Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

khoá luận tốt nghiệp Đảng bộ huyện như xuân, tỉnh thanh hoá lãnh đạo thực hiện cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.9 KB, 106 trang )

1

MỤC LỤC


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá theo nghĩa rộng bao gồm hệ tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo
dục đào tạo, khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, các
thiết chế văn hoá và giao lưu văn hoá với nước ngoài.
Theo nghĩa rộng này, văn hoá bao quát và có những tác động không
nhỏ đến mọi lĩnh vực của đời sống con người. Đó là kết quả của quá trình
hướng tới cái chân - thiện - mỹ của con người. Văn hoá là nền tảng tinh thần,
là mục tiêu và là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Văn
hoá đóng vai trò quan trọng với sự phát triển của xã hội. Xây dựng một nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng cho sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Văn hoá ở khu dân cư là một bộ phận, là cơ sở, là nền tảng cơ bản để
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, Đảng luôn luôn
coi trọng và phát huy vai trò của văn hoá. Nghị quyết Trung ương 5, khoá
VIII (7/1998) khẳng định:
Làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã
hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng
địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí
cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội [19, tr.54].


Chủ trương phát động cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư" là chủ trương quan trọng và có ý nghĩa lâu dài đối


3

với sự phát triển văn hoá, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Văn hoá ở khu dân cư vừa là kết quả hoạt động của những người dân ở
khu dân cư, đồng thời là động lực làm cho từng thành viên trong cộng đồng
khu dân cư giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống và tiếp thu tạo ra
những giá trị văn hoá mới. Văn hoá khu dân cư góp phần điều chỉnh các quan
hệ xã hội, làm động lực phát triển nông thôn ở nước ta hiện nay.
Từ khi phát động (tháng 5/1995) đến nay, cuộc vận động đã mang lại
nhiều kết quả khá toàn diện, góp phần động viên nhân dân phấn đấu thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội; giải quyết những vấn đề bức
xúc và những yêu cầu thiết yếu của cộng đồng dân cư, từng bước cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương. Cuộc vận
động còn góp phần phát huy truyền thống đoàn kết, huy động các nguồn lực,
tạo nên sức mạnh nội lực ngay trong mỗi người dân, mỗi gia đình, mỗi cộng
đồng dân cư, lan toả rộng khắp toàn dân hưởng ứng thực hiện.
Hầu hết các khu dân cư có những bước phát triển mạnh về mọi mặt, đời
sống nhân dân được cải thiện và không ngừng nâng cao, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngày một tốt hơn. Đời sống vật chất, tinh thần của người
dân nông thôn, vùng sâu, vùng xa ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn
ngày một thêm khởi sắc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cuộc vận động vẫn còn một số
hạn chế tồn tại về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, về nội dung tổ
chức thực hiện, về vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong quá trình thực
hiện cuộc vận động. Yêu cầu đặt ra là cần tổng kết, đánh giá sâu sắc, rút ra

những kinh nghiệm, bài học từ các phong trào trên phạm vi cả nước và từng
địa phương nhằm đưa cuộc vận động phát triển toàn diện hơn nữa trong thời


4

gian tới, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Thanh Hoá nói chung và huyện Như Xuân nói riêng cũng như nhiều địa
phương khác trong cả nước, trên cơ sở quán triệt và thực hiện nhất quán các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã đạt nhiều thành tựu trong phát
triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” trên
địa bàn huyện đã có hiệu quả rõ rệt.
Tuy vậy, quá trình thực hiện cuộc vận động ở huyện đã bộc lộ những
hạn chế, chưa tạo ra được những mô hình đảm bảo chắc chắn và phù hợp với
từng vùng dân cư; diện của phong trào còn hạn chế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Đảng
bộ huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo thực hiện cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (20002010) làm đề tài Luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đề tài về lịch sử Đảng bộ địa phương lãnh
đạo một lĩnh vực vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Đề
tài này có thể góp phần tổng kết chung về cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” ở các địa phương khác và trên
phạm vi cả nước. Đây cũng là một phần của lịch sử Đảng bộ huyện với các
vùng, miền khác của đất nước nhất là đối với vùng miền núi như huyện Như
Xuân trong quá trình chuyển mình phát triển cùng với sự phát triển của đất
nước, hội nhập với khu vực và quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, khi đời sống văn hoá cơ sở đang đặt ra nhiều vấn

đề bức xúc, nhất là xu thế do “đô thị hoá” nông thôn diễn ra nhanh chóng.
Nông thôn và bản sắc văn hoá làng xã, văn hoá làng và làng văn hoá được xã


