quả cao hơn khi vận dụng
vào hoạt động của đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay (qua thực tế tỉnh Thanh Hóa).
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc quán triệt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động của đội ngũ BCV cấp
cơ sở hiện nay (qua thực tế tỉnh Thanh Hoá). Đề xuất một số giải pháp cơ bản

nhằm thực hiện tốt tính nguyên tắc này trong hoạt động của đội ngũ BCV cấp
cơ sở hiện nay.
- Luận văn có thể góp phần cùng cấp uỷ và Ban Tuyên giáo các cấp
tham khảo và vận dụng trong việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn cho đội ngũ BCV. Đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo, BCV trong tình hình mới.
- Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo và bồi dưỡng nghiệp vụ công
tác tuyên truyền miệng cho đội ngũ BCV.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn chia làm 2 chương, 5 tiết.


9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN CẤP CƠ SỞ
HIỆN NAY

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO
CÁO VIÊN CẤP CƠ SỞ

1.1.1. Đội ngũ báo cáo viên
Trong suốt quá trình tổ chức lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã chỉ ra
rằng: BCV là công cụ sắc bén để xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; góp phần quan trọng trong việc trực tiếp tuyên truyền,
hướng dẫn mọi người thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Chính vì
vậy, khi cịn hoạt động bí mật hay đã ra cơng khai, khi chưa có chính quyền

hay khi đã giành được chính quyền lãnh đạo toàn xã hội, Đảng ta đều rất chú
trọng xây dựng đội ngũ BCV và coi đây là lực lượng chủ lực nòng cốt trong
đội ngũ tuyên truyền của Đảng.
Thuật ngữ BCV xuất hiện rất sớm. Theo V.I.Lênin, đây là tổ chức các
nhóm (đội) cán bộ sử dụng hình thức tuyên truyền miệng là chính để giáo dục
nhân dân đấu tranh cách mạng. Thuật ngữ BCV trong một thời gian dài được
sử dụng ở nước ta với rất nhiều nghĩa khác nhau, qua các giai đoạn phát triển
của lịch sử và trong từng lĩnh vực cụ thể. Theo từ điển tiếng Việt, BCV là
người trình bày báo cáo trước một hội nghị đông người [60, tr.54]. Theo cách
hiểu này, BCV là khái niệm chỉ tất cả những người trình bày báo cáo trước
hội nghị đông người do cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội - nghề nghiệp... tổ chức. Do vậy, BCV
khơng chỉ có trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, đồn thể mà cịn có trong các


10

tổ chức quần chúng tự nguyện khác.
Theo tác giả Hữu Thọ:
Báo cáo viên là người trực tiếp tuyên truyền, thuyết phục và vận
động, hướng dẫn mọi người có nhận thức đúng, để từ đó có hành
động đúng, nắm vững và thực hiện thắng lợi đường lối, nghị quyết
của Đảng. Do vậy đối với người làm cơng tác BCV phải có trình
độ, kiến thức hiểu biết sâu, rộng về lý luận và thực tiễn, đồng thời
phải có cái "tâm", tức là phải có trái tim thuộc về Đảng, thuộc về
cách mạng thì mới thuyết phục được mọi người hiểu và làm theo
điều mình nói [2, tr.49-50].
Báo cáo viên là chức danh được Đảng ta qui định trong nhiều văn bản
và được Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung
ương) hướng dẫn thực hiện, trừ một số BCV ở các cơ quan chức năng và một

số cán bộ, đảng viên đã nghỉ hưu được các cấp uỷ Đảng lựa chọn làm BCV
chuyên trách. Phần lớn BCV hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm và hưởng chế
độ phụ cấp theo qui định của Bộ Tài chính.
Chỉ thị số 14-CT/TW, ngày 03 tháng 8 năm 1977 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng nêu rõ: "BCV, tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng
có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn tư tưởng và hành động cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng" [14].
Theo Chỉ thị này, BCV là một chức danh chỉ những người tuyên truyền trực
tiếp bằng lời nói đến các đối tượng là cán bộ, đảng viên và nhân dân dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng, cơ quan nhà nước.
Chỉ thị 17-CT/TW, ngày 15 tháng 10 năm 2007 của Ban Bí thư, tiếp tục
khẳng định hoạt động của đội ngũ BCV, tuyên truyền viên, xác định đây là
một trong những kênh thông tin quan trọng nhất, trực tiếp truyền bá sâu rộng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến giáo dục, quán triệt
các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; định


