Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Giáo dục lối sống cho sinh viên trường đại học Hồng Đức - Thanh Hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.03 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao
tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng dân tộc, vừa là nhà tư tưởng lớn, nhưng có lẽ
khơng ai có được tầm vóc thời đại được loài người tiến bộ, ca ngợi và thừa
nhận như Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa. Muốn có con người mới xã
hội chủ nghĩa thì cơng việc đầu tiên phải làm là quan tâm đến vấn đề giáo
dục. Với cách nhìn khách quan, khoa học, Hồ Chí Minh ln đánh giá cao vai
trị, vị trí và khả năng của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng
và dân tộc. Người cho rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà.
Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh đều phụ thuộc vào thanh
niên”. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc giáo dục lối sống cho thanh
niên. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề lối sống được hòa quyện trong đạo
đức và tác phong, là biểu hiện tập trung những phẩm chất cao đẹp của con
người. Cùng với đạo đức cao cả, lẽ sống đẹp, cao quý, lối sống là biểu hiện trực
tiếp của hành động sống và phương thức sống. Theo đó, Hồ Chí Minh là hình
ảnh đặc sắc và sáng ngời của lối sống xã hội chủ nghĩa, kết tinh truyền thống dân
tộc và tính hiện đại của thời kỳ mới. Học tập tư tưởng, đạo đức và lối sống của
Hồ Chí Minh khơng chỉ là tiếp thu thực hành những lời dạy quý báu của Người
mà còn là quá trình học tập những giá trị cao đẹp của cả cuộc đời Bác.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những năm qua, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn đặt niềm tin vào thế hệ trẻ, giao cho họ những nhiệm
vụ hết sức quan trọng và đề ra những chủ trương, chính sách nhằm phát triển
sự nghiệp giáo dục, đào tạo.
Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị
nhân cách con người Việt Nam. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh



2
niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ,
đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [27].
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế thị trường đã
có những tác động nhiều chiều tới đời sống của các tầng lớp nhân dân. Bên
cạnh mặt tích cực là tạo điều kiện cho nước ta được giao lưu, hội nhập tiếp
thu tinh hoa văn hóa tiến bộ của nhân loại, hình thành một lớp thanh niên
năng động, có tri thức, bản lĩnh, là lực lượng hùng hậu tham gia vào sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước. Nền kinh tế thị trường còn gây những ảnh
hưởng tiêu cực, phá vỡ nét đẹp văn hóa truyền thống, tác động đến lối sống, văn
hóa của nhân dân ta. Chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức
cách mạng theo cách gọi của Hồ Chí Minh, giờ đây có cơ hội để phát triển. Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đang bị các thế lực thù địch
chống phá, cơng kích. Ngồi tư tưởng ra, chúng cịn đẩy mạnh tiến cơng trên
lĩnh vực văn hóa, lối sống mà đối tượng chủ yếu là thanh niên. Tất cả những
điều đó đã tác động xấu đến việc hình thành và phát triển nhân cách của thanh
niên nói chung và sinh viên trường Đại học Hồng Đức nói riêng.
Trường đại học Hồng Đức - Thanh Hóa từ khi thành lập tới nay đã trải
qua 15 năm xây dựng và trưởng thành. Trong chương trình trọng tâm của Nhà
trường, công tác giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, sinh viên luôn được Đảng
ủy, Ban Giám hiệu đặc biệt quan tâm và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi
nhận. Nhìn chung, sinh viên trường đại học Hồng Đức có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có ý thức phấn đấu trong học tập, có phẩm chất đạo đức tốt, lối
sống trong sáng, lành mạnh. Tuy nhiên, một bộ phận sinh viên có biểu hiện
sống thiếu ý thức, sa vào các tệ nạn xã hội. Nhiều sinh viên thiếu kỹ năng giải
quyết những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Trước yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, việc giáo dục đạo
đức cách mạng, xây dựng lối sống mới cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là nội dung quan trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách của tuổi