5

hội quan tâm đến nhiều hơn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài
viết bàn về văn hoá làng xã, về xây dựng đời sống làng xã Việt Nam. Đặc biệt
là sau Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII (7/1998), Kết luận Hội nghị Trung
ương 10 khoá IX (7/2004) và các chủ trương của Đảng về nâng cao đời sống
văn hoá ở cơ sở cho đồng bào, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số thì vấn đề văn hoá làng xã càng được quan tâm hơn bao giờ
hết.
Nhiều công trình liên quan đến đề tài đã được công bố với các cách tiếp
cận khác nhau về văn hóa và xây dựng văn hóa. Trước hết phải kể đến một số
công trình, bài viết của các tác giả: như: “Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam” của
Toan Ánh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 2, 1999; “Lệ làng Việt Nam” của Hồ
Hữu Thọ, Nxb Hà Nội, 1999; “Bản sắc dân tộc và hiện đại hoá trong văn hoá”
của Hoàng Trinh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; “Bản sắc văn hóa làng
trong xây dựng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ” của TS. Lê Quý Đức, Nxb Văn
hoá Thông tin, Hà Nội, 2001...
Về tạp chí có: “Xây dựng thiết chế văn hoá cơ sở như thế nào” của Võ Anh
Tuấn, Báo đại đoàn kết dân tộc, số 8/2007; “Văn hoá và phát triển ở Việt Nam
trong quá trình đổi mới” của Đinh Quang Ty, Tạp chí Tuyên giáo, tháng 9/2008;
“Giá trị văn hoá cổ truyền trong điều kiện xã hội hiện nay” của Tô Ngọc Thanh,
Tạp chí Tuyên giáo, tháng 10/2010...
Các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất ở làng xã; đề
cập đến hội làng, nếp sống, phong tục, sân khấu dân gian, phân tích những mặt
tích cực và tiêu cực của văn hóa làng xã trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên nào cứu dưới góc độ Lịch sử

Đảng về cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa hóa ở khu
dân cư nói chung, ở huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Kế thừa thành


6

tựu của những công trình khoa học liên quan, luận văn sẽ góp phần vào việc khắc
phục khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của những chủ trương của Đảng bộ huyện
Như Xuân về xây dựng văn hoá ở khu dân cư.
- Chỉ rõ quá trình lãnh đạo và kết quả thực hiện cuộc vận động đó.
- Chỉ ra một số kinh nghiệm bước đầu thực hiện cuộc vận động; đồng thời
đề xuất những kiến nghị nhằm tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trên địa bàn huyện trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ chủ trương Đảng về động cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn
chế trong quá trình thực hiện cuộc vận động toàn dân kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Từ đó, có một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh cuộc vận động này ở
huyện Như Xuân và có thể mở rộng cho địa phương khác trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những chủ trương, kết quả thực hiện và kinh nghiệm của Đảng bộ huyện
Như Xuân lãnh đạo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư” huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa (2000 - 2010).

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi: Địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá.


7

Về nội dung: Sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá
trong quá trình thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư”.
Về thời gian: Từ năm 2000 đến 2010 sau khi cuộc vận động triển khai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, luận văn trình bày các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước về văn hoá và xây dựng nền văn hoá mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu là
phương pháp lịch sử, logic, điều tra, phương pháp diễn giải và quy nạp, phương
pháp so sánh, đối chiếu… trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
khách quan, để làm rõ việc triển khai chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây
dựng văn hoá ở khu dân cư của Đảng bộ huyện Như Xuân.
6. Cái mới của luận văn
- Làm rõ những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
- Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Như Xuân lãnh đạo thực hiện cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” trên
địa bàn huyện (2000-2010).
- Chỉ ra một số kinh nghiệm và đề xuất một số kiến nghị nhằm đẩy
mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư” thời gian tới.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận


8

Làm rõ cơ sở khách quan và sự cần thiết của cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; trình bày có hệ thống quan
điểm, chủ trương của Đảng về văn hoá và xây dựng nền văn hoá mới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tổng kết xây dựng
văn hoá ở huyện, tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, về xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư huyện Như
Xuân, tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay, có thể sử dụng là một phần lịch
sử Đảng bộ huyện.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận văn chia làm 3 chương
Chương 1: Chủ trương của Đảng và Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá về cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”
Chương 2: Đảng bộ huyện Như Xuân lãnh đạo thực hiện cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” (2000-2010)
Chương 3: Một số kinh nghiệm và kiến nghị nhằm tiếp tục đẩy mạnh cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” huyện
Như Xuân trong thời kỳ mới


9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM HUYỆN NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HÓA VỀ CUỘC VẬN
ĐỘNG “TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HOÁ Ở KHU DÂN CƯ”
1.1. Cơ sở khách quan và sự cần thiết của cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”
1.1.1. Khái niệm chung về văn hoá
Theo khảo sát của PGS. Phan Ngọc, cho đến nay đã có trên 400 định
nghĩa về văn hoá. Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông: Văn hoá là tổng thể nói
chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử. Văn hoá là những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu
cầu đời sống tinh thần [77, tr.1014].
Theo Từ điển chính trị:
Văn hoá là toàn bộ những giá trị về mặt vật chất và tinh thần, do
loài người sáng tạo ra trong quá trình của thực tiễn và lịch sử.
Văn hoá là sự thống nhất của hai mặt vật chất và tinh thần. Văn
hoá vật chất là sự tổng hợp những tư liệu sản xuất và những giá
trị vật chất khác của xã hội, tuỳ theo từng trình độ phát triển lịch
sử của xã hội [50, tr.867].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm về văn hoá:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự


10


tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [40, tr.431].
Ở khái niệm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một số những sản
phẩm do con người sáng tạo ra, trong đó có văn hoá vật thể, có văn hoá phi
vật thể. Giá trị văn hoá là để vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống… nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Những sản phẩm do con
người phát minh ra mà Chủ tịch Hồ Chí Minh liệt kê nêu trên phải là những
sản phẩm nhằm phục vụ cho con người, có nghĩa là chứa đựng những giá trị.
Từ ý nghĩa trên đây đã bao hàm chứa trong đó nhiều nội dung: văn hoá là sự
phát triển tự thân và tất yếu, mang tính xã hội cao, do nhu cầu tồn tại của con
người; văn hoá là phương thức hoạt động và không ngừng nâng cao phương
thức theo tiến triển xã hội; trong cái chung về phương thức hoạt động có cái
riêng về công cụ cho sinh hoạt hàng ngày. Từ các mặt đó, vai trò sáng tạo và
giá trị nhân văn đã trở thành cốt lõi của văn hoá.
Tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mêhicô do UNESCO chủ trì
(họp từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 6 tháng 8 năm 1982), quan niệm:
Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt
về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách
của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những
tập tục và tín ngưỡng [58 tr. 5-6].
Như vậy, điểm thống nhất của những quan điểm trên là đều xem lao
động sáng tạo là cội nguồn của văn hóa và chính văn hóa đã đem lại cho con
người khả năng suy xét về bản thân làm cho chúng ta trở thành những sinh vật
đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân



11

một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ.
Cũng chính nhờ văn hóa mà con người thể hiện được phẩm chất, tự ý thức
được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành, đặt ra để xem
xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới
mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân mình.
Theo như ý nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu đời sống văn hoá và
đời sống văn hoá ở khu dân cư như sau:
Đời sống văn hoá:
Là một bộ phận của đời sống xã hội. Đời sống xã hội là phương
thức hoạt động sống của con người, với các nhu cầu vật chất và
tinh thần được đáp ứng làm cho con người tồn tại và phát triển.
Nhu cầu tinh thần giúp cho con người tồn tại và phát triển như là
nhân cách văn hoá. Hai nhu cầu cơ bản này xuất hiện ngay từ khi
con người hình thành. Khi xã hội phát triển lên mức cao, thì sự đáp
ứng nhu cầu cũng đạt tới trình độ phát triển tương ứng. Từ hai nhu
cầu cơ bản nên trên hình thành nhu cầu văn hoá [29, tr. 373-377].
Nhu cầu văn hoá là biểu hiện nhu cầu tinh thần. Nhu cầu tinh thần
hướng tới các giá trị tốt đẹp góp phần phát triển con người thì mới xem là nhu
cầu văn hoá. Nhu cầu văn hoá luôn thay đổi và phát triển, vì thế, sự đáp ứng
nhu cầu cũng phải thường xuyên nâng lên.
Con người là chủ thể sáng tạo ra thế giới và các giá trị, sản phẩm văn
hoá. Các sản phẩm văn hoá vật chất và tinh thần phối hợp với mạng lưới hoạt
động văn hoá của con người hình thành nên môi trường văn hoá. Đó là môi
trường tạo nên nhân cách văn hoá của con người. Con người vừa là chủ thể
sáng tạo văn hoá, lại vừa là người hưởng thụ các giá trị văn hoá, sản phẩm của
chính họ.



12

Muốn cho các sản phẩm văn hoá nảy sinh và được vận hành trong đời
sống xã hội, thì phải có các yếu tố: sản phẩm văn hoá, thể chế văn hoá, các
dạng hoạt động văn hoá và những con người văn hoá. Các yếu tố đó tạo thành
cấu trúc của đời sống văn hoá.
Như vậy, đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, bao
gồm các yếu tố văn hoá tĩnh tại (các sản phẩm văn hoá vật thể, các thiết chế
văn hoá) cũng như các yếu tố văn hoá động thái (con người và các dạng hoạt
động tư tưởng, đạo đức, lối sống...). Xét về một phương diện khác, đời sống
văn hoá bao gồm các hình thức sinh hoạt văn hoá hiện thực và cả các hình
thức sinh hoạt văn hoá tâm linh. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là xây
dựng các yếu tố tĩnh tại và yếu tố động.
Đời sống văn hoá ở khu dân cư: là đời sống tinh thần của xã hội ở các
làng, thôn, bản (gọi là khu dân cư). Đời sống văn hoá ở khu dân cư gồm hai
yếu tố cấu thành là: đời sống văn hoá và khu dân cư.
Khu dân cư:
Là địa bàn nhỏ dưới cấp xã, phường, thị trấn. Ở nông thôn là ấp,
bản, buôn, làng..., ở thành phố, lấy đường phố, khu phố, hẻm... là
nơi sinh sống của một cộng đồng dân cư. Những nơi đó thường
ứng với một hệ thống chính trị - xã hội tương đối hoàn chỉnh: Có
chi bộ Đảng hoặc tổ Đảng, có các chi phân hội đoàn thể, có tổ
trưởng dân phố, trưởng thôn, trưởng bản, Ban công tác Mặt trận.
Khu dân cư còn là nơi tập trung mọi tầng lớp xã hội, sống và
hoạt động theo tư cách công dân, trong đó bao gồm cả công
nhân, viên chức Nhà nước, cán bộ, đảng, đoàn thể chính trị, xã
hội đang tại chức hoặc đã về hưu, nơi những con người, những
gia đình đang cư trú và sinh sống [70, tr.58].
Từ sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu đời sống văn hoá ở khu dân
cư là tổng thể các hoạt động sáng tạo, tiêu dùng các giá trị, các sản phẩm văn



