MỞ ĐẦU
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một vấn đề chiến lược của Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, trong thời kỳ tiến hành Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, văn hóa được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội. Để trực tiếp thực hiện vấn đề này từ xã, ấp cho đến tận tổ
tự quản thì không gì khác hơn là làm tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đòi sống văn hóa” (TDĐKXDĐSVH). Đây là điểm nhấn trong công cuộc xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở, là bước tiếp xúc trực tiếp để toàn dân tham gia thực hiện
nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, tiến tới hoàn chỉnh hệ thống thiết chế văn
hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người
dân.
Xã Vĩnh Nhuận huyện Châu Thành là xã trọng điểm phát triển nông nghiệp
có diện tích nông nghiệp lớn nhất trong khu vực vùng trũng của Tứ giác (so với
các xã tứ cận) và được Tỉnh đánh giá là đầu mối giao thương của vùng tứ giác
trong tương lai, có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo, nhiều dân tộc cùng sinh sống.
Từ năm 2010 đến nay, Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” xã Vĩnh Nhuận đã thực hiện tốt 5 nội dung của phong
trào “TDĐKXDĐSVH” gắn với xây dựng Nông thôn mới (theo Kế hoạch của
UBMTTQVN và Sở VHTT&DL tỉnh AG thực hiện chương trình phối hợp số 12
ngày 29/9/2011 của Trung Ương MTTQVN và Bộ VHTT&DL) và kế hoạch của
Ban chỉ đạo huyện Châu Thành. Đã được công nhận các danh hiệu sau đây:
- Gia đình đạt chuẩn văn hóa:
+ Số hộ đăng ký Gia đình văn hóa (GĐVH) năm 2013: 30 hộ.
+ Số hộ công nhận GĐVH mới đến cuối tháng 11/2013 là: 73 hộ/ 30 hộ đạt
243% chỉ tiêu huyện giao.
+ Tổng số hộ đạt chuẩn GĐVH luỹ kế tính đến cuối tháng 11/2013 là: 1.653
hộ/1.834 hộ đạt 90,13%
+ Số hộ không đạt chuẩn : 181 hộ, chiếm 9,87% so với tổng số hộ.
+ Số hộ GĐVH tiêu biểu, xuất sắc: 1.246 hộ.
+ Số hộ GĐVH là người dân tộc Chăm, khmer: 24 hộ.
+ Số hộ GĐVH 3 năm và 5 năm liền: 1.407 hộ
+ Số hộ xây dựng hàng rào tính đến cuối tháng 11/2013 là: 1.281.hộ/1.834
hộ , đạt 69,85%. Số hộ chưa làm hàng rào là: 553hộ/1.834 hộ chiếm tỷ lệ 30,15%,
+ Số hộ làm cột cờ bằng ống tuýp sắt là: 1.451hộ/1.834 hộ, đạt 79,11.%, tính
lũy kế đến cuối tháng 11/2013 số hộ chưa làm cột cờ đúng quy cách là : 383 hộ/
1.834 hộ chiếm tỷ lệ 21%.
- Ấp đạt chuẩn văn hóa:
+ Toàn xã có 6/6 ấp đạt chuẩn ấp Văn hóa.
+ Số ấp đạt chuẩn 3 năm và 5 năm liền: 6 ấp
+ Tổng số ấp có xây dựng quy ước: 6 ấp văn hóa
Trang 1
- Xã đạt chuẩn văn hóa: Xã Vĩnh Nhuận đạt chuẩn xã văn hóa 6 năm liền.
- Cơ quan, trường học, doanh nghiệp, chợ trật tự vệ sinh đạt chuẩn văn hóa:
Xã có 4 cơ quan văn hóa, 5 đơn vị trường học văn hóa, 1 chợ trật tự vệ sinh
đạt chuẩn 5 năm liền.
- Tổng số gương người tốt, việc tốt tính đến cuối tháng 11/2013 là : 1.367
người.
- Phong trào thể dục thể thao:
+ Số người tham gia luyện tập thể dục thể thao (TDTT) thường xuyên: 1.883
người
+ Tỷ lệ % trên tổng số dân (số tròn 9.100 dân) là: 20,7 %.
Đảng bộ xã Vĩnh Nhuận nhiều năm liền được công nhận trong sạch vững
mạnh. Tuy nhiên thực trạng xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” ở huyện Châu Thành nói chung và xã Vĩnh Nhuận nói riêng hiện
nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm
túc để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng và nâng
chất phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” để phong trào tồn
tại và phát triển một cách bền vững trong thời gian tới.
Việc nghiên cứu thực trạng công tác xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” trong giai đoạn hiện nay và đề xuất các giải pháp
trong thời gian tới, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang tính thực tiễn, cấp
bách đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, nhất là phù hợp với
tiêu chuẩn nông thôn mới. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng
chất lượng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa hiện nay
ở xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành đến năm 2020” làm tiểu luận tốt nghiệp
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính niên khóa 2013.
Quá trình thực hiện đề tài này, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong được quý thầy cô giúp đỡ, chỉ dẫn và góp ý để tiểu luận đạt kết quả
tốt.
CHƯƠNG 1:
Trang 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG VĂN HÓA Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở:
Văn hóa là một khái niệm đa nghĩa. Văn hóa bắt nguồn từ tiếng la tinh
CULTURA, có nghĩa là canh tác, vun trồng, chăm sóc, cải thiện; lúc đầu có ý chỉ
cho sự vỡ đất, chăm bón đất đai, lao động công nghiệp. Nguồn gốc của từ văn
hóa có liên quan đến lao động, hoạt động tích cực cải tạo của con người đối với tự
nhiên. Về sau, từ này chuyển nghĩa nói về tính chất khai trí, có giáo dục, có học
vấn, sự phát triển các năng lực tinh thần của con người.
Có nhiều tài liệu định nghĩa: Văn hóa là tổng thể những thành tựu của xã hội
trong sự phát triển vật chất và tinh thần của nó, là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra.
Có tài liệu cho rằng văn hóa phải được hiểu 02 nghĩa, đó là nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần, văn hóa theo nghĩa hẹp bao gồm đời sống tinh thần. cách phân chia như trên
mang tính chất tương đối vì rằng trên thực tế, trong văn hóa tất cả mọi vật chất đều
có chứa đựng giá trị tinh thần và mọi cái tinh thần đều được thể hiện, được chứa
đựng trong cái vỏ vật chất.
Thông thường ta chỉ nói theo nghĩa hẹp tức là văn hóa tinh thần. Vậy, văn
hóa tinh thần là toàn bộ các giá trị tinh thần và đời sống tinh thần của xã hội trong
tính toàn vẹn và mối liên hệ hữu cơ giữa các yếu tố của nó. Các giá trị này đều
được thể hiện và chứa đựng trong những dạng vật chất, của cải vật chất, vật thể
văn hóa, nghệ thuật, hành vi ứng xử của con người…, chúng tạo nên một kiểu sinh
hoạt tinh thần nhất định ở một giai đoạn lịch sử nhất định, đánh dấu trình độ phát
triển tinh thần của một xã hội, một giai cấp hay một dân tộc nhất định.
Khái niệm văn hóa tinh thần không chỉ bao gồm sự sáng tạo, bảo quản, phân
phối, phổ biến và tiêu thụ sử dụng các giá trị tinh thần ấy. Văn hóa tinh thần cũng
cần có cơ sở vật chất của nó.
Định nghĩa trên đây thích hợp cho việc phân tích mối quan hệ giữa văn hóa
và kinh tế, văn hóa và chính trị, thích hợp cho việc tiến hành cách mạng tư tưởng
và văn hóa.
Trước đây, chúng ta hiểu văn hóa một cách phiến diện, xem văn hóa như
một lĩnh vực hẹp, thuộc sự quản lý của một Bộ hoặc một Ngành nào đó. Hoạt động
văn hóa thường khi được hiểu như một hoạt động mang tính thời vụ.
Thực chất văn hóa gắn với tất cả các hoạt động nhằm phát triển và hoàn
thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã hội, do vậy xây dựng đời sống văn hóa
ở các cơ sở là việc làm cần thiết.
Trang 3
Năm 1943, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về ăn mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa” và Bác còn viết tiếp “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với mọi biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hởi của sự sinh tồn” (Hồ Chí
Minh toàn tập. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội).
Nội dung xây dựng đời sống văn hóa được nhìn nhận theo nghĩa rộng, văn
hóa nằm trong mối quan hệ đa chiều với kinh tế, chính trị, pháp luật, môi trường và
thiết chế văn hóa, thể hiện quan điểm của Ðảng tại Ðại hội VIII: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội”. Ban Chỉ đạo yêu cầu cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung chỉ
đạo đẩy mạnh các phong trào chủ yếu như: Người tốt việc tốt và các điển hình tiên
tiến; Gia đình văn hóa; Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư; làng, bản, ấp, khu phố văn hóa; Công sở, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ
trang có nếp sống văn hóa và phong trào học tập, lao động sáng tạo.