3
trẻ, là sự chuẩn bị hành trang quan trọng cho thanh niên trên bước đường lập
thân, lập nghiệp.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Giáo dục lối sống cho sinh viên
trường đại học Hồng Đức - Thanh Hóa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống là một nội dung quan trọng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, trong những năm qua đã có nhiều sách,
báo, tạp chí, luận án nghiên cứu về lối sống ở những góc độ khác nhau như:
Thứ nhất: Nhóm cơng trình về sách
- Phong Châu, Nguyễn Trọng Thụ, Về lối sống mới của chúng ta, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1983. Tác giả bàn về lối sống mới, nội dung và phương pháp
xây dựng lối sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, đấu tranh với những
hiện tượng tiêu cực.
- Lê Thanh, Văn hóa và lối sống hành trang vào thế kỷ XXI, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1999. Tác giả đề cập tới lý luận chung về văn hóa, văn
hóa và bản sắc dân tộc Việt Nam, văn hóa gia đình, nếp sống trong q trình
phát triển của xã hội nói chung và trong nền kinh tề thị trường nói riêng.
- Nguyễn Thị Oanh, Thanh niên - Lối sống, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh, 2001. Cơng trình đề cập tới lối sống của thanh niên thời hiện đại và
nhân tố tác động tới tâm lý thanh niên....
- Đỗ Huy, Lối sống dân tộc - hiện đại mấy vấn đề lý luận và thực tiễn.
Nxb Văn hóa thơng tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2008. Tác giả đề cập tới cơ
sở lý luận của lối sống, bản chất của lối sống dân tộc và hiện đại xã hội chủ
nghĩa, lối sống dân tộc hiện đại với sự phát triển nhân cách con người Việt
Nam trong thế kỷ mới.
Thứ hai: Nhóm các cơng trình, luận văn, luận án
- Phạm Bá Lượng, Mấy vấn đề về lối sống và xây dựng lối sống trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,



4
Luận văn thạc sĩ Triết học, 1995. Luận án đã đánh giá thực trạng lối sống của
một số tầng lớp nhân dân trong xã hội trong thời kỳ đầu nước ta tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp xây
dựng lối sống trong tình hình mới.
- Võ Văn Thắng, Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, 2005. Luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng của việc kế thừa,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong thời gian qua và
đề xuất phương pháp xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay.
- Phạm Tấn Xuân Tước, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường
đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính
trị, 2006. Luận văn đã đi sâu làm rõ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức, lối sống, về phương pháp giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên.
Đánh giá thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên các trường Đại học ở
thànhphố Hồ Chí Minh hiện nay và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên.
- Nguyễn Ngọc Hà, Tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về lối sống với
việc xây dựng lối sống cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, 2011. Luận văn đã nêu rõ được khái
niệm lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung xây dựng lối sống theo
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đánh giá thực trạng lối sống của sinh viên trường Đại
học Giao thông Vận tải và đề xuất phương hướng xây dựng lối sống cho sinh
viên trường Đại học Giao thông Vận tải theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
Thứ ba: Nhóm cơng trình các bài viết đăng trên báo, tạp chí
- Đinh Xn Lâm - Bùi Đình Phong, “Giá trị trường tồn của tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh trong lịng nhân loại tiến bộ”, Tạp chí thơng tin lý luận,
Hà nội, 1995.


5
- Nguyễn Hữu Phúc, “Mấy vấn đề xây dựng lối sống văn hóa cơ sở
hiện nay”, Tạp chí Thơng tin lý luận, số 8, 1999.
- Cao Văn Định, “Giáo dục lối sống cho thanh niên đơ thị hiện nay”
Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 2, 2000.
- Nguyễn Chí Dũng, “Xã hội hóa lối sống và xây dựng lối sống trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Sinh hoạt lý
luận, số 5, 2000.
- Phạm Nguyễn, “Hồ Chí Minh với việc xây dựng đạo đức, lối sống”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 9, 2002.
- Lê Bỉnh, “Đấu tranh khắc phục tư tưởng và lối sống thực dụng”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 5, 2005.
- Đồn Văn Đàn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, giáo dục
thanh niên”, Tạp chí Cộng sản, số 6, năm 2005.
- Nguyễn Thị Mỹ Trang “Xây dựng lối sống văn hóa cho thanh niên
hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 6, năm 2006.
- Võ Văn Thắng “Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến việc xây
dựng lối sống ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 10, năm 2006.
Các bài viết đăng trên báo, tạp chí đã đề cập tới vấn đề thực trạng lối
sống các tầng lớp nhân dân nói chung và của thanh niên trong thời kỳ mới nói
riêng, những nhân tố ảnh hưởng tới lối sống của thanh niên hiện nay. Đồng
thời các tác giả cũng đề xuất một số biện pháp xây dựng lối sống cho thanh
niên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư: Nhóm các cơng trình đề tài khoa học
- Mặc Văn Trang, Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay và những
phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống sinh viên, Đề tài khoa học cấp bộ,

Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, 1995.
- Phạm Văn Thơi, Xây dựng nếp sống lành mạnh trong sinh viên các
trường đại học theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ tư (khóa VII) và


6
Nghị định 87/CP của Chính phủ, Đề tài khoa học cấp bộ, Đại học Giao thông
vận tải, 1997.
Nội dung của các sách, bài viết đăng trên báo, tạp chí và các cơng
trình luận văn, luận án nêu trên đều tập trung thể hiện nhiều góc độ khác nhau
về lối sống trong đời sống xã hội, những tác động nhiều mặt của kinh tế thị
trường đối với đời sống của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Đồng thời các bài viết cũng đã đề xuất nhiều biện pháp góp phần định hướng
xây dựng lối sống của thanh niên và nhân dân ta trong tình hình mới. Tuy mỗi
cơng trình khoa học đi sâu nghiên cứu nhiều lát cắt khác nhau về vấn đề lối
sống của thanh niên ở từng lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, ở mỗi đơn vị lại có
những đặc điểm riêng về hồn cảnh địa lý, con người, giá trị văn hóa truyền
thống của địa phương, vùng miền. Vì vậy, từ thực tế nơi công tác, tác giả
mạnh dạn đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống và nghiên cứu
thực trạng lối sống của thanh niên trường đại học Hồng Đức - Thanh Hóa để
đề xuất phương pháp giáo dục phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về lối sống và vận dụng
vào việc giáo dục cho sinh viên trường đại học Hồng Đức hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm lối sống và các khái niệm có liên quan.
- Tìm hiểu nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về lối sống và tầm
quan trọng của việc giáo dục lối sống cho thanh niên.
- Đánh giá thực trạng lối sống của sinh viên trường đại học Hồng Đức Thanh Hóa. Tìm ra những đặc điểm riêng về tình hình sinh viên của nhà trường.

- Đề xuất những giải pháp giáo dục lối sống cho sinh viên trường đại
học Hồng Đức trong giai đoạn hiện nay.


7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về lối sống.
- Lối sống của thanh niên và sinh viên đại học Hồng Đức hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
lối sống và nội dung giáo dục lối sống cho thanh niên.
- Đánh giá thực trạng lối sống và công tác bồi dưỡng, giáo dục lối
sống cho sinh viên trường đại học Hồng Đức.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước,
chủ trương của Đảng ủy, Ban Giám hiệu trường đại học Hồng Đức về giáo
dục, bồi dưỡng lối sống cho thanh niên.
- Kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các cơng trình
đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn còn
sử dụng các phương pháp: Phương pháp lôgic, phương pháp lịch sử, phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo nghiệm thực tế và điều tra xã hội học...
+ Đối với phương pháp khảo nghiệm thực tế: Tác giả đã tiếp xúc với
Tỉnh Đoàn Thanh hóa, Đồn trường đại học Hồng Đức, Ban Giám hiệu,
Phịng Cơng tác HSSV nhà trường để tìm hiểu tình hình đạo đức, lối sống của
sinh viên và cơng tác giáo dục lối sống cho sinh viên.

6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về lối sống và giáo dục lối sống cho thanh niên, giá trị to lớn
của những quan điểm đó.