13

hoá của mọi thành viên trong khu dân cư, nhằm đáp ứng nhu cầu của cả cộng
đồng dân cư đem lại sự an sinh, bền vững và hạnh phúc cho mọi cá nhân và
cộng đồng dân cư đó.
1.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
đời sống văn hoá
1.1.2.1. Chủ nghĩa mác - Lênin về xây dựng đời sống văn hoá
Kế thừa những tinh hoa văn hoá của nhân loại, C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đã xây dựng nên một học thuyết.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã khẳng định: “Văn hoá là một
trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh thực trạng xã hội và những
quan hệ xã hội. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, văn hoá tác động
tích cực trở lại đối với đời sống xã hội” [25, tr.31]. “Lao động được tiến hành
trong xã hội và do xã hội” là nguồn gốc của văn hoá. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp để lý giải mọi hiện tượng văn hoá
và khẳng định văn hoá có tính chất giai cấp, nhân dân, dân tộc và nhân loại.
Trong các bài viết của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định văn
hoá là phương thức sản xuất tinh thần, phản ánh và chịu sự quy định của sản
xuất vật chất. Bên cạnh đó, những sinh hoạt vật chất của những giai cấp khác
nhau trong xã hội đã làm nảy sinh những tư tưởng, tình cảm khác nhau. Chính
vì vậy, trong xã hội có giai cấp, văn hoá luôn mang tính giai cấp.
Văn hoá còn có tính nhân dân sâu sắc. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư
sản đã biến những nhà trí thức, nghệ sĩ... thành những người làm thuê. Và họ,
những người sáng tạo ra văn hoá, lại trở thành kẻ bị bóc lột và bị ngay những
sản phẩm văn hoá ấy thống trị. Giai cấp tư sản đã “tước đoạt” các giá trị văn
hoá của quần chúng lao động, biến những giá trị văn hoá ấy thành tài sản của
giai cấp thống trị. Chính sự mâu thuẫn ấy khiến cho quần chúng bị tách biệt

với văn hoá [25, tr.35].


14

C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng
tạo ra văn hoá, là người chủ đích thực của văn hoá. Vì vậy, họ có quyền được
hưởng những thành quả văn hoá.
Tuy nhiên, không có nền văn hoá của dân tộc nào phát triển độc lập
hoàn toàn với văn hoá của các dân tộc khác. Sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các nền văn hoá là một quy luật khách quan. “Sự giao lưu, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các nền văn hoá sẽ giúp cho nền văn hoá của các dân tộc xoá đi
những điểm khuyết thiếu và phát triển toàn diện hơn” [25, tr.37].
Kế thừa sự nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển
quan điểm về tính dân tộc của văn hoá trong quá trình xây dựng nền văn hoá
mới - nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên, V.I.Lênin đã đề cập đến
luận điểm về hai dòng văn hoá trong một nền văn hoá dân tộc: dòng văn hoá
chính thống của giai cấp thống trị và những yếu tố của dòng văn hoá xã hội
chủ nghĩa của quần chúng lao động. Người viết:
Mỗi nền văn hoá dân tộc đều có những thành phần, thậm chí
không phát triển, của một nền văn hoá dân chủ và xã hội chủ
nghĩa, vì trong mỗi dân tộc đều có quần chúng lao động và bị
bóc lột mà điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản sinh ra
một hệ tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa [31, tr.154].
V.I.Lênin cho rằng văn hoá vô sản vừa là mục tiêu vừa là động lực
của cách mạng. Lênin đã đưa ra một công thức có tính khái quát cao: “Văn
hoá vô sản = chủ nghĩa cộng sản” [33, tr.429]; đồng thời khẳng định:
Đảng cộng sản là người thực hiện sự nghiệp to lớn này. Văn hoá vô
sản phải là một bộ phận hữu cơ của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp
văn học phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai

cấp vô sản, phải thành một bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc trong bộ


15

máy dân chủ - xã hội vĩ đại, thống nhất do toàn đội tiên phong giác
ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân điều khiển [30, tr.123].
Lênin cũng đã chỉ ra phương thức xây dựng nền văn hoá mới: Phải tiếp
thu toàn bộ nền văn hoá của chủ nghĩa tư bản để lại và dùng nền văn hoá đó
để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ khoa học, kỹ thuật, tất cả
những kiến thức, tất cả nghệ thuật. Không có cái đó chúng ta không thể xây
dựng được cuộc sống của xã hội cộng sản được [32, tr.67].
Tiếp thu toàn bộ nền văn hoá không có nghĩa là tiếp thu một cách
không có chọn lọc, tiếp thu cả mặt xấu lẫn mặt tốt mà là tiếp thu những giá trị
văn hoá đích thực mà nhân loại thừa nhận.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, tính giai cấp, tính nhân
dân, tính dân tộc của văn hoá có quan hệ mật thiết với tính nhân loại phổ biến
của văn hoá. Khẳng định bản chất của văn hoá là phát huy năng lực của bản
chất người, nói tới văn hoá là nói tới con người, các nhà kinh điển đã khẳng
định tính nhân loại của văn hoá. Các ông cho rằng, khi những yếu tố văn hoá
phản ánh hiện thực khách quan và hướng đến sự tiến bộ xã hội thì chúng là tài
sản của toàn dân, mang tính nhân loại phổ biến, bất kể nó do giai cấp nào tạo
ra.
Như vậy, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn
hoá đã trở thành nền tảng, soi sáng cho đường lối phát triển văn hoá của Đảng
ta.
1.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống văn hoá
Chủ tich Hồ Chí Minh được UNESCO khẳng định là Anh hùng giải
phóng dân tộc - nhà văn hoá lớn, luôn quan tâm đến văn hoá và để lại di sản
to lớn về văn hoá.