1.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Nghị quyết TW V (khóa VIII) về văn hóa đã đưa ra giải pháp tháo gỡ
các vướng mắc còn tồn tại, đồng thời yêu cầu các cấp ủy Ðảng phát động phong
trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, huy động nhân dân và cả hệ
thống chính trị từ trên xuống, từ trong Ðảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể đến
ngoài xã hội tích cực tham gia và hướng vào cuộc thi đua yêu nước “Tất cả vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có thể nói, tư tưởng của
phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã bắt nguồn từ truyền
thống đoàn kết cộng đồng của dân tộc, từ tư tưởng “Không có sức mạnh nào bằng
sức mạnh đoàn kết toàn dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm đại đoàn kết
toàn dân tộc của Ðảng, đồng thời kế thừa thành quả của Cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” do Ủy ban TW MTTQ Việt Nam
phát động và được nâng lên về nội dung và tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh
của toàn dân “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã
hội”. Thực hiện Nghị quyết TW V (khoá VIII) nhằm thể chế hoá chủ trương của
Đảng bằng quyết sách cụ thể, ngày 21/4/2000, tại tỉnh Quảng Nam – Ban chỉ đạo
Trung ương phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá đã ra mắt.
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã trực tiếp chỉ đạo và thay mặt Chính phủ phát
động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
(TDĐKXDĐSVH) trong toàn quốc. Phong trào này kế thừa những thành tựu, kinh
nghiệm, kết quả đạt được từ các phong trào “Đời sống mới” (năm 1961), xây dựng
“gia đình văn hoá”, “làng văn hoá” (năm 1991) và phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” (năm 1995). Phong trào là sợi dây đan
Trang 4
kết các phong trào hiện có về xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Mục tiêu chung
của phong trào là: Đoàn kết xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống tốt đẹp; Đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá phong phú, lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Với 5 nội
dung cơ bản của Phong trào là: Phát triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng,
xoá đói giảm nghèo; Xây dựng tư tưởng chính trị lành mạnh; Xây dựng nếp sống
văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc theo pháp luật; Xây dựng môi trường
văn hoá sạch – đẹp – an toàn; Xây dựng các thiết chế về văn hoá – thể thao và
nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá thể thao cơ sở. Phong trào ngày càng
phát triển sâu rộng trên khắp các vùng, miền của đất nước; được các cấp uỷ Đảng,
chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; được các ngành, các đoàn thể hưởng ứng;
được các tầng lớp nhân dân đồng tình thực hiện. Do đó Phong trào đã có tác động
tích cực, sâu sắc, toàn diện đến nhiều lĩnh vực của đời sống, thực sự trở thành giải
pháp quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết TW V (khoá VIII).
Trên bình diện chung, phong trào đã gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế
và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương và các cơ quan, đơn vị doanh nghiệp.
Các chủ trương lớn của Ðảng như Chỉ thị 27-CT/T.Ư của Bộ Chính trị (khóa VIII)
về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Chính từ cuộc vận động
xây dựng phong trào đã hình thành nhiều điển hình văn hóa chứng tỏ “sức mạnh
nội sinh” của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự,
nâng cao chất lượng sống của con người. Phong trào đã có sức lan tỏa và phát triển
rộng trên toàn quốc đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của văn hóa
có tác động tích cực nhất, rõ nét nhất đối với sự phát triển so với các giai đoạn
trước. Chúng ta không nên đặt nặng vấn đề tăng trưởng kinh tế mà xem nhẹ văn
hóa; cần phải có một quan niệm đầy đủ, đúng đắn về văn hóa và sự phát triển.
Vì vậy, tìm hiểu và phân tích vai trò văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế,
xã hội là việc làm cần thiết để soi sáng thực tiễn. Cần phải khẳng định quan niệm:
Mục tiêu của sự phát triển là nhằm đến sự phát triển con người toàn diện, hướng
tới giá trị con người. Do đó sự phát triển con người toàn diện tức là sự phát triển
văn hóa , bởi con người là chủ thể sáng tạo văn hóa vừa là hiện thân của sự phát
triển văn hóa. Muốn phát triển bền vững phải xem văn hóa là động lực, là mục tiêu
và cũng là hệ giá trị góp phần điều tiết cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Xây dựng văn hóa là nâng cao năng lực con người, nguồn lực cơ bản cho sự
phát triển. Chúng ta đang phát huy hiệu quả các nguồn lực sẵn có tạo nên sức mạnh
tổng hợp, tác động tích cực đến sự phát triển xã hội. Tất cả các nguồn lực không
thể phát huy hiệu quả nếu không thông qua nguồn lực con người; như vậy nguồn
lực con người là cơ bản quyết định cho sự phát triển của đất nước.
Trang 5
Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, xây dựng một mẫu người với những
tiêu chuẩn nhất định, phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
V, BCH TW Đảng khóa VIII thì việc xây dựng con người Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay phải có những đức tính:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
XHCN, có ý chí đưa đất nước vươn lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với
nhân dân trên thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội
- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và
cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỷ thuật, sáng tạo đạt
năng suất cao.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn, thẩm mỹ
và thể lực
Có thể nói, chức năng giáo dục tác động trực tiếp nhất đến sự phát triển xã
hội. Văn hóa mang tính truyền thống lịch sử, các giá trị được hình thành và hoàn
thiện liên tục; Văn hóa xây dựng nên những mẫu người tiêu biểu, có khả năng
đáp ứng các yêu cầu do thời đại đặt ra; Mục tiêu phấn đấu cho mỗi con người đều
hướng tới những giá trị cao quý, nhân cách tiêu biểu thì xã hội càng có nhiều khả
năng phát triển.
Tất cả các chức năng cơ bản đều giúp cho con người ngày càng phát triển
theo hướng hoàn thiện và văn hóa đóng vai trò là động lực và là hệ điều tiết cho sự
phát triển của xã hội.
Nói đến văn hóa là nói đến sự sáng tạo của con người nhằm thỏa mãn nhu
cầu vật chất, tinh thần của bản thân mình theo hướng nhân văn. Đời sống văn hóa
là một lĩnh vực thuộc đời sống xã hội, nó diễn ra trong quá trình sáng tạo, bảo
quản, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo
văn hóa và cũng là chủ thể tiêu dùng các sản phẩm văn hóa, bảo quản truyền bá
văn hóa nên con người cũng là một dạng sản phẩm văn hóa cao cấp.
Việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phải hướng vào việc xây dựng con
người văn hóa, sáng tạo các sản phẩm văn hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa và
nâng cao các hoạt động văn hóa.
1.3. Chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở.
Trang 6
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước. Đơn vị cơ sở là nơi triển khai các hoạt động xã hội, triển khai lao động sản
xuất làm ra của cải vật chất cho xã hội; đồng thời là nơi xây dựng con người mới
đáp ứng cho thời đại mới. Nó còn là nơi vận hành các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống của nhân dân.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở sẽ làm thay đổi những quan niệm của
người dân sao cho phù hợp với những quan niệm, nhận thức của người dân hiện
đại. Nó khơi dậy ý thức, trí tuệ, tài năng và ý thức cạnh tranh để phát triển con
người thông qua các hoạt động được áp dụng khoa học công nghệ và lao động sản
xuất.
Một số các văn bản, pháp luật quản lý nhà nước liên quan đến lĩnh vực xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở như:
Luật Hôn nhân và Gia đình (năm 2000); Luật Bình đẳng giới (năm 2007);
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2008); Pháp lệnh Dân số - Kế hoạch hóa
gia đình; Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 -
2020 Tuy nhiên, gia đình luôn vận động và biến đổi theo sự vận động của xã hội,
vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục ban hành, bổ sung một số chính sách mới
phù hợp với điều kiện xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
quốc tế. Đồng thời, phải đổi mới nội dung và giải pháp truyền thông về gia đình,
nâng cao hiểu biết về các văn bản luật này, cùng các kiến thức, kỹ năng về cuộc
sống gia đình.
Ðể bảo đảm cho phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
phát triển sâu rộng trên toàn quốc, ngày 23-12-1999 Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định 235/1999/QÐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương
Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, theo đó cấp tỉnh,
huyện, xã hình thành các Ban Chỉ đạo, nhằm tập hợp các phong trào văn hóa vào
một Ban Chỉ đạo chung để thống nhất hành động, khắc phục chồng chéo trong
triển khai. Ban Chỉ đạo Trung ương đã ban hành Kế hoạch triển khai phong trào
gồm năm nội dung cụ thể: Phát triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng, xóa
đói, giảm nghèo; Xây dựng tư tưởng, chính trị lành mạnh; Xây dựng nếp sống văn
minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc theo pháp luật; Xây dựng môi trường văn
hóa sạch - đẹp - an toàn; Xây dựng các thiết chế văn hóa - thể thao và nâng cao
chất lượng các hoạt động văn hóa - thể thao cơ sở.
Quyết định số 2312/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt danh sách các thành viên Ban Chỉ đạo phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Quyết định số 05/2000/QĐ-BVHTT ngày 24 tháng 01 năm 2000 của Trưởng
ban chỉ đạo phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa về việc ban
hành Kế hoạch triển khai “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
Trang 7
hóa”.