11

hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời cuộc
quan trọng trong nước và quốc tế; góp phần tạo sự thống nhất tư tưởng trong
Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ phong trào cách
mạng. Đồng thời, đây là một trong những vũ khí sắc bén, kịp thời đấu tranh
chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch, phê
phán các quan điểm sai trái, lệch lạc, phản động.
Kế thừa những quan niệm trên và những quy định của Đảng, có thể
hiểu BCV như sau:
Báo cáo viên là lực lượng quan trọng nòng cốt, chủ lực của công tác
tuyên truyền miệng, được cấp uỷ lựa chọn, công nhận theo những tiêu chuẩn
nhất định do Ban Tuyên giáo của cấp uỷ quản lý và chỉ đạo. BCV là chức

danh chỉ những người làm công tác tuyên truyền miệng, BCV được coi là
người phát ngôn, thơng tin chính của các cấp uỷ Đảng và cơ quan nhà nước.
Hệ thống BCV được tổ chức chặt chẽ ở tất cả các cấp từ Trung ương
đến tỉnh, thành phố, huyện (quận), xã (phường), thị trấn, đảng bộ cơ sở. Các
ngành, các tổ chức đoàn thể, lực lượng vũ trang được tổ chức theo hệ thống
dọc, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và sự quản lý của cơ quan
Tuyên giáo, Tuyên huấn các cấp. Trừ một số BCV ở các cơ quan chức năng
và một số cán bộ, đảng viên đã nghỉ hưu được các cấp uỷ Đảng lựa chọn làm
BCV chuyên trách, còn lại phần lớn BCV hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm.
BCV được hưởng chế độ bồi dưỡng theo quy định của Bộ Tài chính.
Báo cáo viên của Trung ương: do Ban Bí thư uỷ nhiệm cho Ban Tuyên
giáo Trung ương chọn một số cán bộ cao cấp, uỷ viên Trung ương, lãnh đạo,
cán bộ, ban, ngành, chuyên gia giỏi có phẩm chất và năng lực tuyên truyền
làm BCV. BCV ở địa phương được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất định
do cấp uỷ xây dựng. BCV ở cấp nào do cấp uỷ cấp đó trực tiếp ra quyết định
cơng nhận, Ban Tuyên giáo quản lý điều hành, số lượng BCV phụ thuộc vào
yêu cầu nhiệm vụ của từng cấp. Thông thường, BCV ở cấp tỉnh có từ 40 - 60


12

người, cấp huyện có từ 15 - 50 người, cấp xã có từ 10 - 30 người. Phương
thức hoạt động chủ yếu của BCV là giảng bài, báo cáo chuyên đề, giới thiệu
nghị quyết, nói chuyện thời sự, chính sách, các vấn đề xã hội khác trong các
hội nghị, các buổi sinh hoạt đảng, sinh hoạt đoàn thể, sinh hoạt của tổ tự quản,
nơi tập trung đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả chỉ tập trung bàn đến
đội ngũ BCV cấp xã, phường, thị trấn (còn gọi BCV cấp cơ sở) là những
người do Ban Chấp hành Đảng bộ xã, phường, thị trấn lựa chọn, Ban
Thường vụ Đảng uỷ công nhận và ra quyết định, đặt dưới sự chỉ đạo trực

tiếp của Ban Tuyên giáo Đảng uỷ. BCV cấp uỷ gồm đồng chí trưởng, phó
Ban Tun giáo Đảng uỷ và một số đồng chí là cán bộ chủ chốt các ban,
ngành, đoàn thể, giáo viên, cán bộ thôn, bản, khu phố cấp xã, phường, thị
trấn. BCV Đảng uỷ với nhiệm vụ tiếp thu quán triệt những chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị
quyết của địa phương, những vấn đề về thời sự chính trị, xã hội trong nước
và quốc tế truyền đạt đến cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trên địa
bàn cấp xã, phường, thị trấn.
Tiêu chuẩn cơ bản của BCV:
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, BCV phải được lựa chọn và bồi dưỡng
rèn luyện theo những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, đó là hai yếu tố
hợp thành nhân cách của một BCV.
Những tiêu chuẩn về phẩm chất:
- Có lập trường quan điểm đúng đắn, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với mục tiêu lý tưởng và sự nghiệp đổi mới của Đảng.
- Có tính đảng, tính chiến đấu và ý thức tổ chức kỷ luật cao, đặc biệt là
kỷ luật phát ngơn.
- Có phẩm chất đạo đức và tinh thần trách nhiệm cao; nhiệt tình, tâm
huyết với nghề nghiệp, khiêm tốn học hỏi, gương mẫu và có mối quan hệ tốt


13

với mọi người.
Những tiêu chuẩn chủ yếu về năng lực:
- Có trình độ chính trị cao. Nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
- Có trình độ hiểu biết nhất định về các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng,
kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học. Biết vận dụng tâm lý học, phương pháp sư

