Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động định tội danh đối với tội mua bán trái phép chất ma túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.22 KB, 116 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




Trần Mạnh Hà





một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt
động định tội danh đối với tội Mua bán
trái phép chất ma túy




luận văn thạc sĩ








Hà nội - 2011




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



Trần Mạnh Hà





một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt
động định tội danh đối với tội Mua bán
trái phép chất ma túy

Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 60 38 40


luận văn thạc sĩ



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Cao Thị Oanh


Hà nội - 2011


MụC LụC



Trang

Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


Lời Mở Đầu
1

Ch-ơng 1: MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về TộI MUA BáN TRáI PHéP
CHấT MA TúY Và ĐịNH TộI DANH TộI MUA BáN TRáI
PHéP CHấT MA TúY
8
1.1.
Một số vấn đề lý luận về tội Mua bán trái phép chất ma tuý
8
1.2.
Một số vấn đề lý luận về định tội danh
26
1.3.
Một số vấn đề lý luận về định tội danh tội Mua bán trái phép chất

ma túy
35

Ch-ơng 2: ĐịNH TộI DANH TộI MUA BáN TRáI PHéP CHấT MA TúY
THEO PHáP LUậT HIệN HàNH Và THựC TIễN áP DụNG
40
2.1.
Định tội danh đối với các hành vi mua bán trái phép chất ma tuý
theo quy định pháp luật hình sự hiện hành
40
2.2.
Định tội danh đối với các tr-ờng hợp đồng phạm trong tội mua bán
trái phép chất ma túy
48
2.3.
Định tội danh đối với hành vi biến t-ớng của tội Mua bán trái phép
chất ma tuý
57

Ch-ơng 3: MộT Số GIảI PHáP NÂNG CAO CHấT LƯợNG ĐịNH TộI
DANH ĐốI VớI TộI MUA BáN TRáI PHéP CHấT MA TúY
78
3.1.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về chất ma tuý
78
3.2.
Hoàn thiện các quy định khác của pháp luật về tội Mua bán trái
phép chất ma túy
86
3.3.

Nâng cao chất l-ợng công tác định tội danh tội Mua bán trái phép
chất ma túy của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
95

KếT LUậN
99

những công trình liên quan đến luận văn đã đ-ợc công bố
101

DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO
102


LờI Mở ĐầU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm về ma tuý trên thế giới
và khu vực Đông Nam á diễn biến rất phức tạp. ở Việt Nam, nếu như trước
đây chất ma tuý chủ yếu là thuốc phiện, cần sa - những thứ được trồng và sản
xuất ngay trong nước bằng hình thức thô sơ, thủ công thì ngày nay, chủng loại
ma tuý đã phát triển đa dạng hơn và được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến
hơn như: Estamin, Estasy, Hồng phiến, Ketamine, Methamphetamin, Nữ
hoàng đen, Hoàng hậu đỏ đặc biệt là loại heroin từ nước ngoài (chủ yếu là
Lào) vào Việt Nam ngày càng nhiều. Từ đó, địa bàn Việt Nam dần trở thành
khu vực trung chuyển ma tuý của các tổ chức tội phạm quốc tế cũng như
trong nước sang các nước khác và dần được coi là thị trường tiêu thụ có tiềm
năng. Nghiêm trọng hơn, Việt Nam đã xuất hiện nhiều vụ án sản xuất và điều
chế ma tuý, như vụ Trịnh Nguyên Thủy cùng 31 đồng phạm đã sản xuất hơn
44kg heroin tại Hà Nội; Vụ Tạ Thị Hiền cùng hơn 12 đồng phạm sản xuất ma

túy tổng hợp dạng "đá" (Ketamine) và ATS bằng các loại thuốc chữa cảm
như: Decolgen, Panadol mục đích để đi tiêu thụ trên địa bàn thành phố Hà
Nội.
Theo quy luật cung - cầu, ở đâu có nhu cầu, ở đó có hàng cung ứng.
Đối với chất ma tuý, người tiêu thụ thường xuyên, đều đặn và chung thuỷ
nhất chính là các đối tượng nghiện chất ma tuý. Hiện nay, số người nghiện
chất ma tuý trong xã hội nước ta ngày càng tăng cao. Nói một cách khách
quan, số người nghiện chất ma tuý ở nước ta chưa bao giờ giảm, thậm chí nó
còn tăng dần theo thời gian. Cụ thể là một bộ phận tầng lớp thanh, thiếu niên
trong xã hội hiện nay nghiện chất ma túy hoặc đã sử dụng chất ma túy và tình
trạng này có xu hướng ngày càng phát triển. Do đó, để cung ứng được lượng