8
- Luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học đã được khảo
nghiệm và cung cấp những giải pháp góp phần giúp Đảng ủy, Ban Giám hiệu
trường đại học Hồng Đức hoạch định chính sách trong cơng tác giáo dục lối
sống cho sinh viên hiện nay đạt kết quả cao hơn.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn bổ sung, góp phần làm phong phú thêm nhận thức về lối
sống trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo cho cơng tác nghiên cứu mơn tư tưởng Hồ Chí Minh ở
các trường Cao đẳng và Đại học.
- Những giải pháp mà tác giả đưa trong luận văn có đóng góp quan
trọng để Tỉnh Đồn Thanh Hóa, Đồn trường đại học Hồng Đức sử dụng
trong cơng tác chỉ đạo thực tiễn cơng tác Đồn và phong trào thanh niên trong
tình hình mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


9
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN
1.1. KHÁI NIỆM LỐI SỐNG VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN


1.1.1 Khái niệm lối sống
Lối sống là một phạm trù được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên
cứu. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lối sống với những đặc điểm về nội
hàm và ngoại diên riêng biệt. Nội hàm của khái niệm này tùy thuộc vào cách
tiếp cận mà mỗi nhà nghiên cứu áp dụng.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Lối sống là toàn bộ hoạt động sống
của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống nhất với các
điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Lối sống bao gồm những mặt cơ bản: Lao
động vốn là nhu cầu sống hàng đầu, là giá trị lớn nhất trong bậc thang giá trị
xã hội là nền tảng để phát triển tồn diện cá nhân con người. Tính tích cực
chính trị xã hội là thể hiện sự tham gia của các giai cấp, tầng lớp xã hội vào
các tổ chức xã hội ở những lĩnh vực khác nhau.
Lối sống có liên quan và ảnh hưởng tới mục đích sống, có liên quan
đến mức sống và chất lượng cuộc sống gắn với trình độ kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội của con người với mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội, các dân tộc, giữa người lao động trí óc với người lao động chân tay.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, khi đi
sâu giải thích phạm trù lối sống, chủ nghĩa Mác đi từ phương thức hoạt động
sản xuất của con người, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng:
Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía
cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó
là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một


10
hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức
sinh sống nhất định của họ [56, tr.30].
C.Mác cịn giải thích, để tồn tại trước hết con người phải lao động kiếm

sống để giải quyết nhu cầu ăn, ở, mặc rồi mới nghĩ tới chuyện tham gia các
hoạt động khác. Lao động là nhu cầu sống hàng đầu của con người, mặt khác
lao động là nền tảng để phát triển toàn diện cá nhân con người. Phương thức
sản xuất không chỉ là một hoạt động sinh sống của con người mà còn là mặt
cơ bản của lối sống, tuy nhiên không thể đồng nhất lối sống với phương thức
sản xuất. Phạm vi của lối sống có thể tương ứng với phạm vi của hình thái
kinh tế - xã hội. Nhưng hình thái kinh tế - xã hội gắn với hoạt động sản xuất
vật chất của con người. Đó là một tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của
con người. Ngược lại, lối sống phản ánh hoạt động của chủ thể bao gồm nhận
thức, tình cảm, động cơ mọi hoạt động của bản thân chủ thể.
Như vậy, theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin: lối sống là toàn bộ những hoạt động sống của con người, những hoạt
động này chịu sự tác động của một phương thức sản xuất nhất định.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh xem
lối sống cịn là hình thức biểu hiện của văn hóa - văn hóa đời sống. Mặc dù
trong các tác phẩm, bài viết của Người không đề cập tới khái niệm lối sống,
song đều thể hiện quan điểm về xây dựng một lối sống mới, lối sống có văn
hóa, lối sống xã hội chủ nghĩa.
Lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con người từ cách ăn,
cách ở, cách đi lại, cách làm việc rất dễ nhận thấy. Lối sống vừa có giá trị văn
minh nhân loại vừa có giá trị truyền thống dân tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh
cửu, lối sống cũng chứa đựng các giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử của
từng thời kỳ nhất định. Con người phản ánh qua lối sống phần nào diện mạo
văn hóa thời đại thơng qua năng lực trí tuệ, quan hệ ứng xử và khả năng đồng
hóa thẩm mỹ hiện thực của mình trong nhiều phương diện khác nhau.