Thông tư số 05/2001/TT-BVHTT ngày 13 tháng 02 năm 2001 về việc hướng
dẫn Ban chỉ đạo cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” Thi hành Quyết định số 235/1999/QĐ-TTg ngày 23-12-1999 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
Công văn số 66-CV/TU ngày 16 tháng 3 năm 2011 của Tỉnh ủy An Giang
về việc thống nhất chủ chương chuyển Ban Chỉ đạo Phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” sang Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý.
Quyết định số 2126/QĐ-UBND, ngày 23/11/2012 về việc Thành lập
Ban Chỉ đạo Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; và Tổ
Thư ký giúp việc Ban Chỉ đạo. Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và
thay thế Quyết định số 521-QĐ/UBND ngày 28 tháng 3 năm 2011 của Ủy ban
nhân dân tỉnh. So với Quyết định số 521-QĐ/UBND ngày 28/3/2011 của UBND
tỉnh về việc Thành lập Ban Chỉ đạo Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”; thì về số lượng thành viên Ban Chỉ đạo tăng 9 người (từ 25 lên 34);
trong đó bổ sung thành viên là đại diện lãnh đạo các Sở Thông tin & Truyền thông,
Kế hoạch & Đầu tư, Nông nghiệp & PTNT, Tài nguyên Môi trường, Xây dựng,
Giao thông vận tải, Văn phòng UBND tỉnh; các Hội Khuyến học, Người Cao tuồi,
Văn học nghệ thuật. Riêng thành phần Tổ thư ký chỉ thay đổi 01 chức danh. Theo
Quyết định, Ban Chỉ đạo xây dựng Quy chế hoạt động trình Ủy ban nhân dân tỉnh
phê duyệt. Đồng thời, trong quá trình hoạt động, những văn bản do Trưởng ban
Chỉ đạo ký được sử dụng con dấu của Ủy ban nhân dân tỉnh; những văn bản do
Phó Trưởng ban Thường trực ký được sử dụng con dấu của Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch. Kinh phí hoạt động của Ban Chỉ đạo tỉnh được dự toán trong ngân sách
của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Tóm lại xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một tronh những chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ Đại hội V của Đảng. Đây là một chủ
trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xât dựng văn hóa mới,
lối sống mới và con người mới, phù hợp với đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: Cũng cố
tăng cường mạng lưới văn hóa ở cơ sở là một trong những phương hướng nhiệm
vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn kiện Đại hội đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định: “Tiếp tục đưa các hoạt
động văn hóa thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào các dân tộc;
phát động các phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình,
bản, làng văn hóa; tiến tới hoàn chỉnh hệ thống thiết chế văn hóa bằng nguồn lực
nhà nước và mở rộng xã hội hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư,
từng gia đình, từng người. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng mạng
lưới thiết chế văn hóa, bao gồm: trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư
Trang 8
viện, phòng truyền thống, trường học, trạm y tế, sân vận động, công viên… tạo
nên một cảnh quan văn hóa ở vừa dân tộc vừa hiện đại”. Đây là điều kiện cần và
đủ (Bao gồm cả cơ quan văn hóa, trường học văn hóa và ấp văn hóa) để hình thành
xã văn hóa và củng là kết quả thực hiện của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” Người viết xin được chọn xã Vĩnh Nhuận (Một trong
những xã văn hóa của huyện Châu Thành) để đánh giá thực trạng và nêu một số
giải pháp trong quá trình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” hiện nay.
CHƯƠNG 2:
QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHONG TRÀO “TOÀN DÂN ĐOÀN
KẾT XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA” Ở XÃ VĨNH NHUẬN, HUYỆN
CHÂU THÀNH TRONG THỜI GIAN QUA
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh An Giang,
huyện Châu Thành nói chung và của xã Vĩnh Nhuận nói riêng đã có những bước
phát triển rõ rệt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, cơ sở
hạ tầng được đầu tư đáp ứng cho sự phát triển, các thiết chế văn hóa được quan
tâm tu bổ và xây mới.
Tìm hiểu thực trạng tình hình xây dựng nâng chất phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở xã Vĩnh Nhuận nhằm tìm ra những mặt
Trang 9
mạnh cần phát huy và những điểm còn yếu để khắc phục; đồng thời cung cấp
những căn cứ thực tiễn để tìm ra các giải pháp thiết thực, hữu hiệu mang tính bền
vững trong thời gian tới.
2.1. Đặc điểm tình hình xã Vĩnh Nhuận huyện Châu Thành.
Xã Vĩnh Nhuận là một vùng nông thôn của huyện Châu Thành có diện tích
tự nhiên là: 3.802 ha, diện tích sản xuất lúa là: 3.347,4 ha, hoa màu 42,9 ha.
- Phía Đông: Tiếp giáp xã Vĩnh Thành và xã Vĩnh Lợi.
- Phía Tây: Tiếp giáp xã Tân Phú.
- Phía Nam: Tiếp giáp xã Vĩnh Phú (huyện Thoại Sơn).
- Phía Bắc: Tiếp giáp xã Vĩnh Hanh và xã Vĩnh Bình.
Trong xã có 06 ấp, đường giao thông có 02 tuyến từ huyện về đến trung tâm
xã, 05 tuyến đường từ xã về đến các ấp và 21 tuyến đường ra cánh đồng với tổng
chiều dài 100,8 km đảm bảo đi lại trong mùa mưa lũ (Trong đó có 7,5 km được
tráng bê tông, có 7,8 km được tráng nhựa, có 41,4 km đường đá cấp phối).
Dân số: Có 1.834 hộ, 9.597 nhân khẩu. Nhân dân trong xã sinh sống chủ
yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp chiếm 76,81%, số còn lại sinh sống bằng nghề
thương mại, dịch vụ và làm thuê.
- Hộ nghèo: 118 hộ.
- Hộ cận nghèo: 152 hộ.
- Hộ chính sách: 73 hộ
Dân tộc:
- Kinh: 1.807 hộ.
- Hoa: 02 hộ.
- Khơme 25 hộ.
Tôn giáo: Tín đồ theo tôn giáo (gồm: Đạo phật, PGHH, Thiên chúa, Cao
đài, Bửu Sơn Kỳ Hương): 7.457 người. Tôn giáo khác và không có đạo: 2.140
người.
* Thực trạng tình hình kinh tế xã hội từ năm 2010 - 2013.
Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi bước đầu có phát triển nhưng
chưa đồng bộ, áp dụng các tiến bộ khoa học còn hạn chế, thu nhập bình quân đạt
31 triệu đồng/ ha/ năm (2013). Các loại hình hợp tác như: Hợp tác xã nông nghiệp,
tổ hợp tác, tổ liên kết, câu lạc bộ Nông dân… được hình thành nhưng hoạt động
kém hiệu quả, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp sản xuất còn nhỏ lẻ chỉ thu hút
Trang 10
được 113 lao động.
Tỷ lệ hộ nghèo còn cao: 118 hộ/1.834 hộ chiếm gần 6,4%.
Hoạt động đền ơn đáp nghĩa với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tương
trợ giúp nhau được quan tâm, thực hiện tốt việc sửa chữa nhà tình nghĩa, nhà tình
thương và tạo điều kiện giúp đỡ cho hộ nghèo vay vốn làm ăn, ổn định cuộc sống
vươn lên thoát nghèo.
Toàn xã có 100,8 km đường giao thông; trong đó có 7,5 km đường được bê
tông, 7,8 km đường nhựa, 41,4 km đường đá cấp phối, số đường còn lại là đường
đất bị lầy lội trong mùa mưa; cầu nhỏ xuống cấp ảnh hưởng việc đi lại và cảnh
quang đường làng chưa được khang trang, Việc thực hiện các chỉ tiêu giao ước thi
đua về phát triển kinh tế xã hội, nghĩa vụ công dân đạt tốt; tình hình an ninh chính
trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông được quan tâm giải
quyết kịp thời. Tuy nhiên trong việc tranh chấp mâu thuẫn nội bộ nông dân vẫn
còn xảy ra, một số tệ nạn xã hội còn nảy sinh như: Đá gà, số đề, cờ bạc…
Việc thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” tuy có triển khai thực hiện nhưng chưa mạnh, chất lượng chưa cao. Toàn xã
có 1.653 hộ gia đình văn hóa, nhà văn hóa xã có nhưng chưa đạt chuẩn, các thiết
chế văn hóa còn thiếu. Hoạt động thể dục thể thao chưa đa dạng, phong phú, chưa
có sân bóng đá của xã, một số ấp chưa có sân bóng chuyền nhưng có đội bóng đá,
bóng chuyền và chỉ hoạt động trong những dịp lễ. Đài phát thanh xuống cấp và
thường xuyên bị hư hỏng nên phục vụ không kịp thời cho nhân dân.