2
ma tuý lớn như vậy cho các đối tượng sử dụng chất ma túy ở thị trường trong
nước, những người phạm tội đã tìm mọi cách có được ma túy để bán. Đó có
thể là mua lại ma túy của những người khác ở trong nước để bán, hoặc thậm
trí mua từ nước ngoài về để bán, và gần đây nhất đã xuất hiện nhiều vụ sản
xuất ma túy để cung cấp cho nhu cầu sử dụng thường xuyên, đều đặn hàng
ngày của các đối tượng nghiện.
ở nước ta hiện nay, nhìn chung về mặt phương tiện khoa học, kỹ thuật
hiện đại để sản xuất ra các loại ma tuý được tinh chế như: heroin, Ketamin,
Methamphetamin, ma tuý tổng hợp dạng ATS… là chưa có. Các vụ án sản
xuất trái phép chất ma túy được phát hiện đều là sử dụng những phương tiện
thô sơ, tự tạo để sản xuất ma túy, nên số lượng ma túy mỗi lần thu được
không nhiều, hoặc có thể phải bỏ đi toàn bộ nếu sản xuất sai quy trình, dẫn
đến lợi nhuận được hưởng không cao, trong khi khả năng bị phát hiện là
lớn… Từ những lý do đó, các đối tượng phạm tội chủ động khai thác nguồn
ma túy từ những nước lân cận, bởi chúng vừa rẻ, lợi nhuận cao lại vừa mất ít
công sức và khả năng sinh lời là chắc chắn hơn. Vì vậy, nguồn ma tuý chính
để bán ra thị trường trong nước vẫn chủ yếu là nhập lậu từ nước ngoài về,

trong đó tùy từng quốc gia mà nhập lậu chuyên về một loại ma túy riêng. Ví
dụ: Trung Quốc chuyên về ma túy tổng hợp dạng ATS, Ketamine; Lào
chuyên về heroin; Campuchia chuyên về heroin và cần sa. Số ma tuý này sẽ
được các đầu mối mang đến các địa phương để bán, và những đô thị lớn như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng sẽ được chọn là trung tâm tiêu
thụ chính. Xuất phát từ tính chất của ma tuý là người nghiện bị lệ thuộc vào
ma tuý và phải thường xuyên sử dụng hàng ngày, nên nhu cầu tiêu thụ ma tuý
rất cao và số lượng ma tuý được tiêu thụ nhìn chung là đều đặn. Do đó, trong
các tội về ma tuý như tội: sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép
các chất ma tuý thì tỷ lệ phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý chiếm cao
nhất so với tổng các tội phạm về ma tuý.

3
Trước tình hình đó, công tác đấu tranh phòng chống tội mua bán tráI
phép chất ma tuý ngày càng đối mặt với những thủ đoạn tinh vi, những hình
thức biến tướng đa dạng của hành vi bán trái phép chất ma tuý, hay những
vấn đề mới phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến những
khó khăn cho các cơ quan tố tụng trong việc đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này. Thực tiễn cho thấy, có những có hành vi không thể xử lý được
bằng pháp luật hình sự vì thiếu văn bản hướng dẫn thi hành. Hoặc có hành vi
có thể xử lý được bằng pháp luật hình sự, nhưng phải xử lý về một loại tội
phạm khác không phải là tội phạm ma tuý, làm giảm tính nghiêm khắc của
pháp luật đối với loại tội phạm này. Thêm vào đó, về mặt lý luận, xung quanh
vấn đề xác định có phạm tội hay không phạm tội, phạm tội mua bán trái phép
chất ma tuý hay phạm tội khác vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau giữa các nhà áp dụng pháp luật, đặt ra nhiều vướng mắc đòi hỏi
khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết. Do đó, việc xác định tội danh là
vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự nói chung
và trong hoạt động định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
nói riêng. Bởi suy cho cùng, tất cả các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đều

nhằm đạt mục đích cuối cùng là xử lý người phạm tội đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm. Nếu việc định tội không
chính xác, sẽ kéo theo một loạt hậu quả pháp lý to lớn mà trước hết là đối với
người bị định tội sai đó, như: xử lý oan người vô tội, hoặc để lọt tội phạm;
hay từ việc định tội danh sai, dẫn đến việc áp dụng hình phạt nhẹ hơn hoặc
nặng hơn đối với người phạm tội. Ngoài ra, hậu quả nữa của việc định tội
danh sai là làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, làm giảm lòng tin của
quần chúng nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước trong công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và trong công cuộc phòng, chống tội phạm
Mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng.

