Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Vấn đề toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở ở ngoại thành hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.25 KB, 94 trang )

1
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vn hoỏ l thành quả của hàng ngàn năm lao động sáng tạo, đấu tranh
kiên cường, dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Là
kết quả giao lưu và tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Văn hoá
Việt Nam đã hun đúc lên tinh thần, khí phách, bản lĩnh vượt qua nhiều khó
khăn, thử thách khắc nghiệt chiến thắng các thế lực ngoại xâm để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Để có được điều đó là do dân tộc Việt Nam có một nền văn
hoá lâu đời, phong phú và rất giàu bản sắc. Nhiều giá trị văn hoá đã được các
thế hệ con người Việt Nam sáng tạo, kế thừa và phát huy, đúc kết thành truyền
thống văn hoá dân tộc, trở thành động lực tinh thần to lớn giúp dân tộc Việt
Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong các cuộc đấu tranh chống giặc
ngoại xâm để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của
dân tộc.
Văn hoá vốn là một hoạt động thuộc thế giới người nói chung và
cũng là đặc trưng của mỗi một cộng đồng người nói riêng. Nó là điều kiện
sinh tồn của mỗi một con người, là thành tựu của các dân tộc, các quốc gia,
các cộng đồng và là cái để phân biệt cộng đồng người này với các cộng
đồng người khác, là tấm “thẻ căn cước” để xác định cá tính của từng dân
tộc trong cộng đồng nhân loại, là tấm giấy thông hành để mỗi quốc gia
được ngồi vào bàn hội nghị quốc tế và là thông điệp đưa các dân tộc xích
lại gần nhau trong một thế giới chung vì hồ bình, hữu nghị và vì những lợi
ích căn bản, lâu dài. Với sức mạnh sâu xa và mãnh liệt của mình, văn hố
vừa có thể liên kết toàn nhân loại thành một khối thống nhất, nhưng cũng
có thể là nguyên cớ cho những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn,
nguyên nhân của những xung đột dữ dội giữa các hệ thống xã hội, các châu
lục, các quốc gia và các tộc người.


2


Ở nước ta, trong những thập niên gần đây, văn hố cịn được khẳng
định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của
chiến lược phát triển đất nước. Trong xu thế toàn cầu hoá, giao lưu quốc tế
một mặt đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho sự phát triển về kinh tế,
chính trị, tạo ra những cơ hội để chúng ta giao lưu văn hố, quảng bá hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam ra thế giới, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình học tập, tiếp thu tinh hoa văn hố nước ngồi để phát triển
văn hố dân tộc. Tuy nhiên, trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay chúng ta buộc
phải chấp nhận, trên một phương diện nào đó, sự hồ nhập, giao thoa về mặt
văn hố. Do đó, nếu khơng được định hướng một cách đầy đủ, sẽ dẫn đến
nguy cơ bị hoà tan, mất bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế tồn cầu hóa
hiện nay.
Trước thách thức đó, việc “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là một trong những nhiệm vụ quan
trọng được Đảng ta nêu ra trong Cương lĩnh năm 1991, cho đến Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII Đảng ta đã ban hành Nghị
quyết riêng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc”. Từ đây cho thấy cùng với nhu cầu hướng ra thế giới, tìm
hiểu và tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hoá của khu vực và trên thế giới thì
nhu cầu tìm hiểu về bản sắc văn hố dân tộc, khẳng định và phát huy các giá
trị văn hoá dân tộc luôn là một nhu cầu cần thiết. Đây chính là nhu cầu mang
tính “bản năng” vừa để tự vệ, vừa để phát triển văn hoá dân tộc dưới sự tác
động mạnh mẽ của q trình tồn cầu hố. Một trong những biện pháp lớn để
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc đã được nêu trong Nghị
quyết Trung ương năm khóa VIII đó là làm cho văn hố thấm sâu vào tồn bộ
đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con
người. Tức là phải xây dựng phát triển văn hóa từ cơ sở để làm bước đi ban



3
đầu cho mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) của Ban chấp hành
Trung ương Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong giai đoạn (2000 - 2012) cuộc vận động
“Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố” ở huyện Chương Mỹ thành
phố Hà Nội đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần vào thực hiện thắng
lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của huyện đề ra.
Trong những năm qua khắc phục và vượt qua mọi khó khăn, với tinh
thần tự lực, tự cường, Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trên địa
bàn huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội đã nỗ lực, đoàn kết, thống nhất và
đạt được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội. Phong trào “Xây dựng đời sống văn hoá” ngày càng được khẳng định rõ
vai trị, vị trí, khơng chỉ là vũ khí sắc bén của các cấp uỷ Đảng, chính quyền
mà còn là diễn đàn sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân, phong trào đã nhanh
chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đạt được những
kết quả khích lệ, góp phần củng cố, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, nền
tảng giá trị đạo đức, tinh thần truyền thống quê hương, ngăn chặn, đẩy lùi
những biểu hiện tiêu cực trong đời sống hàng ngày từ trong mỗi gia đình,
làng, xã khuyến khích người dân phát huy sức sáng tạo, hăng say lao động sản
xuất, xây dựng đời sống kinh tế - xã hội phát triển.
Hiệu quả của phong trào đem lại đó là: hàng nghìn lượt tấm gương tập
thể, cá nhân người tốt - việc tốt, gia đình văn hố, làng văn hố, cơ quan, đơn
vị văn hố là những điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước;
Xác định xây dựng “Người Hà Nội thanh lịch, văn minh” là một nội dung
trọng tâm của thành phố Hà Nội. Trong thời gian qua, đã triển khai bằng các
tiêu chí cụ thể, việc làm cụ thể: “Lời nói hay, việc làm tốt, phong cách đẹp”,
cụ thể hoá thành các quy ước, quy định trong thực hiện nếp sống văn minh