Công tác cán bộ trong hệ thống chính trị của xã thường xuyên được quan
tâm cũng cố, nâng chất hoạt động đạt hiệu quả. Tổ chức chính trị ở các ấp, tổ tự
quản hoạt động khá tốt, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, tạo đều kiện
cho nhân dân tham gia đóng góp xây dựng cán bộ, xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền và các đoàn thể vững mạnh.Tuy nhiên còn một bộ phận chưa phát huy hết
quyền làm chủ của mình. Công tác kết nạp đoàn viên, hội viên chưa đạt yêu cầu,
việc sinh hoạt các chi hội, tổ tự quản chưa đều, nội dung chưa phong phú.
2.2. Thực trạng công tác xây dựng, nâng chất phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành
trong thời gian qua.
Tình hình thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” từ năm 2010 - 2013 xã đã được công nhận các danh hiệu văn hóa sau đây:
- Hộ gia đình văn hóa đã được công nhận 1.653 hộ/1.834 hộ đạt 90,13%
- Ấp văn hóa đã được công nhận 6/6 ấp đạt 100%.
- Trường học văn hóa đã được công nhận 5/5 trường đạt 100%.
- Cơ quan văn hóa đã được công nhận 4/4 cơ quan đạt 100%.
Trang 11
Đảng bộ xã Vĩnh Nhuận nhiều năm liền được công nhận trong sạch, vững
mạnh.
Cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
ở khu dân cư là cuộc vận động lớn thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối
với đời sống vật chất tinh thần của mọi từng lớp nhân dân.
Từng thành viên của Ban chỉ đạo xã đã nổ lực không biết mệt mỏi, bám sát
Ban vận động của từng ấp trong suốt quá trình thực hiện phong trào.
Thực hiện Nghị quyết TW V (khóa VIII) của BCH.TW Đảng Cộng Sản Việt
Nam và Thông tri số 04 của UBMTTQ Việt Nam về xây dựng nếp sống văn minh,
xây dựng gia đình văn hóa, đời sống văn hóa ở khu dân cư và Chỉ thị số 21/CT.TU
của Ban thường vụ tỉnh ủy An Giang về việc tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”. Trên cơ sở đó phong trào được từng bước nâng lên toàn diện hơn, đáp ứng
nhu cầu đòi hỏi của nhân dân. Đồng thời tác động mạnh mẽ vào các phong trào
hành động cách nạng ở cơ sở.
Việc xây dựng nếp sống văn hóa nhằm xây dựng nông thôn phát triển toàn
diện, bền vững. Trong quá trình xây dựng xã văn hóa Ban chỉ đạo xã văn hóa đã
quán triệt đầy đủ tinh thần nội dung của hướng dẫn 24-HD/BCĐ của Ban chỉ đạo
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tỉnh An Giang.
2.2.1. Công tác tuyên truyền:
Quán triệt Thông tri số 04/2002 của UBTWMTTQVN và hướng dẫn
số 21-HD/BCĐ tỉnh An Giang. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, kế hoạch
của Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (
TDĐKXDĐSVH) huyện Châu Thành năm 2013. Đầu năm Đảng ủy ra nghị quyết
đạt các tiêu chí và chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới và xây dựng mở mới 02
vùng sản xuất lúa vụ Thu Đông, Ban chỉ đạo xã lập kế hoạch thực hiện và tổ chức
quán triệt, triển khai trong cán bộ, đảng viên từ xã đến ấp được 21 cuộc có 113 lượt
người tham dự và triển khai rộng rãi ra quần chúng nhân dân 124 cuộc có 2.094
lượt người dự về việc thực hiện phong trào “TDĐKXDĐSVH” và mục đích, ý
nghĩa xây dựng xã văn hóa cho cán bộ và nhân dân hiểu để chủ động tích cực tham
gia thực hiện. Trọng tâm thực hiện là xây dựng các tiêu chuẩn gia đình văn hóa, ấp
văn hóa, cơ quan văn hóa, trường học văn hóa, các tiêu chuẩn nâng chất xã văn hóa
gắn với nội dung tuyên truyền thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, các
phong trào thi đua yêu nước, thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã. Ngoài ra còn tuyên
truyền thường xuyên rộng rãi trên đài truyền thanh xã, cụm truyền thanh ấp…
Nhìn chung qua công tác tuyên truyền vận động được thực hiện thường
xuyên, đa dạng, phong phú nâng cao sự nhận thức của nhân dân, tạo sự đồng tình
hưởng ứng của nhân dân đã tích cực tham gia, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
Trang 12
vận động.
2.2.2. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật:
2.2.2.1. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
Đảng bộ luôn quan tâm làm tốt công tác xây dựng Đảng trên cả 3 mặt chính
trị tư tưởng, tổ chức và kiểm tra giám sát. Thường xuyên củng cố nâng chất lượng
hoạt động cán bộ công chức, bố trí phân công cán bộ phù hợp với trình độ năng
lực, gắn với nội dung phong trào “TDĐKXDĐSVH” vào các hoạt động thường
xuyên với các cuộc họp lệ BCH Đảng bộ, UBND, khối Dân vận xã và họp BCH
các đoàn thể để kiểm tra nhắc nhở nâng cao nhận thức, phát huy tinh thần trách
nhiệm, năng lực công tác góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt, hoàn thành tốt
nhiệm vụ ở địa phương, xây dựng nội bộ thật sự đoàn kết thống nhất, sửa đổi lối
làm việc có hiệu quả cao và gắn với địa bàn dân cư nhiều hơn.
Có 6/6 ấp thực hiện mô hình Bí thư kiêm trưởng ấp, công tác kết nạp Đảng
viên mới hàng năm đạt vượt chỉ tiêu từ năm 2010 - 2013 đã kết nạp 30 đảng viên,
nâng tổng số đảng viên trong Đảng bộ đến nay là 160 đảng viên, được phân chia
sinh hoạt ở 16 chi bộ trực thuộc đảng bộ xã. Tất cả các chi bộ trong 03 năm trở lại
đây đều đạt chi bộ trong sạch vững mạnh, hàng năm có trên 90% đảng viên được
xét đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, Đảng bộ được Huyện ủy xét
công nhận trong sạch nhiều năm liền (từ năm 2004 đến nay).
Quan tâm làm tốt công tác cũng cố, nâng chất hoạt động MTTQ và các đoàn
thể có nhiều nội dung phù hợp thực tiễn, sát với địa bàn dân cư, đã tập hợp được
nhiều quần chúng tham gia làm nồng cốt trong cuộc vận động. Qua đó đã kết nạp
đoàn viên, hội viên được 590 người; nâng tổng số đoàn viên, hội viên trong xã là
1.824 người, đạt 19% so với dân số. Mặt trận và các đoàn thể biết chủ động trong
thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn công tác chuyên môn với hoạt động phong trào và
quy chế dân chủ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm lo quyền lợi thiết thực của
nhân dân; giữ vững được mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền, các đoàn
thể với nhân dân ngày càng tốt hơn.
Qua các phong trào từng đoàn thể đã xuất hiện nhiều mô hình như: Câu lạc
bộ Nông dân, câu lạc bộ Thanh thiếu niên tuổi 17, câu lạc bộ phụ nữ, câu lạc bộ
dưỡng sinh của người cao tuổi, câu lạc bộ hát với nhau, đờn ca tài tử, cờ tướng,
bóng đá, bóng chuyền… với hàng trăm thành viên tham gia hoạt động có hiệu quả.
Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể từ xã đến ấp hàng năm đều được xếp loại
khá, vững mạnh.
Bộ máy nhà nước thường xuyên được cũng cố nâng chất hoạt động theo
hướng cải cách hành chính; nâng chất lượng hiệu quả lao động cán bộ công chức
xã; thành lập bộ phận tiếp nhận, trả kết quả góp phần giải quyết nhanh và chính
Trang 13
xác các nhu cầu của nhân dân.
Hàng năm xã làm tốt công tác nâng chất lượng hoạt động Ban hòa giải xã,
tổ hòa giải ấp. Từ đó các vụ tranh chấp mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân được hòa
giải kịp thời, tỷ lệ hòa giải thành hàng năm đạt từ 85 - 94% góp phần làm hạn chế
những mâu thuẫn, tranh chấp trong dân.
Công tác phát động phong trào quần chúng bảo vệ an tổ quốc được thực hiện
mạnh mẽ và toàn diện; luôn cũng cố, nâng chất hoạt động các tổ tự quản, các tổ tự
quản tổ chức sinh hoạt tổ thường xuyên theo định kỳ tháng, quý đã tập hợp được
nhiều quần chúng nhân dân đến tham dự. Trong xã có 58 tổ tự quản, chất lượng
hoạt động đạt loại khá, tốt là 53 tổ chiếm 91,37%, không có tổ yếu kém.
2.2.2.2. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở
* Kết quả thực hiện pháp lệnh 34/2007 ở Xã:
Việc thực hiện QCDC ở xã trong 2 năm 2012 và 2013 đã góp phần làm cho
bộ mặt Nông thôn ngày càng phát triển đi lên, nhân dân rất phấn khởi khi tham gia
đóng góp vào các công trình do nhà nước phát động theo phương châm “Nhà nước
và nhân dân cùng làm” đã vận động được 40,941 tỷ đồng xây dựng cầu và làm đê
bao 3 vụ ở 03 tiểu vùng mới diện tích 1.877 ha và nâng cấp các đê bao vùng vụ
3 cũ kết hợp với làm đường lộ giao thông nông thôn đã góp phần làm cho bộ mặt
nông thôn thêm khởi sắc và tình hình an ninh trật tự ở địa bàn dân cư luôn được
giữ vững và ổn định.
Việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
đòi hỏi phải có sự đóng góp của nhân dân. Do đó các công trình thực hiện xây
dựng nông thôn mới đã đưa ra lấy ý kiến nhân dân để “Dân biết, dân bàn, dân làm
và dân kiểm tra” là hết sức cần thiết, trong năm 2013 xã đã tổ chức họp dân được
124 cuộc có 2.094 lượt người dân tham dự để triển khai các kế hoạch và vận động
nhân dân thực hiện xây dựng các công trình đê bao sản xuất vụ 3 mới và nâng cấp
các vùng vụ 3 củ kết hợp nâng cấp sửa chữa các tuyến đường giao thông nông
thôn, phong trào “TDĐKXDĐSVHƠKDC”, phong trào quần chúng bảo vệ ANTQ
và xuống giống vụ Thu Đông diện tích 3.328,6 ha, bơm nước chống úng và bơm
nước ra xuống giống vụ Đông xuân đúng lịch thời vụ, thực hiện các chính sách của
Đảng, Nhà nước về an sinh xã hội…v.v.
Thực hiên tốt việc cải cách thủ tục hành chính đã hướng dẫn và giải quyết
kịp thời cho nhân dân không còn gây phiền hà cho người dân góp phần xây dựng
chính quyền ở cơ sở ngày càng trong sạch và vững mạnh, xã đã tổ chức bộ phận
một giải quyết các thủ tục hành chính nhanh gọn thuận tiện thuận tiện cho người
dân, khai sinh, khai tử, kết hôn, đăng ký chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất,
nếu đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu và thẩm quyền thì giải quyết trong ngày. Hoạt động
của Đại biểu HĐND: ngoài việc tiếp xúc cử tri theo quy định thường xuyên nắm
Trang 14
bắt kịp thời ý kiến góp ý phản ảnh của nhân dân, cử đ/c phó CT HĐND xã vừa
tham gia vừa giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân với
UBND xã.
Mặt trận và các đoàn thể đã thay đổi hình thức tập hợp và vận động quần
chúng, vận động đoàn viên, hội viên chú trọng về chất lượng nên phần nào đã góp
phần vào việc thực hiện QCDCCS trong các hoạt động. Đã tổ chức tuyên truyền
pháp luật lồng ghép trong các cuộc họp dân ở các tuyến dân cư được 9 cuộc với
380 lượt người tham dự, ngoài ra còn tuyên truyền gián tiếp ở các ấp với nhiều
hình thức rất phong phú thu hút được sự quan tâm của người dân.
Công tác hòa giải ở cơ sở thực hiện tốt, trong năm 2013 đã tổ chức hòa giải
thành trên 90%.
* Kết quả thực hiện QCDC trong hoạt động của cơ quan hành chính, đơn vị
sự nghiệp (Nghị định 71/1998/NĐ-CP):
Xây dựng quy chế làm việc của UBND xã; nội dung làm việc cơ quan (về
giờ giấc, quản lý sử dụng trụ sở, các trang thiết bị chung…). Thực hiện thu chi
ngân sách hàng tháng UBND xã chủ động thông qua Ban thường vụ Đảng ủy và
báo cáo công khai định kỳ hàng tháng và định kỳ 6 tháng, năm, thông qua HĐND
xã. Thực hiện khoán kinh phí hoạt động cho Mặt trận, các đoàn thể và ấp.
* Hoạt động của Ban tổ chức thực hiện QCDC của xã:
Ban tổ chức thực hiện QCDC xã đến nay có 13 thành viên do đ/c Phó Bí thư
thường trực Đảng ủy xã làm trưởng ban. Đ/c chủ tịch UBMTTQ, phó CT.UBND
xã làm phó ban và các thành viên còn lại gồm đại diện HĐND, các đoàn thể và các
ngành xã.
- Thực hiện quy chế dân chủ đã tổ chức hội nghị cán bộ công chức, phổ
biến tuyên truyền thông qua sinh hoạt tổ tự quản và câu lạc bộ, họp tổ nhóm các
Đoàn thể, tiếp xúc cử tri và thông tin trên đài truyền thanh những nội dung như:
quy hoạch sử dụng đất đai, kế hoạch phát triển kinh tế, kế hoạch xây dựng các tiểu
vùng đê bao, dịch vụ bơm tưới, phong trào TDĐKXDĐSVHƠKDC, các công trình
thực hiện xây dựng nông thôn mới. Qua đó, quần chúng nhân dân rất đồng tình
hưởng ứng tham gia thực hiện, đã tác động tích cực đến phong trào có những
chuyển biến mạnh mẽ trên các mặt, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị
của Đảng bộ.
- Kinh tế xã hội tiếp tục phát triển; sửa chữa cầu đường được sự đồng tình
ủng hộ cao của nhân dân, thu ngân sách trên địa bàn, thu nhân dân đóng góp các
nguồn phục vụ xã hội điều đảm bảo dân chủ; nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt mức kế
hoạch; lĩnh vực VHXH tiếp tục diễn biến tốt, cất mới 05 căn nhà Đại đoàn kết,
kinh phí 279.000.000đ, tổ chức vận động Quỹ “Cây mùa xuân” năm 2013 tiếp
nhận và phát 392 phần quà với tổng số tiền 98.000.000đ giúp người nghèo vui
Trang 15
xuân đón tết và các đối tượng khó khăn khác; cuộc vận động xây dựng đời sống
văn hoá cơ sở được nhân dân và cả hệ thống chính trị quan tâm; công tác tuyển
quân thực hiện các bước bình nghị đảm bảo dân chủ, tuyển chọn thanh niên đúng
luật, giao quân đạt 100% chỉ tiêu; tình hình TTXH luôn được quan tâm ngăn chặn,
giải quyết kịp thời; tăng cường tuần ra, kiểm soát 180 cuộc có 1.080 lược đồng chí
tham gia, qua tuần tra phát hiện 156 trường hợp vi phạm trật tự giao thông đường
bộ.
- Phong trào xây dựng nông thôn mới: Qua gần 03 năm, việc triển khai xây
dựng mô hình NTM đem lại kết quả đáng kể. Các ngành, các ấp lồng ghép trong
các đợt tuyên truyền vận động kết hợp thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn
mới. Đến nay cơ bản hoàn thành 10/20 tiêu chí với 44/59 chỉ tiêu. Kết quả bước
đầu làm thay đổi được diện mạo nông thôn và nâng cao được đời sống của nhân
dân tạo tiền đề để xây dựng các giai đoạn tiếp theo về nông thôn mới.
- Công tác cải cách thủ tục hành chính, thực hiên cớ chế “01 cửa” đã thực
hiện nghiêm túc, chấp hành tốt quy chế hoạt động và lối làm việc được nâng cao
trách nhiệm với nhân dân, hướng dẫn, giải thích rõ ràng cho nhân dân, tạo mọi điều
kiện giải quyết kịp thời cho nhân dân nếu đủ điều kiện giải quyết ngay, chưa đủ
điều kiện làm giấy hẹn cho nhân dân, đã góp phần xây dựng chính quyền ở cơ sở
ngày càng trong sạch vững mạnh.
- Công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo: HĐND,
UBND xã duy trì thực hiện tốt lịch tiếp dân hàng tuần, đồng thời tăng cường tiếp
dân tại văn phòng các ấp. Qua đó kịp thời ghi nhận, xem xét và giải quyết kịp thời
các bức xúc của công dân, đã tác dụng đến tình hình trật tự xã hội được ổn định.
Hoạt động của Đại biểu HĐND: ngoài việc tiếp xúc cử tri theo quy định
thường xuyên nắm bắt kịp thời ý kiến góp ý phản ảnh của nhân dân, cử đ/c phó CT
HĐND xã vừa tham gia vừa giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của
công dân với UBND xã.
- Nhiệm vụ xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể vững
mạnh:
Đảng uỷ luôn quan tâm thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội một
cách cụ thể trên các lĩnh vực xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và công
tác cán bộ; vì vậy tính dân chủ đã trở nên đậm nét hơn trong sinh hoạt cũng như
trong phương thức lãnh đạo, thông qua đó đã làm chuyển biến ý thức trách nhiệm
của từng cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và tạo được lòng tin của dân đối vói
Đảng.
Qua học tập và rèn luyện làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, đã góp phần nâng cao, tác phong làm việc, giải quyết thủ tục hành chính
nhanh chóng thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân.
Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục được tăng cường và
phát huy hiệu quả; vai trò và sức mạnh của nhân dân tiếp tục phát huy, vị thế của
Trang 16
Mặt trận và các đoàn thể từng bước đang nâng lên. Đại bộ phận nhân dân trong xã
đã tích cực tham gia các phong trào do Đảng uỷ, UBND và mặt trận đoàn thể phát
động, hướng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng - an ninh; lắng nghe ý kiến nguyện vọng của dân, chăm lo thiết thực
đời sống của nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, Chính quyền trong sạch vững
mạnh. Từ đó, tạo được niềm tin và sự thu hút quần chúng tham gia và các tổ chức
đoàn thể.