11
Với Hồ Chí Minh, lối sống bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và
lối sống chung của từng nhóm người, rộng hơn là tồn xã hội. Lối sống cá
nhân là tồn bộ hình thức hoạt động sống của từng cá nhân trong một xã hội

nhất định. Đồng thời, là sự phản ánh kết quả nhận thức của cá nhân về các
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì thế, lối sống cá nhân ln
mang đậm dấu ấn cá nhân và có tính phong phú, đa dạng. Mặt khác được hình
thành từ một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nên lối sống của các cá nhân
lại có những điểm tương đồng, tạo nên lối sống chung của toàn xã hội. Giữa
lối sống riêng của từng cá nhân và lối sống chung của toàn xã hội khơng có sự
tách biệt mà trái lại ln thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống và nếp sống là ba nội dung hợp
thành văn hóa đời sống, trong đó đạo đức đóng vai trị chủ yếu nhất. Đạo đức
gắn liền với lối sống và là nội dung của lối sống. Lối sống là biểu hiện cụ thể
quan niệm đạo đức trong hình thức hoạt động của con người trong xã hội. Vì
vậy, xây dựng đời sống mới chính là q trình tuyên truyền và thực hành đạo
đức mới, lối sống mới, nếp sống mới. Lối sống được hòa quyện trong đạo đức
và tác phong, là biểu hiện tập trung những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Cùng với đạo đức cao cả, lẽ sống đẹp, cao quý, lối sống là sự biểu hiện trực
tiếp của hành động sống và phương thức sống. Theo đó, Hồ Chí Minh là hình
ảnh đặc sắc và sáng ngời của lối sống xã hội chủ nghĩa, kết tinh truyền thống
dân tộc và tính hiện đại của thời kỳ mới. Tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh
là khơng máy móc, rập khn theo những câu chữ của nước ngoài về lối sống.
Người nêu vấn đề lối sống xuất phát từ đặc điểm con người Việt Nam và thời
điểm cách mạng nước ta. Và đặc biệt, Người gắn vấn đề xây dựng lối sống
mới với đạo đức, tác phong của từng cán bộ, đảng viên và người lao động.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể rút ra được nhiều điều về lối sống xã hội
chủ nghĩa đẹp đẽ và cao cả, đó là:
Sống hết mình làm chủ được bản thân, tự thân lao động, làm việc
không mệt mỏi và biết làm việc hợp lý.


12
Sống có lý tưởng, phục vụ mọi người, phục vụ Tổ quốc và nhân

dân,chống chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích của Tổ quốc của dân tộc lên trên hết,
coi đó là hạnh phúc lớn.
Sống giản dị, thanh bạch khơng cầu kỳ, nói tiếng nói của nhân dân, làm
từ những việc bình thường như dân, sống mức sống của dân, khơng lãng phí
tiền bạc của dân.
Sống độ lượng, khoan dung, mở đường cho kẻ lầm lỗi, khoan dung với
người mắc khuyết điểm và cả với kẻ thù.
Đó là những nét có ý nghĩa vĩnh cửu của lối sống Hồ Chí Minh.
Quan niệm về lối sống cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Từ các tài liệu thông tin lý luận, giới khoa học Việt Nam đã tiếp cận
nhiều mặt và đã bắt đầu đưa ra các quan niệm về lối sống. Lối sống được
nhấn mạnh như các cách thức và các hoạt động xã hội đặc trưng thể hiện
trong cuộc sống. Để cùng đi tới làm rõ khái niệm lối sống, các tác giả từng
tham khảo, phân tích các luận điểm của giới khoa học Xô Viết, trong đó có
một số định nghĩa ở những góc độ khác nhau.
Lối sống là những hình thức cố định, điển hình (đối với những quan
hệ xã hội - lịch sử cụ thể), của hoạt động sống cá nhân và tập đoàn
của con người. Những hình thức ấy nói lên những đặc điểm về sự
giao tiếp, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động,
hoạt động xã hội - chính trị, sinh hoạt và giải trí [86, tr.12-13].
Lối sống là một trong những khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, nó liên quan chặt chẽ đối với khái niệm có ý nghĩa mấu chốt đối
với nó là những phương thức sản xuất của cải vật chất. Phương thức sản
xuất như thế nào thì lối sống của con người thế ấy [13, tr.12-13].
Từ các thông tin lý luận, giới khoa học Việt Nam đã tiếp cận nhiều mặt
và đã đưa ra những quan niệm về lối sống. Lối sống được nhấn mạnh như các
cách thức và các hoạt động xã hội đặc trưng thể hiện trong cuộc sống.