4
văn hóa, giao tiếp, ứng xử có văn hố tại gia đình và ngồi cộng đồng… đã
trở thành những nhân tố cơ bản trong xây dựng các mơ hình: Gia đình văn
hố, làng văn hố, cơ quan, đơn vị, trường học văn hoá.
Điều này một lần nữa chứng tỏ, xây dựng đời sống văn hố ở nói chung
và xây dựng đời sống văn ở huyện Chương Mỹ thành thành phố Hà Nội nói
riêng là một việc làm cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Xuất phát từ cơ sở lý luận và nhu cầu thực tiễn trên đây, tôi đã chọn đề
tài: “Vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở huyện Chương Mỹ - thành phố
Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp hệ cao học chuyên ngành
triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Quan điểm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và của Đảng ta
Vấn đề văn hóa và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất quan tâm. Từ năm 1947, hai năm sau ngày Cách mạng
Tháng Tám thành công tại chiến khu Việt Bắc, với bút danh Tân Sinh, Người
đã viết tác phẩm Đời sống mới, dưới hình thức hỏi - đáp làm tài liệu tuyên
truyền trong nhân dân. Từ đây, Người cũng chỉ rõ việc xây dựng đời sống mới
dành cho ba đối tượng chính là cá nhân - gia đình - làng. Như vậy có thể coi
Đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận
cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở ra đời sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
Kể từ đó, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở ln là mối quan
tâm của Đảng và Nhà nước ta, nó trở thành một nhiệm vụ xuyên suốt trong
quá trình phát triển đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V Đảng ta đã khẳng định:
Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng văn hoá là đưa văn hoá thâm
nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây



5
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm nhà máy, công trường,
nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an
nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã,
hợp tác xã, phường, ấp đều có đời sống văn hố [8, tr.101].
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã ban
hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết đã đánh giá thực trạng, đề xuất phương
hướng quan điểm chỉ đạo và nêu lên những giải pháp lớn để xây dựng và phát
triển văn hóa. Một trong những giải pháp lớn mà Nghị quyết Trung ương năm
đã đề ra đó là: Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi
đua yêu nước và phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.
Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khóa IX tiếp tục khẳng định: Chú
trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng
mơi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú.
Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và
nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội” [14, tr.107].
Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng một lần nữa khẳng định:
Đưa phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ
sở đi vào chiều sâu, thiết thực hiệu quả; xây dựng nếp sống trong
các gia đình, khu dân cư, cơ quan đơn vị doanh nghiệp, làm cho các
giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt của đời sống, được thể hiện
trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng và từng
con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại [15].
2.2. Các bài viết và cơng trình nghiên cứu của một số tác giả như:
- Đỗ Thị Tuyết: Vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở tại thành
phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay; luận văn Thạc sỹ

- Phạm Vũ Dũng: Hai chiều của hoạt động văn hóa ở cơ sở; Tạp chí
Cộng sản, số 22 - 2004, tr 63 - 67.


6
- Đỗ Kim Thịnh: Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn
hiện nay; Tạp chí Cộng sản, số 15 - 2004, tr. 32 - 37.
- Nguyễn Ngọc Quyền: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn đề
bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc; Tạp chí Triết học, số 11- 2004, tr 32 - 36.
- Nguyễn Hữu Thức: Về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa.
- GS Hồng Vinh: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở
nước ta.
Đó là những cơng trình ít nhiều đề cập đến những lĩnh vực khác nhau
của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của đời sống. Có thể thấy vấn đề xây
dựng đời sống văn hố đã có sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và các cấp
các ngành. Tuy vậy, cho đến nay vấn đề xây dựng đời sống văn hoá các huyện
của thành phố Hà Nội vẫn còn là một mảng trống cần được nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng xây dựng đời sống văn hoá ở huyện
Chương Mỹ thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hoá huyện Chương Mỹ
thành phố Hà Nội trong thời gian tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích làm rõ đời sống văn hóa và tầm quan trọng của việc xây
dựng đời sống văn hoá ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội hiện nay.
- Phân tích thực trạng xây dựng đời sống văn hoá ở huyện Chương Mỹ
thành phố Hà Nội hiện nay và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả việc xây dựng đời sống văn hoá ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội

trong thời gian tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Khảo sát vấn đề xây dựng đời sống văn hoá ở huyện Chương Mỹ thành
phố Hà Nội.


7
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội.
- Trong giai đoạn từ (2000 đến 2012).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
đời sống văn hóa mới XHCN.
- Quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước về văn hoá và xây dựng đời sống văn hoá hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả có sử dụng một số phương
pháp như: lịch sử và lơ gích, phân tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ khái niệm và nội dung về văn hóa và xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay.
- Luận văn đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả vấn đề xây dựng
đời sống văn hóa ở huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài góp phần làm sảng tỏ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hiện nay
Thành công của luận văn sẽ là một đóng góp có ý nghĩa sâu sắc cho q
trình xây dựng đời sống văn hố mới ở huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội

trong thời gian tiếp theo.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung
của luận văn gồm 2 chương, tiết.


8
Chương 1
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. VĂN HÓA VÀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

1.1.1. Khái niệm văn hóa
Lịch sử phát triển của văn hóa gắn với lịch sử phát triển lâu dài của con
người, khi con người xuất hiện tự khẳng định mình là người thì lịch sử văn
hóa cũng bắt đầu từ đó. So với lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa,
thuật ngữ văn hóa xuất hiện muộn hơn. Thuật ngữ văn hóa mới được ghi
trong các thư tịch cổ chỉ cách đây mấy nghìn năm. Đến thời cận đại từ văn
hóa mới trở thành một thuật ngữ khoa học.
Trong hoạt động sinh tồn và hoạt động giao tiếp của tất cả các dân tộc
trên thế giới hiện nay, văn hóa là một từ được sử dụng rộng rãi đến mức
không một lĩnh vực nào trong các quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần của
con người mà chúng ta khơng bắt gặp. Chúng ta thường nói về văn hóa ăn ,
văn hóa ở, văn hóa mặc, văn hóa lao động, văn hóa gia đình, văn hóa nghe
nhìn, văn hóa đọc… Trong ngôn ngữ thường ngày, sắc thái nhiều vẻ và ý
nghĩa đa dạng của từ văn hóa đã được thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, khoa học. xuất hiện trong các văn kiện, cương lĩnh chính trị của Đảng,
ln ln được báo chí sử dụng làm công cụ truyền đạt tư tưởng. Các nhà
khoa học xã hội và khoa học tự nhiên cũng thường xuyên dùng từ văn hóa để
chứng minh cho các luận chứng khoa học của mình. Ngày nay, văn hố là một

thuật ngữ được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong cuộc sống hàng ngày và
trong ngơn ngữ khoa học.
Khi văn hố trở thành sự quan tâm của nhiều người, trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học thì mỗi nhà khoa học khi triển khai