Mặt trận và các đoàn thể đã thay đổi hình thức tập hợp và vận động quần
chúng, vận động đoàn viên, hội viên chú trọng về chất lượng nên phần nào đã góp
phần vào việc thực hiện QCDCCS trong các hoạt động.
* Thực hiện QCDC với thi đua thực hiện Dân vận khéo: Mô hình điển hình,
Xây dựng đê bao vùng Vĩnh Nhuận 2 (ấp Vĩnh Hòa 1, Vĩnh Hòa 2, Vĩnh Hiệp 2
và xã Vĩnh Lợi): diện tích 632 ha kinh phí 9.377.852.000 đồng và xây dựng Vùng
Vĩnh Nhuận 3 (ấp Vĩnh Lợi) diện tích 527 ha kinh phí 7.264.440.000 đồng.
2.2.3. Đời sống kinh tế xã hội được cải thiện:
Lĩnh vực phát triển kinh tế, chuyển dịch cây trồng, vật nuôi thông qua các
buổi hội thảo khuyến nông, các mô hình sản xuất, chính sách đầu tư vốn, từ đó
nhân dân mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật.
Diện tích sản xuất lúa 2 vụ là: 3.347,4 ha, vụ Thu đông 3.328,6 ha (trong đó 02
vùng mới là 1.077ha). Tổng sản lượng năm 2012 đạt 57.198,82 tấn, đạt 114,4% so
năm 2011; giá trị trồng trọt ước đạt 312.057.830.000 đ, đạt 104,02% so với năm
2011. Diện tích sản xuất lúa chất lượng cao 7.476,4 ha, lúa giống xác nhận 663,5
ha. Công tác khuyến nông, ứng dụng khoa học kỹ thuật luôn được chú trọng, kết
hợp với ngành cấp trên mở 06 lớp gồm: phục tráng giống, 1 phải 05 giảm, lớp lúa
chất lượng cao, nuôi vịt an toàn sinh học có 168 học viên và tổ chức hội thảo về
sâu bệnh giữa vụ có 55 bà con nông dân tham dự. Tổ chức thành công Đại hội xã
viên HTX Vĩnh Hòa, có 71 xã viên, với tổng số nguồn vốn 138.200.000đ, tổng số
hộ có đất sản xuất là 247 hộ/280 ha.
Chăn nuôi: Thực hiện tốt công tác quản lý và phòng chống dịch bệnh đối
với gia súc, gia cầm do đó không xảy ra dịch bệnh. Tổ chức 03 điểm trình diễn và
02 tổ chăn nuôi vịt an toàn sinh học có 58 thành viên. Thủy sản: nuôi cá tra 7,5ha;
cá lóc 1,576ha; ba ba 0,55ha; ếch 0,307ha; lươn 0,269ha; cá khác 4,1ha; cá tra
giống 8ha, cá lóc vèo 0,027ha. Tổng sản lượng đạt 1.038 tấn. Hỗ trợ 5 mô hình
nuôi lươn thương phẩm, 3 mô hình sản xuất lươn giống. Tình hình nuôi thuỷ sản
ổn hiện không xảy ra dịch bệnh. Giá trị chăn nuôi ước đạt 76,64 tỷ đồng.
Nâng thu nhập bình quân đầu người năm 2012 là: 19,086 triệu đồng/người/
năm tăng lên năm 2013 là 22,360 triệu đồng/người/năm. Luôn quan tâm tạo mọi
điều kiện cho các cơ sở, doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất và giới thiệu Quỹ
Trang 17
tín dụng Mỹ Hòa cho vay 146 hộ kinh doanh với số tiền là 2 tỷ 223 triệu đồng.
Hàng năm xã có nhiểu chủ trương giải pháp, quan hệ với ngân hàng chính sách để
phối hợp với các đoàn thể được ủy thác làm nhiều dự án sản xuất, chăn nuôi, mua
bán nhỏ cho các hộ nghèo và ngưỡng nghèo vay để làm ăn thoát nghèo, vươn lên
bền vững, đã thành lập được 24 tổ với 581 hộ được vay với số tiền 6 tỷ 722 triệu
đồng, nợ quá hạn quá hạn được giải quyết tốt.
Đối các hộ dân tộc Khmer đã xét cho vay vốn làm ăn 06 hộ với số tiền 33
triệu đồng và cất 10 căn nhà tình thương theo chương trình 134 trị giá 90 triệu
đồng, đồng thời xét cho 04 hộ vào ở khu dân cư vượt lũ.
Các tệ nạn xã hội được đẩy lùi, không có tệ nạn mại dâm, ma túy, băng
nhóm tội phạm trên địa bàn.
Thường xuyên tổ chức kiểm tra an toàn thực phẩm và làm tốt công tác bảo
vệ môi trường; hai điểm chợ có đội thu gôm rác, đổ rác đúng quy định. Chợ đã
được công nhận là 02 chợ trật tự vệ sinh.
Việc xây dựng gia đình văn hóa sức khỏe (GĐVHSK) và ấp văn hóa sức
khỏe, đã tổ chức cho nhân dân đăng ký thực hiện các tiêu chuẩn GĐVHSK và họp
xét bình chọn công khai, đến nay được 518 hộ đạt tiêu chuẩn GĐVHSK.
2.2.4. Xây dựng đời sống văn hóa:
2.2.4.1. Về cơ sở vật chất
Việc xây dựng các thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư đã phát huy hiệu
quả tốt đài truyền thanh xã được xây dựng với 11,5 km đường dây, 16 loa và xây
dựng 3 cụm truyền thanh ở 3 ấp với 6 loa, đảm việc phục vụ chính trị, xã đã xây
dựng kế hoạch truyền phát thanh ngày 2 buổi với nội dung: tiếp âm đài tiếng nói
Việt Nam, đài phát thanh An Giang và các bản tin của địa phương phục vụ 80%
dân số của xã.
Nhà văn hóa được xây dựng vào năm 2002, hiện có 4 phòng đã bố trí, sắp
xếp và đưa vòa hoạt động có hiệu quả; đã thành lập Ban chủ nhiệm nhà văn hóa
gồm 7 thành viên, phát huy được vai trò trách nhiệm trong công tác, phối hợp
cùng đội thông tin, văn nghệ tổ chức hoạt động biểu diễn lồng ghép với việc tuyên
truyền các nhiệm vụ chính trị ở xã, các lễ hội văn hóa, các nhày lễ, tết…Phong trào
văn thể mỹ luôn được cũng cố nâng chất lượng sinh hoạt các câu lạc bộ (CLB), đến
nay thành lập được 23 CLB văn hóa văn nghệ - thể dục thể thao gồm 350 thành
viên (CLB đờn ca tàu tử, bóng chuyền, bóng đá, dưỡng sinh, cờ tướng), xã thành
lập 01 đội thông tin tuyên truyền, 01 đội bóng đá, 01 dội bóng chuyền thường
xuyên biễu diễn văn nghệ, giao lưu thi đấu thể thao với các xã bạn, thi đấu nhân
các ngày lễ lớn thu hút nhân dân đến xem và cổ vũ thật nồng nhiệt. Các lễ hội, tiệc
cưới, việc tang được tổ chức gọn nhẹ theo đúng quy định của pháp luật, có tiết
kiệm, không vụ lợi đảm bảo an toàn trật tự.
Trang 18
Khu trung tâm xã gồm các cơ quan hành chính có hàng rào xung quanh và
sân khang trang, sạch đẹp tạo môi trường thông thoáng trong công tác và quan hệ
với nhân dân.
2.2.4.2. Về tinh thần
Thực hiện cuộc vận động “TDĐKXDĐSVH” theo hướng dẫn số 24/HD của
BCĐ tỉnh An Giang; xã đã thành lập BCĐ xã và BVĐ ấp tổ chức tuyên truyền cho
nhân dân đăng ký thực hiện 06 tiêu chuẩn gia đình văn hóa và 06 tiêu chuẩn ấp
văn hóa để xét hàng năm; chất lượng phong trào ở ấp được nâng lên, hộ đạt 06 tiêu
chuẩn gia đình văn hóa ngày càng tăng, hộ đạt xuất sắc 6 tiêu chuẩn GĐVH ngày
càng nhiều, các tiêu chuẩn ấp văn hóa từng bước được hoàn thiện hơn.
Tổng số số hộ trong toàn xã là 1.834 hộ bằng 9.597 nhân khẩu, qua nhiều
năm xét dân chủ công khai bình chọn hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa
đến nay được: 1.653 hộ/1.834 hộ đạt 90,13%, số hộ GĐVH tiêu biểu, xuất sắc:
1.246 hộ, số hộ GĐVH là người dân tộc Chăm, khmer: 24 hộ, số hộ GĐVH 3 năm
và 5 năm liền: 1.407 hộ. Hàng năm xã đều có kế hoạch nâng chất các tiêu chí của
các danh hiệu văn hóa; xã tiến hành xây dựng quy ước ấp văn hóa, xã văn hóa đã
triển khai trong nội bộ và quần chúng nhân dân, qua triển khai đa số nhân dân đều
thống nhất cao.