phạm và nghiệp vụ tuyên truyền, nhất là tuyên truyền miệng.
- Có khả năng tiếp thu, phân tích, lập luận, diễn đạt bài nói, có phương
pháp vận động thuyết phục quần chúng, đồng thời có năng lực tự chủ và đối
ngoại trong một xã hội dân chủ và bùng nổ về thơng tin hiện nay.
Ngồi những tiêu chuẩn chủ yếu trên, BCV cần được lựa chọn và bồi
dưỡng từ những người có năng khiếu, sở trường về tiêu chuẩn tun truyền
miệng, có ngoại hình tốt, nhất là các cơ quan chức năng có liên quan đến hiệu
quả tun truyền miệng: tai, mắt, giọng nói, khơng nói ngọng, có thể lực và
phong cách tốt.
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo viên:
Thứ nhất, phổ biến giải thích, cung cấp thông tin, đặc biệt là những
thông tin mới có giá trị, những thơng tin có tính nội bộ về tình hình trong
nước và quốc tế; phổ biến, giải thích các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách lớn, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hố, an ninh, quốc phịng, đối ngoại. Thơng qua cung
cấp thơng tin, BCV giúp cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu được
nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, địa phương, cơ quan và đơn vị.
Thứ hai, BCV không chỉ dừng lại cung cấp thông tin cho đối tượng mà
quan trọng hơn phân tích, bình luận, làm rõ ý nghĩa nội dung chính trị của các
sự kiện, các nhiệm vụ. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, xác đáng, có
tính thuyết phục. BCV phân tích, bình luận, làm rõ bản chất các sự kiện chính


14

trị, từ đó chỉ ra các nguyên nhân, dự báo chiều hướng, khả năng và triển vọng
của tình hình, định hướng thơng tin, nhất là thơng tin có tính chính trị cao;
góp phần hình thành dư luận xã hội tích cực, đúng đắn nâng cao trình độ giác
ngộ chính trị của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân.
Thứ ba, cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia vào

các hoạt động xã hội, nâng cao chất lượng hiệu quả sản xuất. Chức năng hiệu
triệu, cổ vũ sẽ tăng lên nếu như lời nói của BCV có sức truyền cảm mạnh mẽ,
có khả năng làm xúc động lịng người, tác động sâu sắc đến tình cảm của
quần chúng nhân dân.
Thứ tư, hoạt động BCV là hoạt động thông tin hai chiều, một mặt thông
tin tác động đến đối tượng, mặt khác nhận thông tin phản hồi từ phía đối
tượng. Qua đó BCV nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, cũng như tâm
trạng, thái độ nhận thức, tư tưởng của họ đối với chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phản ánh lên cấp trên. Trên cơ
sở đó, Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương,
đường lối cho phù hợp quy luật phát triển, với thực tiễn cách mạng, hợp lịng
dân, trong đó BCV đóng vai trị là kênh thơng tin huyết mạch, là cầu nối giữa
Đảng với quần chúng nhân dân. BCV không chỉ thực hiện nhiệm vụ bằng trí
tuệ, năng lực, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm mà cịn bằng cả lịng nhiệt tình,
tâm huyết, phong cách gần gũi gắn bó với quần chúng, gương mẫu để thuyết
phục người nghe. Trên cơ sở phân tích các mối quan hệ lợi ích giữa các nhóm
xã hội, tình trạng phát triển dân trí và tình trạng thơng tin, BCV có thể nắm
được tình hình tư tưởng và dư luận xã hội trong những giai đoạn nhất định để
báo cáo lên cấp trên.
Trong hoạt động của mình, BCV cần phải nắm bắt diễn biến tư tưởng
của đối tượng khi tâm trạng chưa bộc lộ thành quan điểm chủ kiến, nhất là
phải nắm được tâm trạng khởi đầu, xu hướng phát triển của nó để định hướng
nội dung tun truyền, có những phương pháp, hình thức tuyên truyền phù


15

hợp và hiệu quả.
Tóm lại, trong hoạt động của BCV, chức năng thơng tin, bình luận và
định hướng thơng tin, cổ vũ và nắm bắt dư luận xã hội luôn gắn chặt nhau, bổ

sung, tác động cho nhau. Những chức năng này giúp cho người BCV khi
tuyên truyền có được nội dung phong phú, phân tích thấu đáo, có cơ sở lý
luận, thực tiễn khoa học xác đáng, bình luận sâu sắc, tính định hướng cao,
nắm bắt diễn biến tư tưởng tâm trạng của đối tượng chắc chắn, từ đó có tác
dụng tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.
1.1.2. Thực chất hoạt động của đội ngũ báo cáo viên
Hoạt động của người BCV là tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng và hình thành lập trường
tư tưởng đúng đắn, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng và sự nghiệp đổi
mới của đất nước. Trên cơ sở quán triệt cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng
cao nhận thức tư tưởng, hướng dẫn và cổ vũ quần chúng hành động; thơng
qua đó góp phần thực hiện và hồn thiện đường lối, chủ trương, chính sách đã
đề ra. Giáo dục về tư tưởng - văn hoá, phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống
cho quần chúng nhân dân là nhằm xây dựng con người mới, nền văn hoá mới
XHCN, đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng lạc hậu, các quan điểm sai
trái và phản động, góp phần hạn chế, đẩy lùi tiêu cực trong xã hội.
Biểu hiện đặc thù của hoạt động tuyên truyền miệng ở đội ngũ báo
cáo viên cấp cơ sở:
Thứ nhất, BCV và giảng viên đều làm nhiệm vụ truyền đạt, thuyết trình
trước một tập thể có đơng người nghe, nhưng giảng viên là người được đào
tạo chuyên ngành về nội dung và phương pháp sư phạm; nội dung chương
trình đã được đào tạo theo quy chuẩn như: giáo khoa, giáo trình; giảng dạy
nhiều lần về nội dung chương trình cho đối tượng nhất định, tương đối đồng