9
công việc nghiên cứu đều đưa ra quan niệm của mình về văn hố. Từ đó làm
nên tính đa nghĩa của khái niệm văn hố. Tính đa nghĩa của khái niệm văn
hố trước hết căn cứ vào tính nhiều mặt bao chứa trong nội hàm của khái
niệm, làm cho khái niệm này có khả năng đề xuất những phương hướng và
những nhiệm vụ khác nhau trong việc sử dụng nó. Chính Tổng Giám đốc
UNESCO, Federico Mayor, trong bài thời luận nhan đề Ban đầu và cuối cùng
là văn hóa, đọc trong buổi lễ phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa
(1988 - 1997) của Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 41, đã phải thừa nhận
rằng: Việc vạch ra bản chất của khái niệm văn hóa “khơng phải là một nhiệm
vụ dễ dàng. Ai nấy đều biết, rất khó định nghĩa văn hóa, có lẽ vì văn hóa định
nghĩa chúng ta nhiều hơn là chúng ta định nghĩa văn hóa” [42, tr.34-36]. Vì
vậy, để đi tới một quan niệm đầy đủ và toàn diện về khái niệm văn hóa chúng
ta hãy xem xuất xứ của nó.
Dựa theo sự nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học người Đức W.Vunđơ
(W.Wundt), thì từ văn hóa bắt nguồn từ một động từ tiếng Latinh là “colere”
sau chuyển thành “cultura”, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Từ đó thuật ngữ
agricultura là trồng trọt ngồi đồng, tức là nơng nghiệp. Về sau từ cultura
chuyển từ nghĩa trồng trọt cây cối sang vun trồng tinh thần, trí tuệ. Xixêrơn
(Cicéron năm 106 - 43 trước Cơng ngun) - nhà chính trị hùng biện thời La
mã có một thành ngữ nổi tiếng “Filosofia cultura animiest”, nghĩa là: Triết
học là văn hóa [sự vun trồng] tinh thần. Ở đây là nói về q trình giáo dục,
bồi dưỡng về mặt tinh thần, trí tuệ cho con người. Đó là văn hóa theo quan
niệm của người phương Tây nói chung.

Cịn người phương Đơng có quan niệm như thế nào về văn hóa? Ở
Trung Quốc, “văn hóa” là một danh từ kép do hai từ “văn” và “hóa” hợp
thành, trong đó “văn” có nghĩa là nét vẽ, là dáng dấp bên ngoài, là vẻ đẹp do
màu sắc tạo ra. Từ đó, “văn” có nghĩa là hình thức đẹp đẽ biểu hiện trước hết
ở lễ, nhạc, cách cai trị và đặc biệt là trong ngôn ngữ, sự giao tiếp… Chúng


10
hợp thành một hệ thống quy tắc ứng xử được xem là đẹp đẽ, chuẩn mực. Cịn
“hóa” có nghĩa là biến hóa, biến đổi, cảm hóa, hóa sinh, hóa thành. Khi ghép
hai từ đó lại với nhau thì “văn hóa” có nghĩa là việc làm cho trở thành đẹp. Và
từ lâu nó đã được người Trung Quốc quan niệm: “Văn” là những cái tốt đẹp
của cuộc sống đã được đúc kết. “Hóa” là đem cái đã đúc kết ấy hóa thân trở
lại cuộc sống, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Văn hóa được hiểu theo nghĩa
văn trị, giáo hóa, là chế độ lễ nhạc, điển chương, là cách thức cai trị mang
hình thức đẹp đẽ kết hợp với giáo hóa.
Quan niệm về văn hóa ở mỗi quốc gia, châu lục có khác nhau song
quan niệm đó đều thống nhất chung ở một điểm là khi nói về văn hóa là nói
đến sự giáo dục, bồi dưỡng, là trí tuệ, là cái hay, cái đẹp. Hay nói cách khác
văn hóa là thể hiện tính Chân - Thiện - Mỹ và văn hóa chỉ có ở con người.
Chính vì thế mà khơng có thuật ngữ nào được nhân loại ưu ái cấp cho
nhiều định nghĩa như danh từ văn hóa. Theo thống kê năm 1925 của hai nhà
nhân loại học người Hoa Kỳ là A.L.Cơrơbơ (A.L.Kroeber) và C.Cơlắckhơn
(C.Kluckhohn) thì từ năm 1871 đến năm 1919 có 7 định nghĩa; từ năm 1920 đến
năm 1950 có thêm 157 định nghĩa, nâng số lượng định nghĩa về văn hoá lên 164;
năm 1976, nhà văn hố học người Pháp Abraham Molé cho biết có 250 định
nghĩa; năm 1994 PGS Phan Ngọc nâng con số định nghĩa văn hoá lên 400. Và
cho đến nay đã có khoảng 500 định nghĩa về văn hố và số lượng định nghĩa vẫn
không hề dừng lại; cho nên nhà nghiên cứu ngôn ngữ người Pháp Jaques Derrida
phải thốt lên rằng: Văn hố chính là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn khơng

cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó. Hay nói như Mercier,
một nhà xã hội học người Pháp thì: thuật ngữ “văn hóa” giống như một tịa lâu
đài đa diện, mà mỗi nhà nghiên cứu chỉ tiếp cận có một mặt của nó nên đã dẫn
đến tình hình phức tạp trong cách hiểu khái niệm này.
Trong cuốn Văn hoá trong nhận thức duy vật lịch sử của C.Mác, tác giả
Nguyễn Huy Hoàng đã đề cập đến một số cách tiếp cận về văn hoá như: cách