Hồ Chí Minh đã có những quan điểm tư tưởng về bản chất, vai trò của
văn hoá và việc xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam.


16

Hồ Chí Minh coi văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng. Người từng nói đến văn hoá với ý nghĩa “soi đường cho
quốc dân đi”; phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự
cường, tự chủ; phải xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và
cán bộ mới; văn hoá có tác dụng sửa đổi tham nhũng, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây
xã hội mới...
Nói đến văn hoá là nói đến con người, mà con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh lại vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng “vì
lợi ích trăm năm phải trồng người”, đó là sự khái quát ở mức cao vai trò của
văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh coi trọng những truyền thống tốt đẹp của ông cha: “Dân
ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” [38, tr.216].
“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy” [51, tr.368]. Người quan niệm, trong công cuộc kiến thiết nước
nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cùng phải coi trọng như nhau: chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hoá. Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng. Những cơ sở
hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và đầy đủ
điều kiện phát triển được. Văn hoá, văn nghệ cũng như mọi hoạt động khác
không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hoá phải phục
vụ quần chúng nhân dân, có nghĩa là văn hoá phải trở về với sinh hoạt thực tại
của con người. Mọi sáng tạo văn hoá phải hợp trình độ đại đa số đồng bào.
“Nghệ thuật phải gần với cuộc sống. Người sáng tác không thể tuỳ ý muốn
tưởng tượng ra thế nào cũng được. Điều quan trọng là phải đánh giá đúng
nhân dân. Họ là những người sáng tác, đối tượng phản ánh, đồng thời là

những người kiểm nghiệm sản phẩm văn hoá” [51, tr.296-297].
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh coi việc đầu tư cho văn hóa là đầu tư
cho con người, phát triển văn hóa chính là phát huy nguồn lực con người -


17

nguồn lực to lớn và quyết định nhất đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Tạo cho con người có trình độ văn hóa cao, nhân cách đẹp và vị tha,
giàu lòng yêu nước, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội là việc làm thường
xuyên và lâu dài. Bởi vậy, Người đã hết lòng chăm lo cho việc đào tạo, bồi
dưỡng nhân tố con người. Người nhận định: Phải xúc tiến văn hóa để đào tạo
con người mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Khẳng định vai trò của
việc đào tạo con người, Người dạy: "Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích
trăm năm trồng người".
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng đời sống cho nhân dân phải
được tiến hành xây dựng nếp sống văn hóa. Từ những năm 1946, trong công
cuộc kháng chiến kiến quốc, Người đã viết tác phẩm "Đời sống mới" nhằm
động viên, kêu gọi các tầng lớp nhân dân thực hành đời sống mới với tinh
thần rất rõ là làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn,
tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời sống mới.
Quan điểm xây dựng đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức
rõ ràng, cụ thể, thiết thực, có kế thừa và phát huy những phong tục tập quán
tốt đẹp mang tính truyền thống, loại trừ những hủ tục lạc hậu, không phù hợp:
Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì
mới cũng làm. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì
phải sửa đổi cho hợp lý. Thí dụ: đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta
phải giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Thí
dụ: ta phải tương thân, tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với
dân", "Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: ăn ở cho hợp

vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp. Nếu mọi người đều làm đúng
đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường [43, tr.95].


18

Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và
xây dựng đời sống văn hoá trong nhân dân là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.3. Truyền thống văn hoá và thực trạng đời sống văn hoá ở khu
dân cư huyện Như Xuân, tỉnh Thanh hoá
1.1.3.1. Huyện Như Xuân - truyền thống lịch sử và văn hoá
Là một tỉnh lớn có bề dày lịch sử, với diện tích tự nhiên là 11.116,74km2,
tỉnh Thanh Hóa được chia làm 3 vùng miền: miền núi trung du, đồng bằng và
ven biển. Tổng dân số trong toàn tỉnh là 3.412.500 người, gồm 7 dân tộc anh
em: Mường, Kinh, Thái, Thổ, Dao, H’mông, Khơ mú. Thanh Hoá có 27
huyện, thị xã và thành phố với 637 xã, phường, thị trấn, có 5.976 thôn, bản,
khu phố (gọi chung là khu dân cư) nên Thanh Hoá có nhiều tiềm năng và thế
mạnh về nguồn lao động, tài nguyên nhiên, đất đai, giàu truyền thống đoàn kết,
yêu nước. Đây là một thuận lợi để Thanh Hoá phát huy có hiệu quả cuộc vận
động ở các địa phương trong toàn tỉnh [61, tr.01].
Như Xuân là huyện miền núi ở Tây Nam tỉnh Thanh Hoá, cách trung
tâm của tỉnh khoảng 60km về phía Đông, trung tâm huyện lỵ là Thị trấn Yên
Cát; có tổng diện tích là 717,4km 2, với dân số là 64.355 người (12/2010).
Huyện Như Xuân có 01 thị trấn Thị trấn là Thị trấn Yên Cát và 17
xã (Thượng Ninh, Bãi Trành, Xuân Bình, Hóa Quỳ, Xuân Quỳ, Bình Lương,
Yên Lễ, Cát Vân, Cát Tân, Tân Bình, Thanh Quân, Thanh Xuân, Thanh Hòa,
Thanh Phong, Thanh Lâm, Thanh Sơn, Xuân Hòa) với có 183 làng, bản, khu
phố (gọi tắt là khu dân cư) được chia thành 3 vùng kinh tế lớn: vùng núi,
trung du và vùng đồng bằng. Có 04 dân tộc anh em cùng sinh sống: Thái,