13

Về lối sống xã hội chủ nghĩa, một định nghĩa trong giới khoa học Xô
viết đáng chú ý là: “lối sống xã hội chủ nghĩa là một lối sống đáp ứng những
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa cộng sản, góp phần vào việc giải quyết nhiệm
vụ ấy, những nét điển hình trong hành vi của con người, dưới chủ nghĩa xã
hội, đều được đánh giá dựa trên thước đo ấy” [13].
Các tác giả Phong Châu và Nguyễn Trọng Thụ đã khái quát một số
điểm chung trong giới lý luận khoa học xã hội Việt Nam:
Lối sống là sự thể hiện đời sống của mỗi con người hay của cả một
tập đồn người thơng qua các hoạt động sống của họ trên mọi lĩnh
vực mà trước hết là trên lĩnh vực sản xuất vật chất.
Xét về nguồn gốc, lối sống có cơ sở khách quan trong phương thức
sản xuất. Phương thức sản xuất nào sẽ tạo ra lối sống ấy.
Trong các xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị là người đại diện cho
phương thức sản xuất thống trị, cho nên lối sống của giai cấp thống
trị luôn là lối sống có tác dụng chi phối.
Tiêu biểu cho lối sống xã hội chủ nghĩa là lối sống Xơ viết, cịn tiêu
biểu cho lối sống tư bản là lối sống Mỹ [14, tr.18].
Các định nghĩa mà các nhà khoa học đưa ra mặc dù có những điểm
chung là đều thừa nhận lối sống là những hoạt động sống của con người chịu
sự tác động của những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
các định nghĩa đưa ra chưa đủ tính đại diện cao cho hàng trăm định nghĩa về
lối sống từng được nêu ra càng phần nào phản ánh được tính chất phức tạp
của cơng việc này.
Dựa vào cách tiếp cận và phân tích ở phần trên, rằng lối sống chính là
cách con người hiện thực hóa các giá trị văn hóa trong thực tiễn cuộc sống
thơng qua các hoạt động sống, chúng ta có thể tiếp cận khái niệm lối sống của
các cá nhân hay cộng đồng người theo cách tiếp cận liên ngành. Tuy nhiên,
điều đó khơng có nghĩa là cộng dồn, chắp vá các định nghĩa đã có về lối sống



14
mà ngược lại, là sự nỗ lực quan sát đối tượng trong phối cảnh đa chiều, vừa
nêu được nét đặc trưng riêng của đối tượng nghiên cứu, lại vừa nêu được
những chỉ dẫn có tính thao tác luận cho việc nhận diện và phân tích lối sống
trong thực tiễn nghiên cứu, khảo sát.
Lối sống phụ thuộc vào những điều kiện mà người ta đang sống với
những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định, những quy định của thời đại
như luật pháp, chính sách, cơ chế, kinh tế - xã hội đã tạo nên cách suy nghĩ và
hành động của mỗi con người trong xã hội và quyết định lối sống của chính
họ. Ngồi ra, lối sống được quy định bởi di sản của lịch sử, đó là các giá trị
truyền thống đã tạo nên khn mẫu, thói quen trong hoạt động hàng ngày
đang chi phối các hoạt động của mỗi con người. Những thói quen cổ hủ, lạc
hậu của quá khứ còn ẩn hiện trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người có
lúc rõ rệt, lúc mơ hồ, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại dai dẳng. Lối sống
cịn bắt nguồn từ mặt bằng văn hóa. Với mặt bằng văn hóa cao, con người
sống có đạo đức, có nhân cách, có bản lĩnh vững vàng hơn, không chạy theo
thị hiếu tầm thường, tôn trọng các tiêu chuẩn xã hội lành mạnh, có cách ứng
xử đẹp trong gia đình, làng xã, phố phường và cộng đồng.
Từ sự phân tích trên, chúng ta thấy biểu hiện cơ bản của lối sống là
những nhận thức (quan điểm cá nhân) về vấn đề lao động, tiêu dùng, quan hệ
xã hội trong điều kiện cụ thể của xã hội hiện tại và thể hiện ra ngoài là những
hành động xã hội hàng ngày. Vì vậy, có thể đưa ra khái niệm về lối sống như
sau: “Lối sống là tập hợp có hệ thống những đặc điểm cơ bản, đặc trưng cho
hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội, các cá nhân trong
những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [97, tr.214-215].
Phạm trù lối sống có quan hệ với nếp sống, lẽ sống và phong cách
sống. Tuy nhiên, không đồng nhất những khái niệm này với nhau.
1.1.2. Nếp sống
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: Nếp là lối, cách sống,
hành động đã trở thành thói quen. Theo đó nếp sống, là những quy ước được