4
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn trong hoạt động định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma
tuý", mang tính cấp thiết không những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của
thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội Mua bán trái phép chất ma tuý là tội phạm có tính phức tạp cao,
đã được một số nhà luật học đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam,
tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1998; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật,
Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Bình
luận khoa học BLHS của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997).
Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội Mua bán trái phép chất
ma tuý được tiếp tục đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc
gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học
BLHS 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn

Luyện, LS. Ths. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Ths. Nguyễn Sĩ
Đại, Ths. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001
Ngoài ra, còn có các công trình khoa học khác cũng đã nghiên cứu đến
tội Mua bán trái phép chất ma tuý, như: Luận án "Đấu tranh phòng chống tội
phạm ma tuý ở Việt Nam" của TS. Nguyễn Tuyết Mai; Luận án "Hoạt động
phòng ngừa các tội phạm về ma tuý của lực lượng cảnh sát nhân dân" của
TS. Vũ Quang Vinh; Luận án "Hoàn thiện khung pháp luật hình sự đối với tội
phạm về ma tuý ở Việt Nam" của TS. Nguyễn Minh Đức; Luận án "Trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma tuý trong luật hình sự Việt Nam"

5
của TS. Phạm Minh Tuyên; Luận án "Hoạt động phòng ngừa và điều tra tội
phạm về ma tuý của lực lượng công an cấp huyện" của TS. Ngô Đại Tuấn;
Luận án "Phát hiện và khám phá tội phạm vi phạm quy định về quản lý, sử
dụng tiền chất, thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác của lực lượng
cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý" của TS. Ngô Văn Tuân.
Các công trình nêu trên trong góc độ nào đó đã đề cập đến các dấu
hiệu của tội Mua bán trái phép chất ma túy, tình hình công tác đấu tranh,
phòng chống và trách nhiệm hình sự đối với loại tội này… tuy nhiên chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về việc định tội
danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội Mua bán trái phép chất ma tuý, nêu ra những giải pháp
mang tính hệ thống làm cơ sở cho hoạt động định tội danh đối với loại tội
phạm này, góp phần nâng cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng,
chống tội Mua bán trái phép chất ma túy nói riêng và các loại tội phạm ma túy
nói chung.
* Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ khái niệm "Định tội danh". Phân biệt khái niệm "Định tội
danh" với "Định tội".
- Xây dựng khái niệm "Chất ma túy" là đối tượng thuộc sự điều chỉnh
của pháp luật hình sự.

6
- Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội Mua bán trái phép
chất ma tuý trong BLHS năm 1999, từ đó đưa ra khái niệm về tội "Mua bán
trái phép chất ma túy".
- Phân biệt các dấu hiệu đặc trưng của tội Mua bán trái phép chất ma
tuý với tội phạm ma tuý khác để nhận biết khi định tội danh.
- Nêu ra một số trường hợp có dấu hiệu chuyển hóa, biến tướng của
hành vi mua bán trái phép chất ma tuý hiện đang xảy ra trong thực tiễn. Từ
đó, đưa ra giải pháp xử lý phù hợp nhất khi định tội danh.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác định tội
danh tội Mua bán trái phép chất ma tuý.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn
trong hoạt động tố tụng liên quan đến việc định tội danh tội Mua bán trái phép
chất ma tuý trong tình hình hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả có sử dụng các phương pháp: hệ
thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, tổng hợp, so sánh
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
xây dựng được khái niệm chất ma túy trong luật hình sự; làm rõ các dấu hiệu
pháp lý của tội Mua bán trái phép chất ma túy và từ đó đưa ra khái niệm về
định tội danh đối với tội này. Ngoài ra, tác giả đã xây dựng một khái niệm

7
định tội danh chung cho cả hai dạng: chính thức và không chính thức, một
khái niệm định tội danh riêng của dạng chính thức; nêu ra những cơ sở lý luận
để chỉ ra được sự khác nhau giữa "định tội" và "định tội danh", giúp các cơ
quan tố tụng nhận thức rõ hơn về vấn đề này trong hoạt động thực tiễn. Đáng
lưu ý, tác giả đã làm rõ những vấn đề còn bất cập, vướng mắc trong việc định
tội danh đối với một số hành vi biến tướng của tội Mua bán trái phép chất ma
túy trong thực tiễn hiện nay. Qua đó, đưa ra những kiến nghị, đề xuất khắc
phục cũng như đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm
pháp luật liên quan đến công tác này.
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp kiến nghị của luận văn có ý
nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
Mua bán trái phép chất ma tuý trong giai đoạn hiện nay. Thông qua kết quả
nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp một phần vào việc
phát triển lý luận trong lĩnh vực luật hình sự, luật tố tụng hình sự cũng như
trong công cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm có tính nhạy cảm và
phức tạp này.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội Mua bán trái phép chất ma
túy và định tội danh tội Mua bán trái phép chất ma túy
Chương 2: Định tội danh tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo
pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh đối với

tội Mua bán trái phép chất ma tuý



8

9
Chương 1
MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về TộI MUA BáN TRáI PHéP
CHấT MA TúY Và ĐịNH TộI DANH TộI MUA BáN
TRáI PHéP CHấT MA TúY