Công tác khám và điều trị bệnh, truyền thông giáo dục sức khỏe, chăm sóc
sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được duy trì thực hiện tốt, khám BHYT
được 7.839 lượt người. Tiêm chủng mở rộng được thực hiện duy trì thường xuyên,
thực hiện đúng tiến độ đạt yêu cầu đề ra. Khám y học dân tộc được 7.860 lượt
người với 23.527 thang thuốc, châm cứu 2.806 lượt người, sưu tầm 10.220 kg
thuốc các loại. Kết hợp với đoàn y bác sĩ Thiện Nguyện TP HCM khám chữa bệnh
từ thiện cho hộ nghèo, gia đình khó khăn được 439 lượt người với tổng số tiền là
48 triệu đồng.
Vận động tiền khám chữa bệnh cho 46 người với tổng số tiền là
114.142.000đ; giúp gạo cho 430 hộ khó khăn với 4.300kg gạo; phục vụ mai táng
chế 13 người với tổng số tiền là 37.600.000đ. Xe chuyển bệnh tuyến trên 107 lượt,
tổng số tiền hỗ trợ xăng, nhớt được 19.100.000đ. Tặng quà tết cho hội viên khó
khăn được 60 phần mỗi phần 200.000đ. Tổ chức đưa đoàn viên thanh niên hiến
máu tình nguyện được 56 người.
Tiếp âm đài tiếng nói Việt Nam, đài phát thanh An Giang, đọc các thông
báo, bản tin của địa phương. Tiếp tục cũng cố và nâng chất các loại hình văn hóa,
hoạt động thông tin ngày càng thiết thực, treo 156 băng rol tuyên truyền kỷ niệm
các ngày lễ lớn, công tác tuyển quân đợt I/2013, tháng hành động vì chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm, tháng hành động vì sự nghiệp giáo dục, phòng chống cháy
nổ trong mùa khô… các nhiệm vụ chính trị địa phương.
Trang 19
Tổ chức đêm văn nghệ tuyên truyền về nông thôn mới có hơn 300 người
dân đến xem. Kết hợp với đội chiếu phim lưu động của trung tâm văn hóa tỉnh
An Giang chiếu phim nhân ngày lễ 30/4, 01/5 tại nhà văn hóa xã có trên 200 lượt
người xem. Kết hợp với Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh tổ chức đêm văn nghệ
tại nhà văn hóa xã tuyên truyền kỷ niệm 125 ngày sinh chủ tịch Tôn Đức Thắng và
tuyên truyền về Nông thôn mới có hơn 300 lượt người xem.
Duy trì, củng cố và xáp nhập 06 CLB đờn ca tài tử trên địa bàn xã thành 02
CLB là ấp Vĩnh Thuận và ấp Vĩnh Hiệp 1. Phối hợp với Trung tâm văn hóa thể
thao huyện khai trương điểm đọc sách báo tại khu vực chợ trung tâm xã.
Tổ chức thành công Đại hội TDTT xã Vĩnh Nhuận lần VII với 08 đội tham
gia tranh tài với 05 môn thi đấu: bóng đá, bóng chuyền, đẩy gậy, kéo co và chạy
việt dã thu hút hơn 360 vận động viên tham dự.
Tình hình sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc diễn ra bình thường; các
hoạt động tôn giáo đều tuân thủ theo pháp luật, luôn có mối quan hệ gần gũi với
chính quyền, mặt trận và các đoàn thể. Chính quyền địa phương luôn tạo điều kiện
cho các tôn giáo hoạt động tín ngưỡng đúng theo qui định của pháp luật, hướng
dẫn các cơ sở tôn giáo đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo năm 2014 theo qui
định. Thực hiện tốt công tác trợ cấp xã hội cho hộ nghèo, cận nghèo là đồng bào
dân tộc thiểu số đúng theo qui định. Bên cạnh đó còn thường xuyên thăm hỏi tặng
quà cho các cơ sở tôn giáo và đồng bào dân tộc thiểu số nhân dịp lễ, tết.
Hàng năm vào ngày 18 tháng 11 “Ngày Hội đại đoàn kết toàn dân tộc” xã
tổ chức biểu dương những gương tiêu biểu, điển hình tiên tiến tạo khí thế sôi nổi
phấn khởi của ngày hội, đây là điểm tựa và nền tảng để cũng cố nâng cao chất
lượng phong trào, góp phần tác động hoàn thành nhiệm vụ chính trị địa phương về
phát triển KT - VHXH, giữ vững ổn định an ninh quốc phòng.
An ninh trật tự được giữ vững và ổn định, Công an, Quân sự phối hợp cùng
Mặt trận và các đoàn thể lồng ghép tổ chức tuyên truyền chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước, chương trình phòng chống tội phạm gắn với phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng các tiêu chuẩn ấp 4 không, từ đó góp phần
làm giảm số lượng vi phạm trật tự, vi phạm pháp luật.
2.2.5. Giao thông thuận tiện, cảnh quang môi trường xanh, sạch, đẹp:
2.2.5.1. Giao thông đi lại
Đã xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn với phương
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, từ năm 2011 đến nay vận động nhân dân
đóng góp được 29.879.500.000 đồng để nâng cấp xây dựng giao thông, giao thông
kết hợp với đê bao, cất, sửa cầu, làm thủy lợi nội đồng…
Trang 20
Toàn xã có 100,8 km đường giao thông, mặt đường rộng từ 4 – 6 m, cao
trình + 3.5 m, nên giao thông đi lại được thuận tiện cả vào mùa mưa, trong đó có
2 tuyến đường về đến trung tâm xã là tuyến Vĩnh Nhuận – Vĩnh Hanh và Vĩnh
Nhuận – Tân Phú kết cấu mặt đường nhựa dài 7,8 km, tuyến Vĩnh Thành – Vĩnh
Nhuận kết cấu mặt đường bêtông đang nâng cấp bằng mặt đường nhựa dài 7,5 km.
Các tuyến lộ từ xã về đến các ấp, liên ấp và đừng ra cánh đồng được rãi đá cấp
phối đảm bảo giao thông đi lại vào mùa mưa và tuần tra kiểm soát đê bao vào mùa
mưa lũ hàng năm.
Vận động nhân dân rãi cát đá lộ giao thông được 66 km dài, khối lượng đá
660 m
3
với tổng số tiền là 1.098.000.000 đồng; vận động cất mới 03 căn và sữa
chữa 05 căn nhà với tổng số tiền là 64 triệu đồng; vận động cất mới 08 cây cầu với
tổng số tiền vận động là 2.420.000.000 đồng đảm bảo giao thông thông suốt cả vào
mùa nắng lẫn mùa mưa.
2.2.5.2. Cảnh quang môi trường
Các tuyến đường giao thông thông thoáng, cảnh quang môi trường sạch đẹp,
các hộ xây dựng nhà khang trang có hàng rào trước cửa nhà được. Số hộ xây dựng
hàng rào tính đến cuối tháng 11/2013 là: 1.281.hộ/1.834 hộ đạt 69,84%, số hộ
chưa làm hàng rào là: 553hộ/1.834 hộ chiếm tỷ lệ 30,15%. Số hộ làm cột cờ bằng
ống tuýp sắt là: 1451hộ/1.834 hộ, đạt 79,11.%, tính lũy kế đến cuối tháng 11/2013
số hộ chưa làm cột cờ đúng quy cách là : 383 hộ/1.834 hộ chiếm tỷ lệ 21%. Nhìn
chung đa số nhân dân có nâng cao ý thức giữ gìn môi trường ngày càng xanh, sạch,
đẹp, hành lang giao thông thông thoáng tạo vẽ mỹ quan nông thôn và an toàn giao
thông .
Khu trung tâm xã được quy hoạch tổng thể như trụ sở làm việc của UBND
xã, các cơ quan Công an - Quân sự , y tế và nhà văn hóa, chợ, bến xe, bến tàu được
sắp xếp trật tự theo đúng quy hoạch, khang trang. Chợ có nhà vệ sinh công cộng
đảm bảo văn minh phục vụ nhu cầu nơi công cộng. Qua quá trình thực hiện Đảng
ủy, UBND, MTTQ và Ban chỉ đạo phong trào của xã đã đạt và được công nhận xã
Văn hóa vào năm 2008.
2.2.6. Xây dựng Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới: Đến nay
xã đạt được 10/20 tiêu chí với 44/59 chỉ tiêu; tăng 03 tiêu chí, 15 chỉ tiêu so với
năm 2012. Phấn đấu đến hết năm 2015 xã Vĩnh Nhuận được công nhận là xã nông
thôn mới.
2.3. Nhận xét đánh giá về công tác xây dựng - nâng chất phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở xã Vĩnh Nhuận, huyện
Châu Thành.