Thổ, Mường, Kinh. Trong đó, người Thổ chiếm tỷ lệ lớn nhất: 87,75%; người
Kinh chiếm 8,7%; người Thái chiếm 6% [13, tr.10].


19

Huyện Như Xuân có 01 di tích lịch sử văn hóa, cách mạng cấp tỉnh là
di tích Đình Thi, và các danh lam thắng cảnh như thác Đồng Quan, rừng quốc
gia Bến En, Thác Mơ, các hang đá xếp tầng tự nhiên quý hiếm như núi đá Bọt
xã Xuân Bình, động Lèn Hung...
Như Xuân là một huyện có bề dày về lịch sử dựng nước và giữ nước.
Từ giữa năm 1941, khu vực đồn điền Yên Lạc (Như Xuân) được Tỉnh uỷ lựa
chọn để xây dựng căn cứ cách mạng phía Tây Nam của tỉnh Thanh Hoá.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng bào các dân tộc Như Xuân do
Tỉnh uỷ trực tiếp chỉ đạo đã đấu tranh xoá bỏ chính quyền Thổ ty Lang đạo,
xây dựng chính quyền cách mạng. Đảng bộ huyện Như Xuân ra đời (tháng 8
năm 1949) đã lãnh đạo đồng bào các dân tộc Như Xuân tích cực xây dựng và
bảo vệ hậu phương, dũng cảm tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã
hội.
1.1.3.2. Thực trạng đời sống văn hoá ở khu dân cư huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hoá
- Thành tựu
Từ xưa tới nay, nhân dân các dân tộc trong huyện một lòng vững tin
theo Đảng. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đồng bào tích cực
góp sức người sức của tham gia kháng chiến. Trong hoà bình, đồng bào cần
cù trong lao động sản xuất, phong trào xoá đói giảm nghèo đã đạt được những
kết quả quan trọng, góp phần thiết thực cải thiện đời sống nhân dân, nhiều nét
mới về giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức từng bước được hình thành.
Tính năng động và tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá

nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội được mở rộng.
Tinh thần đoàn kết, các phong tục tập quán tiến bộ được duy trì và phát triển.


20

Các hoạt động văn hóa chỉ có hiệu quả thiết thực khi xuất phát từ nhu
cầu của thực tiễn và đáp nguyện vọng, đòi hỏi của các tầng lớp nhân dân. Khi
xây dựng gia đình văn hóa, làng và tổ dân phố văn hóa, chúng ta có lợi thế là
tiếp thu và phát huy những giá trị truyền thống, những tinh hoa văn hóa của
dân tộc, nhưng phải thấy trong thực tế những giá trị ấy đang phải đối đầu với
mặt trái của cơ chế thị trường, lối sống thực dụng tôn thờ đồng tiền và các
loại văn hóa phẩm độc hại từ bên ngoài tràn vào. Vì vậy, "xây" phải đi đôi với
"chống". Bên cạnh đó, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, sân
thể thao, cơ sở vật chất, trang thiết bị... thời gian qua được các xã, thị trấn chú
trọng xây dựng theo phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm. Những
con số đó đã thể hiện sự hưởng ứng tích cực của các xã, thị trấn đối với cuộc
vận động, tạo ra diện mạo mới của đời sống văn hóa ở khu dân cư, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhà.
Kết hợp chặt chẽ cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư ", với các phong trào thi đua yêu nước, phong trào xóa
đói, giảm nghèo và các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Qua đó từng bước đẩy
lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh trong toàn xã hội,
làm cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú hơn,
khối đoàn kết dân tộc ngày càng gắn kết chặt chẽ hơn bao giờ hết.
Huyện Như Xuân từ năm 2001 trở lại đây, hệ thống thông tin đại chúng
có bước phát triển quan trọng. Hiện nay, toàn huyện có 7 trạm phát lại truyền
hình phủ sóng trên 85% tổng dân cư trên địa bàn huyện, bản tin đài địa
phương đã được phát trên ti vi từ 10 - 15 phút, cuốn “Bản tin Như Xuân”, báo
Thanh Hoá, báo Nhân dân đã đến được với hầu hết đồng bào, đặc biệt là đồng

bào các dân tộc thuộc 6 xã (Thanh Quân, Thanh Sơn, Thanh Lâm, Thanh
Xuân, Thanh Hoà, Thanh Phong) vùng cao của huyện.