16

đều về trình độ. Đối tượng báo cáo của BCV là những cộng đồng người vừa

không ổn định vừa không đồng đều về đặc điểm xã hội, giai cấp, nghề nghiệp,
tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, trình độ, kinh nghiệm, cách suy nghĩ...
cũng như tâm lý: nhu cầu, tâm trạng, lợi ích. Vì vậy, sự đa dạng về đối tượng
địi hỏi người BCV phải có trình độ tri thức về các lĩnh vực chính trị, xã hội,
kinh tế, văn hoá, con người, cũng như phương pháp truyền đạt, sự hiểu biết
con người sâu sắc.
Thứ hai, tuyên truyền miệng là hình thức tun truyền chủ yếu chuyển
tải thơng tin bằng ngơn ngữ nói. Sự hiểu biết của con người được diễn đạt
thơng qua ngơn ngữ; q trình diễn giảng, thuyết phục, sự cảm hoá mà BCV
thực hiện với đối tượng đều qua ngôn ngữ; bằng ngôn ngữ BCV thực hiện q
trình truyền thơng tin đến đối tượng như mục đích đã đặt ra. Vì vậy, người
BCV phải tích luỹ vốn từ, nắm vững quy luật của ngôn ngữ và đặc điểm văn
phong trình bày.
Thứ ba, hoạt động tuyên truyền miệng của BCV là một nhiệm vụ, một
khoa học, một nghệ thuật; nghệ thuật tác động vào lòng người một cách
truyền cảm, từ niềm tin và sự say mê của chính mình để truyền sang người
nghe, để người nghe tiếp thu như cảm thụ một giá trị nghệ thuật, thoả mãn
đến mức cao nhất nhu cầu và khát vọng về những vấn đề mà họ đang quan
tâm. Trong quá trình tuyên truyền: một mặt, dựa trên những luận cứ khoa học
và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc, hiện tượng, từ đó thuyết phục
cảm hố đối tượng; mặt khác, công tác tuyên truyền phải gắn với thực tiễn,
trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tổng kết công tác tuyên truyền trong từng thời kỳ
cách mạng để giải đáp những vấn đề cuộc sống đặt ra. Muốn đạt hiệu quả thì
phương pháp và hình thức tuyên truyền phải phù hợp với từng đối tượng và
tình hình thực tiễn. Điều đó cho thấy, hoạt động BCV là hoạt động nghệ thuật,
nghệ thuật sử dụng ngơn ngữ, nghệ thuật giao tiếp, nói chung đó là nghệ thuật
diễn thuyết. Hoạt động BCV cịn có đặc trưng sáng tạo, sáng tạo ra bài giảng


17


của chính mình. BCV thường phải thuyết trình với nhiều nội dung, đề tài
thường chưa có sẵn, phải tự biên soạn lấy đề cương, nhiều khi là vấn đề mới,
phức tạp, có khi chưa diễn ra nhưng cần phải phân tích, dự báo những khả
năng sắp xảy ra, đây là một yếu tố khách quan quy định tính chất đặc thù của
hoạt động BCV.
Trong điều kiện bùng nổ và dân chủ hố thơng tin, trình độ học vấn,
thẩm mỹ của người nghe ngày càng cao, người BCV khơng chỉ địi hỏi tính
sáng tạo, sự rèn luyện nghiêm túc, mà cịn phải có năng khiếu nghề nghiệp
nhất định.
Thứ tư, khác với giao tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, sự giao tiếp trực tiếp và sinh động với người nghe của BCV dễ tạo cho
người nghe cảm giác gần gũi, thân mật. Giao tiếp trực tiếp cho phép người
BCV nói chuyện cởi mở, xây dựng mối quan hệ thân mật, sinh động với người
nghe như: Nét mặt, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười là một loại "ngôn ngữ thầm", nếu
được kết hợp chặt chẽ với ngơn ngữ nói sẽ có sự truyền cảm lớn mà chỉ những
người làm cơng tác tuyên truyền miệng mới thực hiện được. Nhờ đó, BCV
mang đến cho đối tượng không chỉ nội dung của lời nói mà cịn mang lại cho
họ tình cảm, niềm tin của chính mình nữa. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã
viết: "Ảnh hưởng cá nhân và những lời phát biểu tại các cuộc họp có ý nghĩa
rất lớn. Khơng có những cái đó thì khơng có hoạt động chính trị" [36, tr.69].
Thứ năm, khác với BCV cấp tỉnh, huyện, BCV cấp cơ sở, do tính đặc
thù của đối tượng người nghe: trình độ tương đối thấp, đa phần là đảng viên
nơng thôn, nông dân, đa dạng về nhu cầu nhận thức... địa bàn rộng nên việc
lựa chọn BCV cấp cơ sở thường là những người cao tuổi, có uy tín, kinh
nghiệm. Đối với BCV cấp cơ sở hầu hết là những người đang tham gia cấp
uỷ, trưởng các ngành, đoàn thể và một số giáo viên tham gia báo cáo chuyên
đề trên tất cả các lĩnh vực do cấp uỷ phân công.
Khác với BCV cấp tỉnh và huyện, BCV cấp cơ sở thường xuyên luân