11
tiếp cận giá trị học, cách tiếp cận nhân cách, cách tiếp cận hoạt động. Các cách
tiếp cận này đều xuất phát từ quan điểm duy vật về lịch sử của C.Mác để nghiên
cứu hiện tượng đa dạng, phong phú và phức tạp như hiện tượng văn hóa.
Cách tiếp cận giá trị học, xuất phát từ việc xem xét văn hoá như những
thành tựu của một bộ phận xã hội, như những thành quả của toàn xã hội. Cách
hiểu văn hoá như thế tất dẫn tới việc đồng nhất văn hoá với “thiên nhiên thứ
hai”. Khi coi văn hoá là “thiên nhiên thứ hai”, có nghĩa coi văn hố là một
những của cải khổng lồ do lao động con người làm ra. Mà lao động của con
người thường được xem xét dưới hai dạng chủ yếu: lao động chân tay và lao
động trí óc, vậy thì văn hố cũng có hai dạng chủ yếu: văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần. Từ đây cách tiếp cận giá trị học khẳng định: văn hoá là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do con người làm ra. Vấn đề là cách tiếp
cận này đã dùng khái niệm “giá trị”. Theo quan điểm của cách tiếp cận này thì
giá trị có thể được hình dung như mức độ chi phí sức lực cơ bắp và tinh thần
của con người để khai thác tự nhiên và xã hội. Và có lẽ từ đó, trong các loại từ
điển, sách chuyên sâu, các giáo trình cho đến báo chí đâu đâu chúng ta cũng
gặp khái niệm giá trị khi nói đến văn hoá.
Trong cuốn Từ điển triết học dưới sự chủ biên của M.M.Rơdentan,
chúng ta thấy viết như sau:
Văn hố - tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho

trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp
hơn, người ta vẫn quen nói về văn hố vật chất (kỹ thuật, kinh
nghiệm, giá trị vật chất) và văn hoá tinh thần (khoa học, nghệ thuật
và văn hoá, triết học, đạo đức, giáo dục...) [51, tr.656].
Hay như trong bài báo Một vài suy nghĩ về văn hoá của tác giả Nguyễn
Xuân Thu - người đã nhóm lửa cho cuộc tranh luận về văn hoá trên báo Văn
nghệ vào năm 1997 đã viết:


12
Trong số hàng trăm, hàng nghìn định nghĩa ấy, ngoại trừ những
khác biệt trong cách diễn đạt, phần lớn người ta đồng ý với nhau
rằng, văn hoá là một hệ thống của những giá trị được chấp nhận bởi
một nhóm người; một cộng đồng hoặc một đất nước và có thể học
hỏi và lưu truyền từ đời này qua đời khác [45, tr.3].
Trên cơ sở đó tác giả cũng cho rằng văn hoá bao gồm bốn yếu tố cấu
thành: 1. Các thông tục; 2. Các phong tục tập quán; 3. Các chế định xã hội; 4.
Pháp luật.
Nếu như cách tiếp cận giá trị học đã vạch ra giới hạn của đối tượng
nghiên cứu thì Cách tiếp cận hoạt động lại thâm nhập sâu vào trong giới
hạn đó và cho thấy xã hội luôn vận động và phát triển như một hệ thống.
Đời sống xã hội là một quá trình hoạt động không ngừng của những cá thể
sống buộc phải liên kết với nhau tạo nên các nhóm nhằm t ăng cường sức
mạnh hợp tác trong khi giải quyết các nhiệm vụ được đặt ra với sự giúp đỡ
của một hệ thống các phương tiện. Đặc trưng như thế của đời sống xã hội
đem lại cho chúng ta cơ sở để lựa ra các yếu tố quan trọng nhất: các chủ thể
hoạt động, các lĩnh vực và kết quả của hoạt động và cuối cùng là các
phương tiện đặc biệt của hoạt động người. Những nhân tố ấy trả lời các câu
hỏi: ai hoạt động, hoạt động hướng vào đâu và hoạt động như thế nào? Từ
chỗ thâm nhập sâu vào đời sống xã hội cách tiếp cận hoạt động đã đưa ra

định nghĩa văn hóa chính là các hình thức, phương thức hoạt động của con
người. Nhưng con người là một thực thể tộc lồi, vì thế các phương thức
hoạt động, các hình thức hoạt động một mặt phải được lưu truyền giữa
người với người theo cả không gian lẫn thời gian, mặt khác chúng phải
được biến đổi và mở rộng không ngừng để thể hiện sự phát triển con người
như một thực thể phổ quát.
Xuất phát từ hoạt động của con người, cụ thể là từ lao động, GS Phan
Ngọc nhận xét rằng, con người có một kiểu lao động riêng:


13
Anh ta tạo nên một sản phẩm theo cái mô hình trong óc anh ta.
Nghiên cứu sản phẩm ở ngồi cái mơ hình trong óc anh ta là chuyện
của khoa học, kỹ thuật, chính trị, kinh tế, pháp luật. Nghiên cứu cái
mơ hình trong óc anh ta là chuyện triết học, văn học, nghệ thuật.
Còn nghiên cứu mối quan hệ giữa cái mơ hình trong óc với cái mơ
hình anh ta đã tạo ra là chuyện của văn hoá học [35, tr.15].
Từ những phân tích trên, GS Phan Ngọc đã đi tới kết luận rằng:
Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá
nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá
nhân hay tộc người này mơ hình hố theo cái mơ hình tồn tại trong
biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là
văn hố dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa
chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá
nhân hay tộc người khác [35, tr.17].
Cách tiếp cận nhân cách. Ở một mức độ nào đó có thể coi cách tiếp cận
nhân cách đã tiếp tục phát triển cách tiếp cận giá trị và tiếp thu những thành
quả của cách tiếp cận hoạt động. Tuy nhiên, nếu như cách tiếp cận hoạt động
chỉ chú trọng đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thì cách tiếp cận
nhân cách lại quan tâm nhiều đến mối quan hệ giữa con người với con người

và trong sự thâm nhập sâu vào cái thiên nhiên thứ hai ấy nó đã khám phá ra
quan hệ xã hội chính là thực thể của văn hố và văn hố chính là sự hình
thành và phát triển nhân cách con người. Quy văn hoá vào con người, vào sự
phát triển lực lượng bản chất người, vào khả năng sáng tạo vô bờ bến của con
người, vào sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Bởi thế, văn hố khơng chỉ là một bộ phận trong hệ thống xã hội như
cách tiếp cận giá trị học đã giải thích, cũng khơng phải là chức năng của hệ
thống xã hội như cách tiếp cận hoạt động đã khẳng định. Văn hố chính là xã
hội, bởi vì nó bao trùm toàn bộ tổng thể các mối liên hệ và quan hệ xã hội