21

Thiết chế văn hóa của huyện nổi bật là 01 trung tâm Văn hóa lớn của
toàn huyện, bao gồm: bộ phận bảo tồn bảo tàng, nhà thư viện, bộ phận tuyên
truyền, 01 hội trường có sức chứa đến 300 người; 02 sân bóng chuyền; 01 sân
vận động chuyên tổ chức các hoạt động thể thao lớn như: giao lưu Bóng đá,
chạy, nhảy và các môn thể thao truyền thống của các dân tộc trong toàn
huyện, rộng khoảng 8.000 m2; 01 sân tennis; 04 sân cầu lông và hàng chục
điểm bóng bàn. Huyện có 01 di tích lịch sử văn hóa, cách mạng cấp tỉnh là di
tích Đình Thi và các danh lam thắng cảnh.
Tính đến tháng 12/2010, huyện Như Xuân có 02 xã văn hoá (trong đó,
01 xã và 01 thị trấn); có 02 thư viện xã; có 11/18 xã, thị trấn có nhà văn hoá
kiêm hội trường Uỷ ban Nhân dân xã, thị trấn. Toàn huyện có 183 khu dân
cư. Trong đó, số khu dân cư tiên tiến là 147 khu dân cư; 147 khu dân cư đã
khai trương làng văn hoá và có nhà văn hoá; 125 khu dân cư có sân chơi, bãi
tập; 157 khu dân cư đảm bảo về môi trường xanh, sạch, đẹp và không có tội
phạm, tệ nạn xã hội; 140 khu dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên; có
04 khu dân cư có đèn chiếu sáng công cộng; 14 khu dân cư được cấp Tỉnh
công nhận là khu dân cư văn hoá và được cấp huyện công nhận là 91 khu dân
cư văn hoá.100% khu dân cư có hệ thống cống rãnh thoát nước; 100% khu
dân cư đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Có 11.544 hộ gia đình đạt gia đình
văn hoá; 10.185 hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình “Ông bà, cha mẹ mẫu
mực, con cháu hiếu thảo” [59, tr.11].
Và hiện nay, Như Xuân có nhiều khu dân cư được đánh giá là thực
hiện tốt nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Có được kết quả
thiết thực nêu trên, xuất phát từ nhu cầu của đông đảo các tầng lớp nhân dân

trong huyện.
Phong trào Văn hóa - Thể thao phát triển khá mạnh, hiện có 02 đội
bóng chuyền nam, nữ, 01 đội bóng đá nam, 01 đội nghệ thuật quần chúng với


22

hàng trăm vận động viên là cán bộ công nhân viên chức của cơ quan trực
thuộc địa bàn huyện quản lý.
Về hoạt động nghệ thuật và văn nghệ quần chúng: một số môn nghệ
thuật truyền thống của dân tộc được lưu truyền, các xã đều có đội văn nghệ
nghiệp dư biểu diễn phục vụ công chúng trong các ngày tết, ngày lế chủ yếu
là các bài hát, điệu múa ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi cuộc sống mới
được dàn dựng và biểu diễn mang đậm nét văn hoá của các dân tộc trong
huyện.
Về giao lưu văn hoá, từ xưa tới nay nhân dân trong huyện chủ yếu chỉ
giao lưu văn hoá giữa các dân tộc trong huyện, giao lưu văn hoá giữa 11
huyện miền núi của tỉnh. Nhìn chung, sự giao lưu văn hoá còn thuần tuý chưa
có biểu hiện phức tạp, môi trương văn hoá của huyện cơ bản trong sạch, lành
mạnh.
Văn hoá truyền thống của huyện được biểu hiện rõ nét ở việc coi gia
đình là môi trường văn hoá đầu tiên, hình thành nên nhân cách văn hoá con
người: lòng hiếu thảo, ôn kinh ông bà, cha mẹ; giữ gìn quan hệ với họ tộc,
chu tất việc giỗ chạp, gìn giữ nếp gia phong ở thôn, làng, lễ độ trong ứng xử,
giữ gìn tình làng nghĩa xóm.
Việc cưới hỏi, ma chay, giỗ chạp ở Như Xuân cũng có những nét tương
đồng với các vùng miền xuôi. Hôn lễ ngày nay ở Như Xuân được quy định
thống nhất theo quy định chung, trong đó có thủ tục hành chính, bắt buộc là
trao giấy kết hôn tại Phòng tư pháp xã có sự chính kiến của chính quyền, gia
đình, họ tộc, bạn bè. Công việc tiếp theo có thể tổ chức liên hoan văn nghệ,

vật chất nhưng gọn nhẹ, vui tươi, an toàn. Gần đây, trong lễ ăn hỏi nhiều nơi
dùng 5 tráp quả được 5 nam thanh niên bê đi cùng đại diện họ nhà trai đưa tới
nhà gái, tạo thêm một nét đẹp trong đời sống làng quê.