18

chuyển cơng tác; do đó ln ln phải thay đổi nội dung báo cáo và lựa chọn
phương pháp thuyết trình phù hợp với từng đối tượng. Có thể nói, đội ngũ
BCV này rất năng động, sáng tạo, linh hoạt và nhạy bén... Nhưng do thường
xuyên luân chuyển công việc, nên ở họ có sự hạn chế về tính chun mơn và
chuyên sâu khi báo cáo các chuyên đề, nhất là những chun đề khơng thuộc
lĩnh vực mình cơng tác.
Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo
cáo viên cấp cơ sở hiện nay.
Thứ nhất, trình độ học vấn, chun mơn, lý luận chính trị của BCV ảnh
hưởng tới hiệu quả hoạt động của họ.
Hình thức hoạt động chủ yếu, cơ bản của BCV là tuyên truyền miệng.
Thơng qua đó cung cấp thơng tin, đặc biệt là những thông tin mới, giá trị mới,
những thông tin mang tính nội bộ về tình hình quốc tế, trong nước; phổ biến,
giải thích các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách lớn, mới, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố,
an ninh, quốc phịng, đối ngoại.
Trình độ học vấn, trình độ chun mơn, nghiệp vụ, trình độ lý luận
chính trị của người BCV là kết quả của sự làm việc liên tục khơng biết mệt
mỏi của người đó. Phẩm chất quan trọng của người BCV là không thoả mãn
với thành tích đạt được, tìm kiếm khơng biết mệt mỏi những phương pháp,
hình thức phù hợp để tác động đến người nghe. BCV khi nhận thức những
vấn đề bằng những hiểu biết nông cạn, đánh giá chung chung sẽ bị người
nghe phát hiện, như vậy bài nói khó đạt được kết quả tốt như mong muốn. Do
vậy, để BCV chuyển tải những thơng tin trên đến từng nhóm đối tượng hiểu
và nâng cao nhận thức ở họ trước hết phụ thuộc vào trình độ học vấn, trình độ
chun mơn, trình độ lý luận chính trị của BCV. Bởi hoạt động của đội ngũ
BCV là tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nước, các chủ trương, chính sách của địa phương... Do đó, nội dung tuyên


19

truyền bao gồm hệ thống phạm trù, khái niệm, quy luật, nguyên tắc, thuật ngữ
khoa học của nhiều ngành khoa học, địi hỏi người BCV phải có trình độ học
vấn, trình độ chun mơn, trình độ lý luận chính trị tương ứng mới có thể
hiểu, nắm được nội dung cơ bản của vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó tuyên truyền
đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Muốn tuyên truyền cho người nghe hiểu được, nắm được nội dung chủ
đề mà mình nói thì trước hết BCV phải hiểu sâu sắc các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các thông tin về chính trị,
khoa học, giáo dục... mà BCV chuẩn bị tuyên truyền, đồng thời BCV cịn có
thể biến thơng tin đó thành tri thức của mình, thành niềm tin, thành sức mạnh
để khi nói, khi tuyên truyền sẽ có hồn, có sức thuyết phục hơn.
Hoạt động tuyên truyền không chỉ đơn thuần truyền thơng tin mà cịn
truyền đến người nghe tình cảm, niềm tin, quan điểm, lập trường và định
hướng hành động đúng đắn. Từ đó, người nghe khơng chỉ tiếp nhận thơng tin
một cách giản đơn mà cịn nâng lên nhận thức, củng cố niềm tin, nung nấu
quyết tâm hành động.
Thứ hai, phương pháp của BCV ảnh hưởng tới hiệu quả tuyên truyền.
Phương pháp tuyên truyền miệng của BCV không chỉ đơn thuần là
cung cấp thơng tin chính trị, xã hội đến đối tượng bằng phương pháp độc
thoại mà là tổng hợp nhiều phương pháp để phân tích, bình luận, làm rõ ý
nghĩa nội dung chính trị của các sự kiện, các nhiệm vụ, các quan điểm, mục
tiêu, giải pháp. Trên cơ sở thơng tin chính trị, xã hội, BCV sử dụng những tri
thức lý luận khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tri thức
các khoa học khác kết hợp với vốn sống thực tiễn của bản thân mà BCV sẽ
phân tích, bình luận làm rõ bản chất của sự vật, hiện tượng, của các khái

niệm, phạm trù, luận điểm, quan điểm của chủ đề. Từ đó BCV chỉ rõ nguyên
nhân, dự báo chiều hướng, khả năng, triển vọng của tình hình, định hướng
thơng tin, nhất là những thơng tin có tính chính trị cao.
Bản chất của thơng tin chính trị, xã hội mang tính khoa học, khái quát