1.1. Một số vấn đề lý luận về tội Mua bán trái phép chất ma tuý
1.1.1. Khái niệm "chất ma túy" trong luật hình sự Việt Nam
Trong khoa học, chất ma túy có đặc tính vừa là chất độc, vừa là chất
gây nghiện, làm cho người sử dụng có thể bị ảnh hưởng đến tính mạng nếu sử
dụng quá liều lượng; hoặc bị lệ thuộc (nghiện) khi sử dụng nhiều lần, dẫn đến
những cơn vật vã, đau đớn về thể xác, làm mất ý chí, mất tính người và là
nguyên nhân của nhiều loại tội phạm xảy ra trong xã hội, nhằm để thỏa mãn
cơn nghiện của mình. Chính vì vậy, việc quản lý chất ma túy được thống nhất
chỉ có duy nhất một chủ thể độc quyền - đó là Nhà nước.
Hiện nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói chung
quy định về "chất ma túy" là rất nhiều. Tuy nhiên, để nêu lên định nghĩa thế
nào là "chất ma túy" thì có 2 văn bản chính thức như sau:
- Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi năm 2008),khoản 1,
Điều 2 quy định về chất ma túy: "1. Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất
hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành".
- Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà
án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định của

Chương XVIII "Các tội phạm về ma túy" của BLHS 1999 (gọi tắt là Thông tư
17), mục 1.1 phần I định nghĩa về chất ma túy: "1.1. Chất ma túy là các chất
gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy
do Chính phủ ban hành".

10
Với quy định nêu trên, cả 2 văn bản đều có định nghĩa giống nhau về
chất ma túy, đó là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong
các danh mục do Chính phủ ban hành. Hiện nay, danh mục các chất ma túy
được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ ban
hành các danh mục chất ma túy và tiền chất;
- Nghị định số 133/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 của Chính phủ, bổ
sung vào danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban hành kèm Nghị định số
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ;
- Nghị định số 163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 của Chính phủ về
sửa tên, bổ sung, chuyển, loại bỏ một số chất thuộc danh mục các chất ma túy
và tiền chất, ban hành kèm Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001
của Chính phủ;
- Nghị định số 17/2011/NĐ-CP ngày 22/02/2011 của Chính phủ về bổ
sung, sửa tên chất, tên khoa học đối với một số chất thuộc danh mục các chất
ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày
01/10/2001 của Chính phủ và Nghị định số 163/2007/NĐ-CP ngày
12/11/2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 67/2001/NĐ-CP
ngày 01/10/2001.
Như vậy, với những văn bản nêu trên, định nghĩa thế nào là "chất ma
túy" đã được làm rõ, và các chất ma túy cụ thể thì cũng được quy định tại
danh mục do Chính phủ ban hành. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là: "chất ma
túy" theo định nghĩa của Luật phòng, chống ma túy và "chất ma túy" trong
Thông tư 17 quy định có phải lúc nào cũng là đối tượng của các tội phạm về

ma túy trong luật hình sự hay không?

11
Về lý luận, định nghĩa "chất ma túy" theo Luật phòng, chống ma túy và
Thông tư 17 đã bao hàm đầy đủ, chỉ ra cụ thể thế nào là chất ma túy và các
chất ma túy này đương nhiên là đối tượng phạm tội của các tội phạm về ma
túy. Nhưng trong thực tiễn, có những trường hợp nếu áp dụng đúng định
nghĩa "chất ma túy" như Luật phòng, chống ma túy và Thông tư 17 quy định
thì lại không giải quyết được vụ án, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành
tố tụng. Cụ thể như: Theo mục 1.4 phần I Thông tư 17 quy định: "Trong mọi
trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám
định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất." Theo
hướng dẫn này, tất cả các trường hợp thu được chất nghi là ma túy, thì đều
phải giám định để xác định đó có phải là ma túy hay không, sau đó lấy kết
quả giám định làm căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Vấn đề
bất cập ở đây là trong Thông tư 17 cũng như trong các văn bản hướng dẫn
luật khác, không quy định cụ thể mức độ hàm lượng chất ma túy là bao nhiêu
thì xử lý hình sự, còn bao nhiêu thì không xử lý hình sự. Nếu chỉ cần xác định
có thành phần ma túy trong chất đưa đi giám định là xử lý hình sự thì hiện
nay trong cuộc sống hàng ngày, có rất nhiều thực phẩm, đồ tiêu dùng, thuốc
chữa bệnh, cây công nghiệp có chất ma túy. Ví dụ: Trong nước uống Coca
cola có thành phần cocaine; trong thuốc lá có thành phần nicotine Tuy
nhiên, hàm lượng cocaine trong nước uống Coca cola, nicotine trong thuốc lá
là hàm lượng nhỏ, ở mức cho phép, nếu sử dụng liều lượng nhỏ sẽ không gây
tác hại lớn đến cơ thể, nên được sử dụng rộng rãi, phổ biến, nhưng phải có
khuyến cáo (ở các bao thuốc lá, các doanh nghiệp sản xuất phải khuyến cáo
thuốc lá có hại cho sức khỏe). Vậy, nếu chỉ cần xác định có chất ma túy trong
thành phần giám định, kết luận đó là ma túy và khởi tố điều tra thì hiện nay sẽ
có rất nhiều đối tượng bị xử lý hình sự, mà tập trung chủ yếu là các doanh