15
lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen trong sinh hoạt, phong tục, tập
quán, hành vi đạo đức. Nói đến nếp sống là nói tới mặt nào đó của lối sống,
nếp sống chính là mặt ổn định của lối sống, nhờ có nếp sống mà xã hội và con
người khơng cần đi đường vịng, khơng phải bắt đầu lại những q trình lịch
sử đã trải qua. Nhờ có nếp sống mà những kinh nghiệm quý báu trong lối
sống của xã hội và con người được bảo lưu và phát triển.
Nếp sống bao giờ cũng gắn với một chủ thể nhất định, người ta thường
nói tới nếp sống của cá nhân, của cộng đồng hoặc của một xã hội nhất định.
Do tính chất của lối sống chịu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, đạo đức, nên
nếp sống phản ánh nhân cách, bản sắc văn hóa của các chủ thể.
Nếp sống văn hóa là sự biểu hiện văn hóa cụ thể của lối sống, là văn
hóa ứng xử của con người đối với thiên nhiên, xã hội và cộng đồng. Khi nói
đến nếp sống văn hóa, tức là nhấn mạnh yếu tố văn hóa của nếp sống, ở
những chuẩn mực khuôn mẫu ứng xử của xã hội mà mỗi cá nhân đã tự ý thức
được, ở các hoạt động ổn định, thường xuyên thành “nếp” trong đời sống
hàng ngày.
Xây dựng nếp sống văn hóa phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã
hội, vào truyền thống, vào sự phổ biến và giáo dục văn hóa, đặc biệt phụ
thuộc vào lý tưởng của mỗi nền văn hóa và mức sống thực tế của người dân.
Ở nước ta, vấn đề lối sống mới, lối sống xã hội chủ nghĩa thường được
đặt ra dưới góc độ cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng đạo đức
mới, nếp sống mới, nền văn hóa mới. Chỉ thị số 51 - CT/TW ngày 25 - 10 1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường lãnh đạo cuộc vận
động thực hiện nếp sống mới, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, xóa bỏ tệ nạn xã
hội, quét sạch văn hóa phản động, đồi trụy” đã nêu những nội dung toàn diện,
phong phú về xây dựng nếp sống mới, phản ánh lối sống của con người Việt
Nam cần xây dựng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.