2.3.1. Những mặt tích cực cần phát huy và nguyên nhân:
Trang 21
Được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Huyện ủy, BCĐ Huyện sự hổ trợ của các
ngành đoàn thể Huyện, sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, BCĐ xã, sự đoàn kết
thống nhất của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị và sự đồng tình hưởng
ứng của nhân dân tích cực tham gia thực hiện cuộc vận động “TDĐKXDĐSVH”
cơ bản đạt nhiều khả quan.
Phong trào “TDĐKXDĐSVH” thật sự đi vào cuộc sống, đáp ứng nhu cầu
của nhân dân, đã khơi dậy tiềm năng và sức đóng góp của nhân dân với phương
châm “ Lấy sức dân bồi dưỡng xây dựng lại cho dân” đã làm thay đổi bộ mặt nông
thôn ngày thêm khởi sắc.
Trong thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương gắn liền với việc xây
dựng Phong trào “TDĐKXDĐSVH” đã tạo được mối quan hệ thúc đẩy lẫn nhau
trong hoạt động thật sôi nổi góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế
- VHXH, đời sống tinh thần của nhân dân ngày được nâng lên, an ninh chính trị
được giữ vững và ổn định, các tệ nạn xã hội được đẩy lùi, nội bộ đoàn kết thống
nhất, hệ thống chính trị từ xã đến ấp được cũng cố và phát triển vững mạnh, tạo
thêm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền ngày càng được vững chắc.
Mối quan hệ tình làng nghĩa xóm, tình thương yêu nhân ái, tương trợ lẫn
nhau trong nhân dân nói chung, đồng bào có đạo nói riêng vá mối quan hệ giữa
Đảng, chính quyền và Mặt trận tổ quốc cùng các vị chức sắc, chức việc được khơi
dậy góp phần xây dựng mối đoàn kết ở cộng đồng dân cư được tốt đẹp, thể hiện
được nếp sống văn minh.
Với sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn huyện và việc xây dựng phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở xã đã mang lại nhiều hiệu
quả thiết thực về đời sống vật chất và tinh thần cho người dân ở nông thôn rõ nét
nhất nên đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình, tự nguyện, tự giác
tham gia thực hiện.
Nội dung của phong trào và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân nên được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi và
triển khai thực hiện đem lại hiệu quả cao.
Sự ra đời của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
theo tinh thần nghị quyết TW V (khóa VIII) về xây dựng và phát triển văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát tiển
phong trào ngày càng sâu rộng và bền vững.
Nguyên nhân đạt được kết quả:
- Với sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn huyện và việc xây dựng phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở xã đã mang lại nhiều hiệu
quả thiết thực về đời sống vật chất và tinh thần cho người dân ở nông thôn rõ nét
nhất nên đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình, tự nguyện, tự giác
tham gia thực hiện.
Trang 22
- Nội dung của phong trào và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân nên được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận
lợi và triển khai thực hiện đem lại hiệu quả cao.
- Sự ra đời của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
theo tinh thần nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) về xây dựng và phát triển văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo ra sức mạnh tổng hợp để
phát tiển phong trào ngày càng sâu rộng và bền vững.
2.3.2. Những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân:
2.3.2.1.Công tác chỉ đạo và triển khai thực hiện phong trào ở các
ngành, đoàn thể:
Công tác phối hợp, tổ chức thực hiện phong trào, một số ngành chưa chặc
chẽ, sự chỉ đạo, hướng dẫn trong hệ thống từng ngành có lúc, có nơi thiếu đồng bộ,
một số ngành xem đây là công việc của Ban dân vận, của ngành VHTT, Ủy ban
MTTQ. Ban vận động Ấp trong công tác tuyên truyền, vận động chưa có nhiều
phương pháp mới, còn nặng về hình thức; một số ngành, đoàn thể cơ sở tham gia
phong trào tại khu dân cư còn hạn chế.
Một số ngành đơn vị chưa gắn kết nội dung phong trào với thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn, chưa tích cực tham gia giúp việc và thiếu quan tâm giúp đỡ cơ sở
trong quá trình xây dựng các chuẩn mực văn hóa theo sự phân công của Ban chỉ
đạo, làm ảnh hưởng đến việc triển khai, tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn, tiêu chí.
Các địa phương, đơn vị còn nặng về thành tích nên khi xem xét các tiêu chí,
danh hiệu văn hóa còn xem nhẹ chất lượng, đánh giá chưa đúng thực chất phong
trào, thiếu kiểm tra, sơ tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng các điển hình tiên
tiến, công tác quản lý hồ sơ, sổ sách, lưu trữ của Ban chỉ đạo xã - thị trấn, Ban vận
động ấp, tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, cán bộ xã, ấp thường bị đều
động, luân chuyển nên có ảnh hưởng nhất định đến việc tham mưu, đều hành.
Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên, ý thức người dân có nâng lên
nhưng chưa đều, nội dung phong trào có lồng ghép trong các hoạt động khác
nhưng chưa thực sự gắn kết tác động thúc đẩy phong trào.
2.3.2.2. Sự tham gia thực hiện phong trào của các từng lớp nhân dân ở
cơ sở:
Nhân dân đã tích cực và có ý thức trong việc thực hiện phong trào. Bên cạnh
đó vẫn còn một bộ phận nhân dân thờ ơ, chưa thấy hết quyền lợi và nghĩa vụ của
mình trong xây dựng phong trào tại cộng đồng dân cư, chưa mạnh dạn đấu tranh
với những hành vi sai trái tại tổ, ấp cũng như trong sinh hoạt tại tổ, nhóm, chưa
thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; nếp sống văn minh
khu dân cư từng bước có chuyển biến nhưng chưa ngang tầm với sự phát triển của
xã hội. Tình hình tệ nạn xã hội, ô nhiễm mội trường các khu dân cư có khắc phục
nhưng vẫn còn chậm…
Trang 23
2.3.2.3. Phát triển phong trào về bề rộng, chiều sâu, bền vững, đồng đều
và chất lượng:
Các Ban chỉ đạo quan tâm củng cố và nâng chất thường xuyên, nên phong
trào không ngừng phát triển nhưng vẫn còn thiếu yếu tố bền vững có nơi chưa thực
sự đi vào chiều sâu, chất lượng chưa tương xứng với số lượng, không cũng cố,
nâng chất thường xuyên dẫn đến chất lượng các danh hiệu từng lúc, từng nơi giảm
sút, làm ảnh hưởng chung đến kết quả của phong trào. Nhiều hộ gia đình, khóm
ấp…. phấn đấu đạt danh hiệu rồi nhưng sau đó không tiếp tục phấn đấu để giữ
vững danh hiệu văn hóa để vi phạm từ 1-2 tiêu chí, nên Ban chỉ đạo, Ban vận động
không công nhận danh hiệu.
2.3.2.4. Tác động hiệu quả của phong trào đến thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội:
Quan điểm của cấp ủy Đảng về phong trào là toàn diện và tập trung, chi
phối các cuộc vận động khác nên hiệu quả phong trào ảnh hưởng rất lớn đến việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị và kinh tế - văn hóa - xã hội của địa phương. Tuy
nhiên, một số đơn vị vẫn chưa thực sự lồng ghép nội dung của phong trào vào
nhiệm vụ chuyên môn của mình.
2.3.2.5. Những hạn chế, yếu kém, bức xúc trong đời sống văn hóa xã hội
hiện nay ở địa phương cơ sở:
Các thiết chế văn hóa hiện nay ở cơ sở tuy có nhưng chưa đủ và đã xuống
cấp, nơi có nhưng thiếu kinh phí, nhân sự nên chưa phát huy hiệu quả làm hạn chế
các hoạt động văn hóa, thể thao phục vụ nhân dân vùng nông thôn, vệ sinh môi
trường chậm khắc phục; tình trạng bỏ học chưa giảm nhiều…
Nguyên nhân hạn chế:
- Một số cấp ủy ngành và các chi Đảng bộ xã, thị trấn chưa thực sự quan tâm
đến việc xây dựng đời sống văn hóa, chưa xem đây là nhiệm vụ trọng tâm nên
trong chỉ đạo còn thiếu kiểm tra, làm theo từng đợt, còn khoán trắng cho Mặt trận,
đoàn thể cơ sở.
- Một bộ phận nhân dân chưa ý thức cao trong thực hiện một số tiêu chí của
phong trào như: bảo vệ mội trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, xây dựng cảnh
quang xanh - sạch - đẹp…
- Việc tổ chức bình xét hang năm ở một số xã, thị trấn chưa chuẩn bị chu
đáo. Đối với nhũng hộ chưa đạt một hoặc hai tiêu chuẩn chưa có giải pháp cụ thể
để giúp đỡ thực hiện.
- Trình độ của cán bộ làm công tác tuyên truyền ở cơ sở còn nhiều hạn chế,
chưa mang tính thuyết phục.
- Kinh phí cho phong trào còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, nhất là ở
ấp.
Trang 24
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC PHONG
TRÀO “TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA” Ở
XÃ VĨNH NHUẬN, HUYỆN CHÂU THÀNH ĐẾN NĂM 2020
3.1. Mục tiêu xây dựng, nâng chất phong trào “TDĐKXDĐSVH” ở xã
Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành đến năm 2020.
Trang 25