nghiệp kinh doanh nước uống, thuốc lá, dược phẩm. Việc khởi tố này sẽ gây

12
tâm lý hoang mang cho người dân, gây bất ổn trong thị trường kinh doanh và
sẽ dẫn đến sự phản ứng tiêu cực từ phía người dân.
Hoặc trường hợp cơ quan điều tra thu giữ được tang vật và giám định
trong đó có chất ma túy, nhưng do hàm lượng thấp nên không có căn cứ xử lý
hình sự được. Điển hình là vụ án sau:
Ngày 26/3/2007, Công an huyện Thạch Thất phối hợp với Cơ quan
điều tra - Công an tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) tiến hành kiểm tra, phát hiện
21 hộ dân ở xã Tiến Xuân và Đông Xuân thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình
trồng cây cần sa với diện tích gần 4.000m
2
. Qua đấu tranh, xác định người
thuê trồng cây cần sa là ông Hồ Hữu N và anh Lê Quang V - cán bộ Viện
Khoa học nông nghiệp Việt Nam. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, nơi
làm việc đối với ông Hồ Hữu N và anh Lê Quang V, thu giữ 98kg hạt cây
"lanh mèo" (họ của cây cần sa). Kết luận giám định số 724/C21 ngày
13/4/2007 của Viện KHHS - Bộ Công an kết luận:
"Các hạt thực vật trong các mẫu ký hiệu số 01, 02, 03, 04 gửi giám
định đều chứa thành phần Delta9 - THC, tổng trọng lượng và hàm lượng
trung bình trong các mẫu như sau:
Mẫu ký hiệu
Trọng lượng
Hàm lượng
Mẫu số 1
22.731gam
0,12%
Mẫu số 2
17.493gam

0,09%
Mẫu số 3
2.871gam
0,11%
Mẫu số 4
17.637gam
0,17%
Delta9 - THC nằm trong danh mục các chất ma túy".
Trong vụ án này, mặc dù thu giữ được hạt cây cần sa tại nơi làm việc,
đối tượng cũng thừa nhận việc cất giữ số hạt cần sa đó (nhằm mục đích
nghiên cứu), giám định kết luận có thành phần chất ma túy trong hạt cây, tuy
nhiên các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn không thể khởi tố vụ án, khởi tố bị

13
can về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lý do không khởi tố vụ án là vì
hàm lượng chất ma túy trong hạt cây cần sa đó thấp, trong khi thực tế chưa có
văn bản nào quy định hàm lượng chất ma túy là bao nhiêu thì khởi tố hình sự,
bao nhiêu thì không khởi tố hình sự. Ngoài ra, theo Điều 194 BLHS quy định
thì chỉ các dạng ma túy sau mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đó là: "Nhựa
thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, lá, hoa, quả cây cần sa, lá cây côca, quả
thuốc phiện.". Như vậy, trong điều luật không quy định hạt cây cần sa, hạt cây
thuốc phiện là loại ma túy phải truy cứu trách nhiệm hình sự và tại mục 1.5
Phần II Thông tư 17 quy định: "Người nào mua bán trái phép cây có chứa
chất ma túy khi cây hoặc các bộ phận của cây có chứa chất ma túy là đối
tượng (chất ma túy) quy định tại Điều 194 của BLHS thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 của
BLHS". Do đó, Cơ quan điều tra đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, có thể thấy "chất ma túy" trong Luật phòng, chống ma túy và
"chất ma túy" - đối tượng tác động của tội phạm ma túy trong luật hình sự là
không đồng nhất. Khái niệm "chất ma túy" theo Luật phòng, chống ma túy

rộng hơn, có ý nghĩa chỉ ra thế nào là chất ma túy và liệt kê các chất ma túy
cụ thể. Còn "chất ma túy" là đối tượng tác động của tội phạm về ma túy thì
hẹp hơn, nó cũng là các chất ma túy nằm trong danh mục do chính phủ quy
định, nhưng nó đòi hỏi thêm một điều kiện là phải có "hàm lượng", "trọng
lượng" nhất định, lúc đó mới trở thành đối tượng tác động của tội phạm ma
túy được. Nếu không phân biệt được đặc điểm này, các cơ quan tiến hành tố
tụng sẽ rơi vào tình trạng bế tắc trong việc xử lý các trường hợp chất ma túy
có hàm lượng thấp như nêu trên.
Tương tự về đối tượng tác động của các tội phạm ma túy, liên hệ với tội
Trộm cắp tài sản, đối tượng tác động của tội này là tài sản, tuy nhiên phải là
tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, nếu tài sản
dưới 2 triệu đồng mà nhân thân người có hành vi trộm cắp chưa tiền án, tiền