23

Việc sử dụng nhạc cưới, nhạc tang phải đảm bảo âm thanh vừa phải,
không dùng loa để phát đi xa và không diễn ra sau 22 giờ. Các đội phục vụ
này phải ký cam kết với Phòng văn hoá huyện và phải chấp hành nghiêm khi
đi phục vụ ở trong hoặc ngoài xã của mình.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, tưởng nhớ các anh
hùng dân tộc, phong trào đền ơn đáp nghĩa trở thành phong trào quần chúng
sâu rộng. Lễ tôn vinh anh hùng dân tộc và những người có công ở Như Xuân
là Lễ rước kiệu Thành Hoàng làng hay Lễ hội Đình thi diễn ra hàng năm và
Đại lễ 3 năm một lần vào ngày 16/3 âm lịch.
Đình Thi - đền Thi hay nhà thờ họ Lê là theo cách gọi của đồng bào
dân tộc Thổ. Đình Thi theo cách gọi của đồng bào dân tộc Thổ ở thôn Trung
Thành, xã Yên Lễ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh hóa, là nơi thờ phúc thần: Lê
Phúc Thành, người có công trong việc lập làng.
Đình Thi (lấy tên của cánh đồng Thi để đặt tên cho Đình) được xây
dựng trên một gò đất cao, có xóm làng và những ruộng nước bao quanh, ở
phía Nam có núi Mùn Tượng, phía Bắc có núi Đồng Cổ, trước mặt là cánh
đồng Lánh và những xóm làng ven chân núi. Có thể nói, Đình Thi là di tích
duy nhất và là lễ hội truyền thống có quy mô lớn nhất của tộc người Thổ
huyện Như Xuân.
Ngoài việc giết trâu tế Lễ, Lễ hội còn được thể hiện dưới các hoạt động
văn hoá và được biểu hiện bằng nhiều hình thức như đốt lửa trại, biểu diễn
văn nghệ, thi thiếu nữ đẹp trong sắc phục dân tộc, thi ẩm thực và các trò chơi
dân gian như ném còn, kéo co...

Lễ hội Đình Thi tuy chỉ mang tầm vóc địa phương nhưng đã trở thành
nét sinh hoạt quen thuộc hàng trăm năm của người dân nơi đây. Hội lễ là môi


24

trường sản sinh, bảo lưu các trò chơi, điệu múa dân gian. Giá trị văn hoá tinh
thần mà lễ hội mang lại mãi mãi trường tồn cùng thời gian.
Nhìn một cách tổng quát, trong những năm qua, vấn đề xây dựng đời
sống văn hoá ở huyện Như Xuân đã có bước phát triển rõ rệt.
- Hạn chế:
Trong những năm gần đây, do tác động của cơ chế thị trường, mặc dù
trong địa bàn chưa có những mâu thuẫn, những cạnh tranh gay gắt nhưng đã
có sự phân hoá về mức thu nhập và lối sống của một số ít bộ phận giữa người
buôn bán và người sản xuất nông nghiệp. Sự chuyển biến nhận thức về vai
trò, vị trí của việc xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư còn chậm, công
tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động văn hoá chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển của nó, đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Hiện nay, nhiều nhà văn hóa xây dựng xong ít hoạt động; chưa thật sự
trở thành nơi sinh hoạt văn hóa thường xuyên của nhân dân, gây lãng phí.
Tổ chức các lễ hội văn hóa truyền thống chưa đáp ứng được nhu cầu
của các tầng lớp nhân dân, dẫn đến sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào
các phong trào văn hoá, văn nghệ còn thấp; hình thức, phương pháp hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và vui chơi giải trí chưa phù hợp các đối
tượng, tầng lớp nhân dân; việc phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân
dân trong sinh hoạt văn hóa còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc vận động các cơ
quan, doanh nghiệp, trên địa bàn tham gia đóng góp xây dựng các thiết chế
văn hóa, thể dục thể thao ở cộng đồng, xây dựng quỹ hỗ trợ người nghèo,
người có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách chưa cao. Những biểu hiện

tiêu cực xã hội vẫn còn tiềm ẩn và có chiều hướng gia tăng đe doạ 1/3 số dân
cư trong huyện.


25

Như vậy, việc xây dựng đời sống văn hoá làng xã có vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển văn hoá ở cơ sở. Thông qua các hoạt động
văn hoá truyền thống, việc giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao tạo
điều kiện để mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham gia. Vì vậy, xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư trong giai đoạn hiện nay là một việc làm thiết
thực và là quy luật khách quan, qua đó nhằm phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị văn hoá mới làm giàu thêm nền
văn hoá dân tộc. Và thực trạng những thành tựu, hạn chế của đời sống văn
hoá ở khu dân cư huyện Như Xuân những năm qua đã thể hiện rõ điều này.
1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
tỉnh Thanh Hoá về cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá ở khu dân cư”
1.2.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
về cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư”
1.2.1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt nam phát động cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”
Chủ trương phát động cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư” với 6 nội dung (Đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển
kinh tế; đoàn kết phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”; đoàn kết
phát huy dân chủ, gìn giữ kỷ cương; đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá;
đoàn kết chăm lo sự nghiệp giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, phát triển thể dục thể thao
và thực hiện dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ môi trường; đoàn kết xây
dựng cơ sở chính trị vững mạnh gắn bó mật thiết với nhân dân, tổ chức tốt

“Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc” ở khu dân cư) của cuộc vận động nhằm
gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá tryền thống của dân tộc, khơi dậy
tinh thần yêu nước, tình làng nghĩa xóm ở mọi cộng đồng dân cư trên cả nước.


×