20

hố, trừu tượng hố cao, địi hỏi BCV khi phân tích, bình luận phải vận dụng
các phương pháp khoa học như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, lịch
sử và lơgíc, so sánh, chứng minh để người nghe hiểu đúng bản chất sự vật,
hiện tượng, nội dung tư tưởng của thông tin nhằm thống nhất nhận thức đúng.
Thực tiễn đã chứng minh, trình độ nhận thức lý luận chính trị ngang nhau,
cùng môi trường thông tin và tiếp nhận lượng thơng tin như nhau nhưng có BCV
tun truyền người nghe dễ tiếp thu, dễ hiểu, hiểu sâu, nắm chắc bản chất vấn đề
và có BCV tuyên truyền người nghe khó hiểu, khơng nắm được bản chất vấn đề.
Điều đó phụ thuộc nhiều vào phương pháp truyền đạt của BCV.
Báo cáo viên sử dụng phương pháp nào trong lúc tuyên truyền là phụ
thuộc vào đối tượng người nghe như độ tuổi, giới tính, trình độ nhận thức, nhu
cầu tiếp nhận thơng tin, khơng gian và thời gian buổi nói chuyện, ngồi ra cịn
phụ thuộc vào vai trị, vị trí, tác dụng của thông tin đối với đời sống xã hội.
Thứ ba, phẩm chất, đạo đức, lối sống của BCV cũng ảnh hưởng tới
hiệu quả hoạt động tuyên truyền.
Báo cáo viên là người phát ngơn thơng tin chính thức của Đảng và cơ
quan nhà nước do Ban Tuyên giáo của cấp uỷ quản lý và chỉ đạo. BCV là
kênh thông tin huyết mạch, là một khâu quan trọng, trực tiếp, là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Vì vậy, BCV thực hiện nhiệm vụ khơng chỉ bằng
trí tuệ, năng lực, bản lĩnh, kinh nghiệm mà còn bằng lòng nhiệt tình, tâm huyết,
đạo đức, phẩm chất, lối sống gương mẫu, gần gũi, gắn bó với quần chúng mới có
thể thuyết phục, động viên, cổ vũ người nghe, nhằm làm chuyển biến tư tưởng,

từ nhận thức đến hành động theo mục tiêu chính trị đề ra.
Ngồi trình độ, năng lực, phương pháp trình bày ra thì BCV cần phải có
phẩm chất, đạo đức, lối sống gương mẫu. Điều đó sẽ làm tăng thêm uy tín và
hiệu lực lời nói của BCV trước quần chúng. BCV phải kết hợp được cả lời nói
đi đơi với việc làm. Tức là, BCV khơng chỉ tuyên truyền đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến người nghe mà còn


21

phải gương mẫu chấp hành và tự giác thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nếu BCV mà phẩm chất, đạo đức, lối sống
chưa gương mẫu thì tuyên truyền đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước... quần chúng sẽ khơng nghe, thậm chí dẫn tới
phản tác dụng.
E.A.Nơgin cho rằng "thế giới quan mácxít, niềm tin cộng sản, trình độ
lý luận chính trị cao là hạt nhân của cấu trúc nhân cách của cán bộ tuyên
truyền, cán bộ cổ động, đồng thời cũng là tiền đề khách quan cơ bản của sự
thành công trong hoạt động của họ" [49, tr.24].
M.I.Ca-li-nin khi bàn về giáo dục cộng sản có sự so sánh:
Thế giới quan cộng sản chủ nghĩa đối với những chiến sĩ cách mạng
cũng giống như ống kính thiên văn vô cùng to lớn của nhà thiên văn
học, hoặc giống như cái kính hiển vi của các nhà nghiên cứu trong
phịng thí nghiệm. Đối với nhà chính trị, với người làm công tác xã
hội, thế giới quan cộng sản chủ nghĩa mang lại cho họ khả năng
hiểu biết đúng đắn, tồn diện hồn cảnh mà trong đó họ làm việc,
khả năng tổ chức quần chúng và dẫn dắt quần chúng vào cuộc đấu
tranh [49, tr.24-25].
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay Đảng ta đang tiếp tục thực hiện
việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong đó có

Đảng bộ Thanh Hố. Qua sơ kết hai năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/BCT, đã
rút ra bài học kinh nghiệm trong đó phải làm tốt cơng tác tuyên truyền, giới
thiệu về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục đích của việc "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" và tuyên truyền, giới thiệu tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ BCV. Bởi BCV có
hiểu và thấm nhuần tư tưởng, tấm gương, đạo đức của Bác thì khi trình bày
mới xúc cảm, mới lay động lịng người, làm chuyển biến từ nhận thức đến
hành động của quần chúng. Đồng thời, Cấp uỷ chọn những BCV ngoài chất