14
sự, thì không phạm tội Trộm cắp tài sản. Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc
xử lý các tội phạm về ma túy được thuận lợi, đồng nhất cần ban hành văn bản
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Từ những phân tích trên cho thấy, cần phải xây dựng một khái niệm cụ
thể về "chất ma túy" là đối tượng tác động của các tội phạm ma túy và thuộc
pháp luật hình sự điều chỉnh, nhằm tránh xảy ra tình trạng bế tắc, vướng mắc
trong việc xử lý các loại tội phạm ma túy này. Theo quan điểm của chúng tôi,
có thể đưa ra khái niệm "chất ma túy" thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật
hình sự như sau: "Chất ma túy thuộc sự điều chỉnh của pháp luật hình sự là
các chất gây nghiện, chất hướng thần ở dạng tự nhiên hoặc dạng tổng hợp
có trọng lượng, thể tích, hàm lượng nhất định theo quy định của pháp luật".
1.1.2. Khái niệm tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Tại điểm b, mục 3.5 phần I Thông tư 17 hướng dẫn phần "Truy cứu
trách nhiệm hình sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội" như sau:
3.5. Trường hợp một người thực hiện một hoặc nhiều hành vi phạm tội
quy định trong một điều luật (Điều 194, Điều 195 và Điều 196 của BLHS) thì

cần phân biệt như sau:

b) Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội theo quy
định tại Điều 194 (hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS mà các hành vi
đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực
hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với tất cả các hành vi đó được thực
hiện theo điều luật tương ứng và chỉ phải chịu một hình phạt.
Ví dụ: Một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép
chất ma túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì
bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh là mua bán, vận chuyển tàng

15
trữ tiền chất dựng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 195 của
BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.
Như vậy, nếu theo tinh thần hướng dẫn nêu trên thì tội Mua bán trái
phép chất ma túy còn có thể có tên gọi là "Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép chất ma túy". Điều này là không hợp lý, sẽ dẫn đến khó khăn cho các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt
đối với các hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.
Trước hết, cần xác định tội Mua bán trái phép chất ma túy là một tội
độc lập, được các nhà làm luật xây dựng chung trong một điều luật - Điều 194
của BLHS, bên cạnh các tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, Vận chuyển trái
phép chất ma túy và Chiếm đoạt chất ma túy. Do đó, sẽ không có tội "Tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy", mà đây chỉ là tên của điều luật
quy định 4 tội danh khác nhau nằm trong cùng một điều luật. Việc các nhà
làm luật xây dựng điều luật này (Điều 194 BLHS) là nhằm thực hiện chính
sách hình sự, còn thực tiễn không có một tội danh nào có đầy đủ tên là "Tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy".
Thực tế tại Chương VII A "Các tội phạm về ma túy" của BLHS 1985,

sửa đổi bổ sung năm 1997, từ các Điều 185c đến Điều 185e đều quy định
từng điều tương ứng với từng tội danh: Tàng trữ trái phép chất ma túy, Vận
chuyển trái phép chất ma túy, Mua bán trái phép chất ma túy và Chiếm đoạt
chất ma túy. Như vậy, ngay từ khi bắt đầu xây dựng và ban hành các điều luật
về tội phạm ma túy, các nhà làm luật đã phân biệt từng tội danh cụ thể tương
ứng với từng hành vi phạm tội, và không hề có tội "Tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép ma túy" trong BLHS.
Về mặt thực tiễn, việc phân biệt các tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy được thông qua mục đích phạm tội, bởi các tội này đều
không cần xét đến nguồn gốc ma túy do đâu mà có: nếu mục đích là để bán

16
thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy; nếu
mục đích để sử dụng hoặc không phải để bán, vận chuyển, sản xuất thì truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; nếu mục đích
để chuyển dịch ma túy từ nơi này đến nơi khác, không phải để bán, sử dụng,
sản xuất thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Vận chuyển trái phép chất ma
túy (thông thường mục đích của tội này là vận chuyển thuê để kiếm tiền).
Bên cạnh đó, tại mục 3.3 phần II Thông tư 17 hướng dẫn về tội Mua
bán trái phép chất ma túy như sau:
3.3. Mua bán trái phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây:
a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy
cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ
thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán lấy chất
ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;

e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một
trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ điểm a
đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua
bán trái phép chất ma túy".

17
Trong thực tiễn, các cơ quan tố tụng luôn xác định mục đích cuối cùng
của tội phạm là gì để định tội danh đối với hành vi phạm tội đó và chỉ ra một
tên gọi duy nhất đối với hành vi phạm tội. Không nêu chung chung là tội
"Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy" rồi quyết định chung
cho các hành vi đó một hình phạt, để cuối cùng chẳng rõ người phạm tội đã
phạm tội gì? Hình phạt bị tuyên là tuyên về tội gì? Tội Tàng trữ trái phép chất
ma túy hay tội Vận chuyển trái phép chất ma túy hay tội Mua bán trái phép
chất ma túy
Theo quan điểm của Ths. Đinh Văn Quế, hành vi mua bán trái phép
chất ma túy là: "bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma túy để bán cho người
khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán lại trái
phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để đổi lấy
ma túy" [41, tr. 92].
Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 2) của trường Đại học luật
Hà Nội thì "hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái
phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào".[23, tr. 204].
Như vậy, nhìn chung các nhà khoa học và nhà làm luật đều có cùng
quan điểm về tội Mua bán trái phép chất ma túy là một trong những hành vi:
bán trái phép; mua, xin, vận chuyển, tàng trữ, sản xuất để bán hoặc dùng hàng
hóa để trao đổi lấy ma túy hay lấy ma túy để thanh toán hàng hóa. Nói cách
khác, tội Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán trái phép chất ma túy
cho người khác (không phụ thuộc nguồn gốc ma túy do đâu mà có) hoặc hành