14
giữa những con người như những chủ thể của hoạt động. Văn hố khơng thể
tách rời hoạt động và sự sáng tạo của con người. Nó thể hiện mức độ mà con
người đã ý thức và khai thác những quan hệ của mình với tự nhiên, với xã hội
và với chính bản thân mình - những mức độ tự hiện thực hoá các sức mạnh
bản chất của con người. Văn hoá là sự minh chứng sống động mức độ phát
triển xã hội của con người, sự phong phú và tính tồn diện và tính phổ biển
của các mối quan hệ của nó về thế giới xung quanh và những người khác,
những khả năng của nó đã thể hiện sáng tạo và hoạt động tích cực. Vì vậy, có
thể nói rằng văn hố là mức độ tính người của con người, mức độ hình thành
như một thực thể xã hội phổ biến và hoạt động phổ biến… Con người gắn bó
với văn hoá bằng những mối liên hệ đa dạng. Là người sáng tạo, là chủ thể
của văn hoá, đồng thời con người cũng là kết quả chủ yếu của văn hoá. Biểu
lộ ở trong văn hoá những năng lực, hiểu biết, sức mạnh sáng tạo của mình,
con người đồng thời tìm thấy ở đó những vật liệu cần thiết để tiếp tục hồn
thiện và phát triển nhân cách của mình.
Cách hiểu văn hố theo góc độ nhân cách như thế đã được GS Đỗ Huy
tiếp tục phát triển trong hàng loạt các cơng trình của mình. Xem văn hố như
là q trình xã hội hố các quan hệ nhân tính, ông đã viết rằng: “Trên quan

niệm này thì đứa trẻ mới sinh ra chỉ mang tiềm năng nhân cách. Để trở thành
nhân cách nó phải “tắm mình” trong những quan hệ xã hội, những thành tựu
văn hoá, những chuẩn mực và những giá trị đạo đức pháp lý” [21, tr.12]. Nhìn
thấy mối quan hệ giữa văn hố và phát triển qua khái niệm “nhân cách”, giáo
sư tiếp tục chỉ ra rằng: “Văn hố về bản chất của mình là trình độ phát triển
cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong các quan hệ của con người. Quan tâm đến các
giá trị của các thế hệ con người vừa là bản chất của văn hoá, vừa là nội dung
của sự phát triển” [22, tr.22].
Tóm lại, điểm nổi bật nhất của tất cả các cách tiếp cận trên là bằng cách
này hay cách khác các tác giả đều cố gắng vận dụng những nguyên lý của triết


15
học mácxít làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của mình. Nếu như cách
tiếp cận giá trị học quy văn hoá vào thiên nhiên thứ hai - kết quả hoạt động và
sáng tạo của con người nhằm vạch ra ranh giới giữa xã hội và tự nhiên, thì
trong việc thâm nhập sâu vào thiên nhiên thứ hai ấy tiếp cận hoạt động hướng
đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, cách tiếp cận nhân cách lại chú
trọng đến mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình lịch sử…
Cần phải thấy rằng, những cách tiếp cận trên là những phương diện khác nhau
trong sự tìm kiếm bản chất của một hiện tượng đa dạng, phức tạp và phong
phú như hiện tượng văn hoá. Dù có những nét riêng của mình, nhưng tất cả các
cách nghiên cứu đều khẳng định: văn hoá là một hiện tượng xã hội và để hiểu
bản chất của nó thì khơng có con đường nào khác là phải nghiên cứu xem xét
văn hố trong chính sự chuyển động và phát triển của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, các cách tiếp cận cũng không
tránh khỏi những hạn chế nhất định như: đáng lẽ phải tìm kiếm văn hố trong
q trình chuyển động và phát triển khơng ngừng của đời sống xã hội đang
hướng tới chỉnh thể hữu cơ để thấy rằng văn hoá là một hiện tượng xã hội
mang tính tổng thể và phổ qt thì các cách tiếp cận ấy lại thường tuyệt đối

hoá hay tách biệt một giai đoạn, một phương diện nào đó của đời sống xã hội
đang chuyển động để rồi tìm kiếm bản chất của văn hoá trong các giai đoạn,
các phương diện đã được khu biệt ấy.
Do vậy, để hiểu bản chất của văn hố thì khơng có một con đường nào
khác là phải nghiên cứu xem xét nó trong chính sự chuyển động và phát triển
của đời sống xã hội và con người. Và không phải chỉ một hai thập kỷ gần
đây người ta mới nhìn thấy, mới chú trọng tới vấn đề văn hoá mà cách đây
gần hai thế kỷ trong phát kiến vĩ đại đầu tiên của C.Mác - nhận thức duy
vật lịch sử - văn hoá đã được C.Mác nghiên cứu, xem xét gắn với sự phát
triển của xã hội, của con người. Khi nghiên cứu xã hội C.Mác đã coi xã hội
là một chỉnh thể hữu cơ, trong đó có hai mặt: đời sống vật chất và đời sống


16
tinh thần. Đời sống vật chất làm cho con người tồn tại như một sinh thể,
còn đời sống tinh thần làm cho con người tồn tại như một sinh thể xã hội,
tức là một nhân cách văn hóa.
Ngay trong tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, lần đầu
tiên khái niệm “hình thái kinh tế - xã hội” được C.Mác sử dụng để thể hiện sự
vận động và phát triển của đời sống xã hội như một chỉnh thể hữu cơ. Từ đây
các khái niệm “quan hệ giữa con người với tự nhiên” và “quan hệ giữa con
người với con người” đã được triển khai và cụ thể hoá bằng những khái niệm
“lực lượng sản xuất” và “quan hệ sản xuất”. Mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo nên cơ sở cho sự hình thành và phát
triển của đời sống xã hội như một chỉnh thể. “Toàn bộ những quan hệ sản xuất
ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó xây
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, tương ứng với cơ sở
thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định” [26, tr.637].
Xem quá trình vận động, phát triển của đời sống xã hội như một quá
trình tự nhiên hướng đến chỉnh thể tức hình thái kinh tế xã hội, nguyên lý tính