22

lượng nhận thức đáp ứng yêu cầu tuyên truyền còn phải có phẩm chất, đạo
đức, lối sống gương mẫu trước quần chúng mới phân công tuyên truyền các
chuyên đề tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Báo cáo viên cũng là một nghề nhưng khơng phải ai có trình độ, năng
lực, phương pháp tốt là làm được nghề này mà còn phải là người gương mẫu.
Bởi tuyên truyền không chỉ tuyên truyền bằng lời nói, bằng ngơn ngữ của
thơng tin chính trị, xã hội mà cịn tun truyền bằng chính tấm gương người
tốt việc tốt, trước hết là tấm gương của chính BCV.
Thứ tư, việc chuẩn bị đề cương tuyên truyền (bài nói) của BCV sẽ quyết
định đến hiệu quả hoạt động.
Đây là công việc cực kỳ quan trọng của BCV. Chuẩn bị đề cương bài
nói chu đáo, đầy đủ nội dung, thông tin là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả
của buổi tuyên truyền. Đối với BCV có kiến thức uyên bác thì chỉ cần chuẩn
bị bố cục khái qt cịn nội dung thơng tin cụ thể thì đã được tích luỹ trong tư
duy của BCV. Tất nhiên là những người đạt trình độ như thế thì họ đã nghiên
cứu nhiều, đọc nhiều, hiểu rộng và có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động
tuyên truyền miệng nhưng những BCV có được như thế không nhiều.
Do vậy, chất lượng của buổi tuyên truyền phụ thuộc vào việc chuẩn bị

đề cương của BCV. BCV chuẩn bị đề cương chi tiết thành bài, kể cả những ví
dụ minh hoạ cũng như dẫn chứng tư liệu cụ thể, rõ ràng là rất cần thiết. Trong
quá trình chuẩn bị đề cương, BCV lưu ý trước hết là phải đúng. Tức là nội
dung thông tin phải đúng quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và cụ thể. Thông tin phải trúng, nghĩa là nói những điều mà
người nghe cần quan tâm, cần hiểu sâu vấn đề gì. Ngày nay, trình độ dân trí
của người nghe được nâng cao. Do đó, thơng tin của BCV phải chắt lọc, cô
đọng, phong phú, nhiều vấn đề, có khi phải đi sâu vào nguồn gốc, diễn biến,
xu hướng phát triển. Đồng thời khi chuẩn bị đề cương bài nói, BCV phải dự
kiến cả những vấn đề mà sau khi trình bày nội dung, người nghe có thể hỏi,


23

có thể chất vấn và dự kiến nội dung trả lời sẽ giúp BCV không bị động và
lúng túng trong buổi tuyên truyền. BCV nên chuẩn bị đề cương đa dạng
phong phú, dài hơn thời gian dự kiến trình bày. Ngồi ra BCV cịn phải chuẩn
bị đề cương chi tiết cả phần mở đầu và kết thúc bài nói. Phần mở đầu bài nói
cực kỳ quan trọng, là phần dọn đường cho những phần tiếp theo sẽ được trình
bày. Mở bài buổi nói chuyện làm cho người nghe phải chú ý, hứng thú để lắng
nghe những nội dung tiếp theo. Cho nên phần mở đầu phải được chuẩn bị
công phu với những từ cô đọng, ngắn gọn và đi thẳng vào bài. Phần kết thúc
buổi nói chuyện của BCV là phần rất quan trọng. Nếu buổi nói chuyện đã tốt
rồi thì phần kết thúc gây ấn tượng sẽ tăng thêm giá trị nội dung của buổi
thuyết trình.
Như vậy, BCV chuẩn bị đề cương chi tiết, đầy đủ nội dung và nội dung
được chọn lọc kỹ, đồng thời BCV cũng phải tích hợp kiến thức rộng ở nhiều
lĩnh vực để khi trình bày nội dung có thể mở rộng, phân tích sâu, so sánh, đối
chiếu làm cho người nghe dễ hiểu và nắm được nội dung cốt lõi của buổi nói
chuyện. Ngược lại, BCV chuẩn bị đề cương sơ sài, thông tin thiếu sự chọn lọc

và khi trình bày khơng mở rộng vấn đề sẽ làm hoạt động tuyên truyền miệng
của BCV đạt hiệu quả rất thấp.
1.2. BIỂU HIỆN CỦA SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN CẤP CƠ SỞ

1.2.1. Nội dung báo cáo phải phù hợp đối tượng và
yêu cầu thực tiễn
Hoạt động của đội ngũ BCV cấp cơ sở là chuyển tải các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến trực tiếp với cán bộ, đảng
viên và nhân dân, chính cán bộ, đảng viên và nhân dân là người tổ chức và
thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cơ sở là
địa bàn rộng, dân số đông, giao thông đi lại khó khăn cho nên thơng tin đến
với cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thời gian qua không đầy đủ, kịp thời,