vi trao đổi ma túy như một hàng hóa có giá trị. Bên cạnh đó, các hành vi đồng
phạm với hành vi bán ma túy cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Mua
bán trái phép chất ma túy.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm tội Mua bán trái
phép chất ma túy như sau: "Mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi bán,

18
trao đổi trái phép chất ma tuý cho người khác, hoặc hành vi tổ chức, xúi
giục, giúp sức cho người khác trong việc bán, trao đổi chất ma tuý mà
không cần xét đến nguồn gốc chất ma tuý do đâu mà có".
1.1.3. Những dấu hiệu pháp lý của tội Mua bán trái phép chất ma tuý
a. Dấu hiệu khách thể của tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Khách thể của tội Mua bán trái phép chất ma túy là chế độ độc quyền
và thống nhất quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Việc Nhà nước
độc quyền và thống nhất quản lý các chất ma túy là dễ hiểu bởi các tác hại, độ
nguy hiểm của nó cho xã hội là rất lớn. Nếu sử dụng chất ma túy vào mục
đích tốt như: khoa học, công nghiệp, y tế thì nó lại trở thành vật hữu ích, có
lợi cho con người. Ngược lại, nếu sử dụng các chất ma túy vào mục đích xấu,
như: nhằm thỏa mãn cơn nghiện, những vui thú sa đọa thì nó lại trở thành
vật nguy hại cho xã hội, là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm, thậm trí nó còn
hủy hoại cả nhiều thế hệ con người, hủy hoại tương lai của đất nước. Ngoài
ra, do tính nguy hại của ma túy đối với xã hội lớn như vậy nên việc kiểm soát
nó cần phải có một hệ thống các cơ quan hữu quan từ trung ương đến địa
phương, từ ngành Dược đến ngành Công nghiệp, từ Hải quan đến Công an
có mối liên hệ mật thiết trong việc quản lý, kiểm soát các chất ma túy. Chính
vì vậy, để kiểm soát được các chất ma túy này, không một chủ thể nào có điều
kiện, có phương tiện, có nhân lực. hơn Nhà nước, bởi Nhà nước là chủ thể
duy nhất có đầy đủ hệ thống các cơ quan quản lý toàn diện từ cấp cơ sở đến
cấp trung ương và quản lý mọi mặt trong lĩnh vực đời sống xã hội.
Về đối tượng tác động của tội Mua bán trái phép chất ma túy: Hiện nay

trong các tội phạm tại Chương XVIII "Các tội phạm về ma túy" của BLHS
chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội mà chất ma túy
và tiền chất ma túy được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban
hành. Đối với các chất ma túy chưa có trong danh mục do Chính phủ ban

19
hành thì không xem xét xử lý và việc xác định có phải là ma túy hay không
thì phải có kết luận giám định của cơ quan chuyên môn. Theo quy định tại các
văn bản pháp luật hiện hành, đối tượng tác động của tội Mua bán trái phép
chất ma túy chỉ là các chất ma túy (là các chất gây nghiện, chất hướng thần
được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành). Còn
các loại tiền chất ma túy thì không phải là đối tượng của tội Mua bán trái phép
chất ma túy, nó chỉ là đối tượng của tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc
chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, quy định
tại Điều 195 BLHS. Do đó, cần lưu ý và phân biệt rõ về đối tượng tác động
của tội phạm trong trường hợp này.
Ngoài ra, cũng để xác định đối tượng tác động của tội Mua bán trái
phép chất ma túy, mục 1.1 phần I Thông tư 17 quy định như sau:
"1.1. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy
định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành. Trong đó, cần
phân biệt các trường hợp sau:
a) Đối với các chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch (như
dung dịch thuốc phiện, dung dịch hêrôin dùng để tiêm, chích) hoặc chất ma
túy ở thể lỏng đó được pha loãng để tiện cho việc sử dụng thì không coi toàn
bộ dung dịch này là chất ma túy ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng
moocphin trong dung dịch để tính trọng lượng của chất ma túy đó;
b) Đối với xái thuốc phiện thì không coi là nhựa thuốc phiện mà phải
xác định hàm lượng moocphin trong xái thuốc phiện để tính trọng lượng của
thuốc phiện".
Ngoài ra, khoản 6 Điều 2 Luật phòng, chống ma túy năm 2000 còn

quy định về cây có chứa chất ma túy là: "6. Cây có chứa chất ma tuý bao gồm
cây thuốc phiện (cây anh túc), cây cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa

20
chất ma tuý do Chính phủ quy định". Đây cũng là quy định để các cơ quan
tiến hành tố tụng áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Trong vấn đề xác định chất ma túy - đối tượng tác động của tội mua
bán trái phép chất ma túy, cần lưu ý điểm như sau: Điều 2 Luật phòng, chống
ma túy năm 2000 quy định:
"1. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.
3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo
giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người
sử dụng.
4. Tiền chất là các hoá chất không thể thiếu được trong quá trình
điều chế, sản xuất chất ma tuý, được quy định trong danh mục do Chính
phủ ban hành.
5. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh
được quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này".
Như vậy, từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 2 Luật phòng chống ma túy năm
2000 ngoài việc giải nghĩa thế nào là chất ma túy, chất gây nghiện, chất
hướng thần và thế nào tiền chất, thì tại khoản 5 còn giải nghĩa về thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần. Theo quy định này, thuốc gây nghiện, thuốc hướng
thần tuy có thành phần chất gây nghiện, chất hướng thần trong đó nhưng là
thuốc chữa bệnh, nên không phải là đối tượng tác động của tội Mua bán trái
phép chất ma túy. Tuy nhiên, cũng là thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần
nhưng nếu người mua thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần đó bán lại cho đối

tượng nghiện nhằm mục đích để sử dụng thỏa mãn nhu cầu về ma túy thì lúc
này, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần đã trở thành đối tượng tác động của

21
tội Mua bán trái phép chất ma túy. Để hướng dẫn rõ điều này, tại mục 3.5
phần II Thông tư 17 đã quy định:
"3.5. Chất gây nghiện, chất hướng thần là chất ma túy; còn thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần là để chữa bệnh (chỉ chứa một hàm lượng nhất định
chất ma túy) và được quản lý theo quy chế quản lý dược phẩm của Bộ Y tế.
Người nào không thuộc đối tượng quy định tại Điều 201 BLHS mà vi phạm
trong việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc gây nghiện, thuốc
hướng thần nhằm mục đích kinh doanh thuốc chữa bệnh hoặc để chữa bệnh
thì bị xử lý hành chính hoặc thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội
phạm tương ứng khác không phải là tội phạm về ma túy (ví dụ: tội kinh doanh
trái phép, tội buôn lậu). Trường hợp sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán
thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu về sử
dụng trái phép chất ma túy cho mình hoặc cho người khác thì bị xử lý về tội
phạm ma túy tương ứng (nếu thỏa mãn điều kiện về trọng lượng chất ma túy
theo quy định của pháp luật)".
Như vậy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần có thể có hoặc có thể
không là đối tượng tác động của tội mua bán trái phép chất ma túy, tùy theo
mục đích của hành vi mua bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần đó. Điều
này các cơ quan tiến hành tố tụng cần phân biệt, làm rõ ý thức, mục đích của
đối tượng trước khi khởi tố vụ án, nhằm tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
b. Dấu hiệu khách quan của tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Tại mục 3.3 phần II Thông tư 17 hướng dẫn về tội Mua bán trái phép
chất ma túy như sau:
3.3. Mua bán trái phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây:
a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy

cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;

22
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ
thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán lấy chất
ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;
e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một
trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ điểm a
đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Mua
bán trái phép chất ma túy".
Như vậy, theo hướng dẫn nêu trên, hành vi khách quan của tội Mua bán
trái phép chất ma tuý có 3 nhóm hành vi chính, đó là:
- Thứ nhất: Nhóm hành vi "Bán" trái phép chất ma tuý (gồm các điểm
a, b, c, e, g mục 3.3, phần II, Thông tư 17): Hành vi này có thể là mua, xin,
trộm cắp, cướp giật, chiếm đoạt, nhặt được nhưng đều nhằm mục đích để bán.
Tóm lại, không cần xét đến nguồn gốc ma tuý do đâu mà có, chỉ cần có hành
vi bán trái phép chất ma tuý cho người khác là đã cấu thành tội này. Kể cả
hành vi bán hộ ma tuý thì cũng thuộc nhóm hành vi "bán" trái phép chất ma
tuý.
- Thứ hai: Nhóm hành vi "Trao đổi" trái phép chất ma tuý (gồm các
điểm d, đ mục 3.3): Việc trao đổi chất ma tuý này có thể là đổi ma tuý để lấy
tài sản của người nhận ma tuý (việc trao đổi có thể ngang giá hoặc không
ngang giá), hoặc có thể là dùng ma tuý để thanh toán khoản nợ, trừ nợ.
Trường hợp này cũng không cần xét đến nguồn gốc ma tuý.

×