chỉnh thể của C.Mác đã chỉ ra quá trình trao đổi chất của cơ thể xã hội với
mơi trường xung quanh bằng q trình sản xuất xã hội với tế bào đầu tiên của
cơ thể là hoạt động của con người. Bản chất hoạt động của con người là “nhào
nặn vật chất theo quy chuẩn của cái đẹp”. “Nhào nặn vật chất theo quy chuẩn
của cái đẹp” - đó chính là năng lực bản chất đặc thù chỉ có ở con người, gắn
với mọi hoạt động của con người. Bởi vậy, có thể nói, sự thể hiện, phát huy
những năng lực bản chất người - đó chính là văn hóa.
Xuất phát từ hoạt động của con người để xem xét đời sống xã hội, trong
tác phẩm Hệ tư tưởng Đức C.Mác đã chỉ ra ba mặt cơ bản hoạt động của con
người: sản xuất vật chất, sản xuất ý thức và sản xuất con người. Quá trình trao
đổi chất của đời sống xã hội chính là quá trình sản xuất và tái sản xuất cả ba
yếu tố này của hoạt động người.


17
Từ góc độ duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác trước tiên
quan tâm đến sản xuất vật chất, sản xuất các tư liệu sinh hoạt của con người.
Theo ơng “có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tơn giáo
hay bằng cái gì cũng được, nhưng bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với
súc vật ngay từ khi con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt, con người đồng thời cũng sản xuất chính
đời sống vật chất của mình” [27, tr.29]. Trong Bản thảo kinh tế - triết học
(1844) C.Mác nhấn mạnh:
Cố nhiên, con vật cũng sản xuất… nhưng con vật chỉ sản xuất cái
mà bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó sản xuất một cách
phiến diện, trong khi con người sản xuất một cách toàn diện; con vật
chỉ sản xuất và bị chi phối bởi nhu câu thể xác trực tiếp, còn con người
sản xuất ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc, và chỉ khi
khơng bị nhu cầu đó ràng buộc thì con người mới sản xuất theo ý
nghĩa chân chính của từ đó; con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn

con người thì tái sản xuất ra tồn bộ thế giới tự nhiên [28, tr.137].
Sự khác biệt về chất giữa hoạt động của con người và hoạt động của
con vật là ở chỗ, con vật chỉ hoạt động theo thước đo và nhu cầu giống lồi
của nó như là phương thức tồn tại vật cịn con người thì có thể sản xuất theo
thước đo của bất kỳ giống lồi nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo
thích dụng cho đối tượng, tạo nên sự khác biệt bản chất của phương thức tồn
tại người. C.Mác gọi những hoạt động sống của con người (trong đó C.Mác
nhấn mạnh “hoạt động sản xuất vật chất”) là những hoạt động có tính tộc lồi
của con người trong sự tồn tại phổ biến của nó, làm mở ra những lực lượng
bản chất của người. Đối với C.Mác, tất cả mọi hoạt động của con người là sự
đối tượng hố chính bản thân con người, hay nói cách khác là quá trình khám
phá và thể hiện khách quan “những lực lượng bản chất của con người”. Trong
quá trình hoạt động, con người đã khách thể hoá lực lượng bản chất của mình


18
vào thiên nhiên thứ nhất - thiên nhiên trinh bạch và đã tạo nên thiên nhiên thứ
hai (cái mà cách tiếp cận giá trị coi là văn hoá). Thế giới các đồ vật do con
người tạo nên từ công cụ sản xuất, đường sá, nhà cửa, máy móc, phương tiện
giao thông đến các thiết chế và tổ chức xã hội, nhà nước, pháp luật và ngôn
ngữ, các tác phẩm triết học, văn học nghệ thuật…chính là thân thể vơ cơ của
con người, thân thể vô cơ này không chỉ là kết quả hoạt động của con người,
mà còn là cái trung gian, cái liên kết con người theo cả không gian lẫn thời
gian, là cái hình thành con người như một nhân cách xã hội.
Khi khảo sát đời sống xã hội như một chỉnh thể hữu cơ, C.Mác đã chỉ
ra cho chúng ta thấy văn hố chính là cơ chế duy trì sự tồn tại, vận động và
phát triển của xã hội của con người. Trong đời sống xã hội chúng ta, bất cứ ở
đâu, bất cứ nơi nào, trong bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng hàm chứa văn
hoá. Văn hoá do con người và xã hội làm ra nhưng cũng chính văn hố đã tạo
nên xã hội và con người. Từ đây C.Mác đã cho chúng ta một cách nhìn hiện

đại: văn hố chính là cấp độ năng lượng của đời sống xã hội con người, là
nhân tố tổ chức nên đời sống xã hội, là lơgích của quá trình phát triển, là cơ
chế tổng hợp và phổ quát để hình thành, phát triển con người và xã hội.
Văn hố là một cơ chế hình thành, phát triển xã hội và con người nhưng
trước tiên đó là một cơ chế tổng hợp. Chính vì là một cơ chế tổng hợp như thế
của đời sống xã hội mà lúc thì ta thấy văn hố là tổng thể các giá trị vật chất
và tinh thần, lúc thì ta thấy văn hố là phương thức hoạt động, cơng nghệ hoạt
động, lúc thì xem văn hố chính là sự phát triển nhân cách của con người…
Không chỉ là một cơ chế tổng hợp, văn hố cịn là một cơ chế phổ quát. Bởi
lẽ, cơ chế đó tồn tại trên cơ sở tổng kết, đúc kết kinh nghiệm của hàng bao thế
hệ người trong lịch sử, trên cơ sở khái quát hoá những phương thức, những
hình thức, cách thức hoạt động và giao tiếp chung nhất, phổ biến nhất của con
người. Cũng nhờ có tính phổ qt nên văn hố đã làm cho con người, xã hội,
tự nhiên thống nhất với nhau, gắn bó với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ


19
trong tiến trình lịch sử. Như vậy, là một cơ chế tổng hợp và phổ qt nên văn
hố chính là cách thức vận động, cách thức phát triển, cách thức liên hệ phổ
biến để đời sống xã hội trở thành hệ thống hữu cơ, là cách “buộc toàn bộ các
nhân tố của đời sống xã hội phải tuân theo mình hay tạo ra từ mình những cơ
quan hãy cịn chưa có”. Với tư cách là những phương thức hoạt động và giao
tiếp phổ quát của con người, văn hoá đã liên kết, đã tổng hợp cả tự nhiên, xã
hội lẫn tư duy thành một trường hoạt động thực tiễn của con người, thành
“trường người”, đã liên kết thiên - địa - nhân thành một cộng đồng, thành một
quốc gia, thành một chủng tộc và thành một nhân loại. Với tư cách là một cơ
chế tổng hợp và phổ quát, văn hố thể hiện chính sự phát triển của xã hội,
chính sự phát triển của con người.
Như vậy, C.Mác cho rằng, văn hóa xuất hiện trong hoạt động thực
tiễn của con người, trong đó hoạt động đặc trưng cơ bản nhất là hoạt động

lao động sản suất và cải tạo xã hội, tức là văn hóa xuất hiện trong mối quan
hệ tương tác giữa con người với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân
mình. Văn hóa chính là trình độ người của các quan hệ đó. Chủ thể của văn
hóa chính là con người. văn hóa do con người tạo ra cho chính mình và con
người sử dụng cái do chính mình tạo ra là văn hóa để phát triển năng lực
bản chất người.
Quan niệm của C.Mác về văn hóa cịn cho thấy, văn hóa là cái thể hiện
sức mạnh xã hội trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Với tư
cách là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người, văn hóa khơng
chỉ là hoạt động lao động sản xuất nhằm tạo ra những vật phẩm thiết yếu cho
cuộc sống con người, mà còn là hoạt động tinh thần, tạo ra hệ giá trị nhân
đạo, nhân văn cho một cộng đồng xã hội và là kết tinh những giá trị tốt đẹp
nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và tự nhiên. Văn hóa là
lĩnh vực hoạt động tích cực của con người nhằm sản xuất và tái sản xuất ra
bản thân mình với tư cách là một thực thể xã hội.


20
Có thể nói, mặc dù C.Mác khơng để lại một tác phẩm nào với tư cách là
sự trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hóa. Văn hóa khơng
được C.Mác đề cập như một lĩnh vực chun biệt, độc lập. Nhưng toàn bộ tư
tưởng của C.Mác về vấn đề này tự nó lại được khái quát lên và thể hiện ra
trong hệ thống các quan điểm duy vật về lịch sử, về xã hội, về con người. Hay
nói cách khác, bản chất của văn hóa được thể hiện trong mối quan hệ biện
chứng với bản chất của con người và xã hội. Vì thế, khi các đảng cộng sản
vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin vào từng nước cụ thể, vấn đề văn
hoá nghiễm nhiên phải nằm trong sách lược và chiến lược của mình. Nhưng
vấn đề văn hố cịn được nhân đơi, bởi lẽ khi cụ thể hố chủ nghĩa Mác Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc, từng nơi có nghĩa là
phải cân nhắc đến tính đặc thù của lịch sử. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
đã nhiều lần nói rằng, các quy luật vận động và phát triển của lịch sử khác với

những quy luật vận động và phát triển của tự nhiên là ở chỗ chúng thơng qua
hoạt động có ý thức của con người. Như vậy nói tới tính đặc thù lịch sử là nói
tới phương thức hoạt động và giao tiếp của một cộng đồng người cụ thể, là
nói tới văn hố và bản sắc văn hoá của một dân tộc.
Tiếp thu một cách sáng tạo nhận thức duy vật lịch sử của C.Mác, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi tiếp cận với văn hóa cũng xuất phát từ con người. Vì
thế khi vạch ra chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lấy con người làm trung tâm, làm điểm xuất phát cho quá trình
nghiên cứu và hoạt động cách mạng của Người. Nhưng với Hồ Chí Minh, con
người ở đây không phải là một khái niệm trừu tượng và chung chung, con
người ở đây trước tiên là nhân dân lao động. Người khẳng định: “Trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân” [29, tr.431]. Trong Di chúc Người viết:
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên
toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Nhận xét về vấn đề này GS Đặng Xuân Kỳ đã cho rằng: “Văn hoá Hồ Chí


21
Minh là văn hoá của con người, do con người, vì con người… ở Hồ Chí Minh
văn hố chính là nhân hố” [25, tr.10].
Với tầm nhìn chiến lược Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có những con người xã hội
chủ nghĩa. Như vậy, với Người, văn hoá mới là nơi sản xuất, đào tạo, giáo dục ra
những con người mới, những con người xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế chiến
lược đầu tiên và quan trọng nhất của Hồ Chí Minh trong việc nhân hố hay sản
xuất những con người mới là diệt giặc dốt, giáo dục tồn dân. Trong một nước
nơng nghiệp lạc hậu, hơn 90% dân số cịn thất học thì việc thanh tốn nạn mù
chữ phải trở thành quốc sách. Đối với Hồ Chí Minh, dốt là giặc và việc chống
giặc dốt lại được đặt ngang hàng với chống giặc đói và chống giặc ngoại xâm.
Người cho rằng: “Dốt thì dại, dại thì hèn” [32, tr.64], “Một dân tộc dốt là một

dân tộc yếu” [30, tr.8]; sự ngu dốt này sẽ đẻ ra sự ngu dốt khác; "mỗi người phải
ra sức học tập, học suốt đời, cịn sống cịn học tập; học đi đơi với hành; học để
làm việc, học để làm người, học để làm cán bộ. Học để phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân loại” [31, tr.684]. Những luận điểm ấy của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
tầm vóc của chiến lược của giáo dục không chỉ trong những ngày đầu “trứng
nước” của một nhà nước non trẻ mà nó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình
cách mạng Việt Nam. Và cho đến ngày hôm nay khắp nơi trên đất nước Việt
Nam mọi người đều nhớ đến lời dặn dò của Người: “Vì lợi ích mười năm trồng
cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người” [33, tr.222]. Đó khơng chỉ là cách nói ví
von vần điệu, mà cịn chứa đựng cả triết lý sâu xa của Người. Vì mơi trường tự
nhiên trong sạch ta phải trồng cây, muốn môi trường xã hội trong sạch ta phải
quan tâm chăm sóc và giáo dục con người. Nhưng hơn thế nữa, đó cũng là quá
trình vận động và phát triển của khái niệm “văn hố” trong lịch sử: từ “cultura”
có nghĩa là canh tác, trồng trọt đến “culture” là chăm sóc, khai hố con người.
Trên cơ sở của triết lý nhân văn thành hành động ấy, Hồ Chí Minh đã
suy nghĩ về “ý nghĩa của văn hoá”:


22
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người sáng tạo
và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn [29, tr.431].
Đọc những dịng trên chúng ta khơng khỏi ngạc nhiên và bất ngờ. Ngạc
nhiên vì thấy tư tưởng và văn phong của Người gần gũi với C.Mác, bất ngờ vì
thấy những suy ngẫm của Người cũng rất hiện đại, hiện đại khơng kém gì

những lý luận của các chun gia về văn hố trong triết học mácxít của những
thập kỷ gần đây. Đối với Hồ Chí Minh trước tiên văn hố hiện lên như những
hiện tượng xã hội: ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Xuất phát từ quan điểm của C.Mác xem xét văn hoá như
một cơ chế tổng hợp và phổ quát của đời sống xã hội được thể hiện ở con
người đang hoạt động và giao tiếp để hình thành sản xuất vật chất, sản xuất tinh
thần và sản xuất con người - những bộ phận của đời sống xã hội như một chỉnh
thể. Cịn ở đây, trong tư tưởng của Người, đó chính là con đường từ các dạng
thức của văn hố quy hồi về khởi ngun của mình, từ ngơn ngữ, chữ viết (sản
xuất con người) qua đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo, văn hố nghệ thuật
(sản xuất tinh thần) rồi tới những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc,
ở và các phương thức sử dụng. Sự quy hồi đã đưa Người về tới khởi nguyên
của văn hoá: “mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và địi hỏi
của sự sinh tồn”. Nói theo ngơn ngữ khoa học hiện đại, Người đã thấy cội
nguồn của văn hoá từ những phương thức hoạt động và giao tiếp của con


23
người. Người đã thấy văn hoá là cơ chế tổng hợp và phổ quát để hình thành và
phát triển xã hội, con người, vì vậy để đổi mới xã hội, đổi mới con người cần
phải xây dựng nền văn hoá mới. Nền văn hóa mới theo Người là phải phục vụ
sự nghiệp đấu tranh của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Nền văn hóa đó phải
kế thừa những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống và mang những tính chất
dân tộc, khoa học, đại chúng. Một tư tưởng mang ý nghĩa nhân văn về văn hóa
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đó là: Văn hóa phải soi đường cho
quốc dân đi.
Tiếp thu tư tưởng về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã coi văn hóa là một trong ba mặt

trận. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa cũng quan trọng khơng thua kém
trên các lĩnh vực khác. Do đó, bên cạnh việc quan tâm phát triển kinh tế - xã
hội, Đảng ta đã khẳng định văn hóa chính là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là
động lực của sự phát triển xã hội.
Một trong những bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng trong chủ trương
xây dựng đường lối văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đó là Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII. Nghị quyết đã đánh giá thực trạng, đề xuất phương
hướng, quan điểm chỉ đạo và nêu lên những giải pháp lớn để xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam. Một trong những giải pháp lớn mà Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII đưa ra đó là: Mở cuộc vận động giáo dục chủ
nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào Tồn dân đồn kết
xây dựng đời sống văn hóa - tức là phát triển mạnh văn hóa từ cơ sở. Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII cũng nhấn mạnh rằng: “… cần tạo ra ở các đơn
vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp,
nơng trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội…), các vùng dân cư (đô
thị, nông thôn, miền núi) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu
văn hóa đa dạng và khơng ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân”. Từ đây,
có thể thấy phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là sự kế


24
tục, sự phát triển nối tiếp những kết quả đã đạt được của nhiều cuộc vận động
và các phong trào thi đua yêu nước trước đây, nổi bật nhất là cuộc vận động
xây dựng Đời sống mới, được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động ngay sau
Cách mạng Tháng Tám thành cơng. Tiếp đó là chủ trương của Đảng ta về tổ
chức, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được đặt ra từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ V (1981). Đây là những chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến
lược đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa, lối sống và con người phù hợp với
địi hỏi của đất nước trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể coi đây là bước đi ban đầu của sự

nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa
Năm 1947 - hai năm sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công ở
chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh Tân Sinh đã viết tác
phẩm Đời sống mới dưới hình thức hỏi - đáp làm tài liệu tuyên truyền trong
nhân dân. Từ đây, Người cũng chỉ rõ việc xây dựng đời sống mới dành cho ba
đối tượng chính là cá nhân - gia đình - làng. Như vậy, có thể coi Đời sống mới
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho việc xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ra đời sau Cách mạng Tháng Tám 1945.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở cũng có nghĩa là xây dựng đời sống
vật chất và tinh thần theo định hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
cơng bằng, văn minh. Chính vì vậy, Đảng ta đã coi trọng và đặt đúng vị trí
cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, coi đó là một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1981) đã xác định:
Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa
thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú
trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm nhà máy, công


25
trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang,
công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng,
mỗi xã, hợp tác xã, phường, ấp, đều có đời sống văn hóa [8, tr.101].
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII một lần nữa khẳng định quan điểm
chỉ đạo cơ bản “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” và đề ra phương hướng
…làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động
xã hội, vào từng người, từng gia đình từng tập thể và cộng đồng,

từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con
người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình
độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội [11, tr.59].
Từ đây có thể xác định được những nội dung cơ bản của việc xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở. Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung của vấn đề
chúng ta cần làm rõ một số khái niệm.
Khái niệm “đời sống văn hoá ở cơ sở” được kết hợp bởi hai khái niệm;
“đời sống văn hoá” và “cơ sở”.
Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống xã
hội là một phức thể những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng các
nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất được đáp ứng làm cho
con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu cầu tinh thần thì giúp con người
tồn tại như một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hoá. Hai nhu cầu cơ
bản này xuất hiện ngay từ khi con người hình thành về mặt giống lồi, tức là
buổi bình minh của xã hội loài người. Khi xã hội phát triển cao lên, đạt tới
trình độ phát triển tương ứng, từ hai nhu cầu cơ bản nêu trên hình thành nhu
cầu văn hoá.


×