24

thiếu tính hệ thống và thường xuyên, nhất là chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Thực tế khẳng định rằng, đội ngũ BCV
cấp cơ sở vẫn là lực lượng nòng cốt, chủ yếu của cấp uỷ cơ sở trong việc
tuyên truyền, đưa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Do vậy, quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động của đội ngũ BCV cấp cơ sở hiện nay là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng
trong việc chuyển tải các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân ở cơ sở.
Xuất phát từ thực trạng là một quốc gia có đa dân tộc, đa vùng miền.
Do vậy, phản ánh rõ tính đa dạng và phong phú về phong tục, tập quán, thói
quen, nhận thức cũng như sự phân bố về mặt địa giới hành chính, đó chính là
sự không đồng nhất trong sự thống nhất. Vậy nên, cần phải căn cứ vào từng

đối tượng cụ thể để có sự điều chỉnh nội dung báo cáo sao cho phù hợp. Nếu
đối tượng là cán bộ ở cơ sở thì vấn đề phân định đối tượng cịn có những nét
tương đồng, ít nhất là về phạm vi địa giới hành chính, dân tộc, phong tục, tập
qn, thói quen, quan điểm, trình độ nhận thức, v.v.. Đối với những đối tượng
là đảng viên và nhân dân với sự đa dạng về trình độ, thành phần, ngành
nghề... thì vấn đề điều chỉnh nội dung gắn lý luận với thực tiễn trong báo cáo
là không dễ.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn biểu hiện qua sự phù hợp của
nội dung với từng đối tượng cụ thể không chỉ dừng lại ở việc dành cho một
nội dung cố định với tất cả các đối tượng người nghe mà còn cần phải được
điều chỉnh sao cho phù hợp với từng đối tượng người nghe cụ thể. Cho nên,
về mặt nội dung đòi hỏi BCV cần phải chú ý chuẩn bị bài nói cho phù hợp với
từng đối tượng người nghe cụ thể, kể cả những đối tượng có sự giao thoa giữa
các vùng, miền, khu vực khác nhau, trình độ nhận thức, trình độ chun mơn
khác nhau. Đồng thời, qua đây cho thấy tầm quan trọng của việc phân chia


25

đối tượng ngay từ đầu sẽ tạo rất nhiều thuận lợi cho việc chuẩn bị nội dung
bài nói. Chẳng hạn như khi tổ chức học tập nghị quyết hay báo cáo chuyên đề
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nếu chúng ta biết sàng lọc đối tượng
người nghe như: đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn thành một
đối tượng; đảng viên là nông dân và nhân dân thành một đối tượng thì nội
dung báo cáo sẽ đạt được mục đích cao hơn, tránh được sự cứng nhắc, xơ
cứng trong suốt buổi học tập.
Một thực trạng khá phổ biến hiện nay là khả năng nắm bắt, xử lý thơng
tin, liên hệ thực tiễn, tính nhạy cảm linh hoạt và năng động trong việc huy
động và sử dụng thông tin tri thức các khoa học khác phục vụ công tác tuyên
truyền miệng của BCV cấp cơ sở chưa tốt. Nói cách khác, khả năng xử lý

thơng tin ở BCV cấp cơ sở còn thấp. Thực tế cho thấy, khơng ít BCV vẫn
dừng lại ở dạng phổ biến thơng tin chính trị, xã hội. Mặc dù đa số BCV có
trình độ tư duy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cơ bản và nắm
được nội dung cơ bản của chỉ thị, nghị quyết. Song, BCV lại yếu trong vận
dụng kiến thức lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc thơng tin từ
các khoa học khác mà họ tích luỹ được để vận dụng phân tích, lý giải làm sâu
sắc thêm, sinh động hơn các nội dung trong các chỉ thị, nghị quyết đã nêu.
Hoặc ngược lại chưa chọn lọc thông tin thực tiễn sinh động để dẫn chứng phù
hợp với nội dung, lơgíc của vấn đề trong bài nói.
Ngược lại, một bộ phận BCV cấp cơ sở hiện nay có khả năng trong việc
tiếp nhận thông tin đa chiều. Song, khả năng khái qt hố, trừu tượng hố,
liên kết thơng tin, chắt lọc thơng tin cịn hạn chế. Do đó, khi tun truyền
miệng, BCV dẫn chứng nhiều thông tin nhưng chưa phân biệt được cái mới
với chỉ thị, nghị quyết, cái mới với cái hợp nội dung trình bày. Nên kết quả là
bài tun truyền khơng khắc phục được tính lạc hậu mà cịn tạo ra sự rối loạn
giữa các thơng tin, phức tạp, khó hiểu gây tâm lý ức chế trong nhận thức đối
với người nghe.


×