16
1.1.3. Lẽ sống
Lẽ sống là một trong những vấn đề trung tâm của đời sống con người.
Có thể quan niệm con người và lẽ sống là nền tảng tinh thần của họ. Nó chi
phối và liên quan mật thiết đến những định hướng sống của con người hết sức
cơ bản như lý tưởng, niềm tin, thái độ sống, các quan niệm về hạnh phúc. Do
lẽ sống là vấn đề mang bản chất tinh thần sâu xa nhất gắn liền với xã hội và
con người, nên nhiều nhà triết học, đạo đức học đã xem lẽ sống là vấn đề vừa
có ý nghĩa triết học, vừa có ý nghĩa đạo đức học và là trung tâm khi nghiên
cứu con người ở mọi thời đại.
Từ thời cổ đại, lẽ sống của con người đã trở thành vấn đề trung tâm của
triết học. Nhà triết học cổ đại Epyquya quan niệm, lẽ sống của con người là sự
hài hòa với tự nhiên, trong đó con người có một cuộc sống tinh thần thanh
thản. Ông cho rằng nguồn gốc của lẽ sống đúng đắn của họ chính là trí thơng
minh. Chính trí thơng minh giúp con người lựa chọn sự hợp lý và loại bỏ khỏi
mình những ảo tưởng, những tham vọng khơng có căn cứ.
Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm lẽ sống được định nghĩa: “Lẽ là
điều thường thấy ở đời được coi là quy luật hợp đạo lý, được coi là lý do giải
thích, là nguyên nhân của sự việc”. Ở đây “lẽ” chưa trở thành lẽ sống.
Lẽ sống là một mặt của lối sống, nó đề cập tới mục đích, ý nghĩa, lý
tưởng của cuộc sống. Lẽ sống cuối cùng nhằm giải thích sống như thế nào cho
phù hợp với đạo lý, phong tục truyền thống của dân tộc.
Lẽ sống là sự lựa chọn chủ quan của một con người về một lối sống.
Nói cách khác, nó là sự phản ánh tính tất yếu khách quan của một lối sống
vào con người cụ thể. Lẽ sống của chúng ta là lẽ sống vì Tổ quốc, vì nhân
dân. Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tất cả vì cuộc sống hạnh phúc của
nhân dân. Lẽ sống ấy đã, và đang chi phối lối sống của mỗi người, mỗi cộng
đồng và toàn xã hội Việt Nam. Lẽ sống chi phối lớn nhất là hãy lao động sáng
tạo, với ý thức của những người tự giác xây dựng xã hội mới.



17
Lẽ sống của con người mới xã hội chủ nghĩa là lao động có kỷ luật, tự
giác, tự nguyện, khơng hoang phí cá nhân, gia đình, biết lo lắng cho lợi ích xã
hội, lợi ích Nhà nước và lợi ích của nhân dân. Đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh:
“lao động là lẽ sống, lương tri và phẩm giá con người” [17, tr.625]. Lẽ sống
của con người mới xã hội chủ nghĩa là không thu vén cho cá nhân và gia đình
mình, mà biết lo chung cho cả tập thể và tồn xã hội. Đó là lẽ sống “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
1.1.4. Phong cách sống
Khái niệm phong cách đã được các nhà nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học khác nhau bàn luận và có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng nhìn
chung có hai cách hiểu cơ bản:
Theo nghĩa hẹp: Phong cách là những đặc điểm có tính hệ thống tư tưởng
và nghệ thuật, những đặc trưng thẩm mỹ về nội dung và hình thức thể hiện, tạo
nên những giá trị, những nét đặc trưng của một nghệ sỹ hay nhà tư tưởng.
Theo nghĩa rộng: Phong cách là lề lối, cách thức, phong độ và phẩm
cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người, hoặc một lớp người được
thể hiện trong các mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội mà chủ thể
tạo nên những nét độc đáo riêng của chính mình.
Khái niệm phong cách ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Theo đó, khi
ta nói một người có phong cách là mặc nhiên cơng nhận người đó có dáng
vẻ chững chạc, ứng xử kín đáo, giao tiếp thơng minh, sắc sảo. Theo thời
gian, khái niệm phong cách mất dần ý nghĩa tốt đẹp ban đầu chuyển sang
nghĩa trung tính. Phong cách hình thành và chịu tác động của điều kiện tự
nhiên, môi trường văn hóa qua các thời kỳ phát triển lịch sử. Mỗi dân tộc
có một phong cách riêng, phong cách người Việt Nam không giống phong
cách người Trung Hoa và khác với phong cách của người Pháp, người Mỹ.
Ngay cả những người trong một quốc gia, dân tộc cũng có những phong

cách khác nhau.


18
Đối với một người thì phong cách gắn liền với truyền thống, tập qn,
thói quen do hồn cảnh sống của người đó quy định, đồng thời nó mang dấu
ấn cá nhân người đó. Con người tiếp thu những truyền thống, tập quán tốt đẹp
và khắc phục thói quen xấu như thế nào đều phụ thuộc vào khí chất của người
đó. Cũng trong hoàn cảnh sống như nhau nhưng ở từng người có phong cách
khơng hồn tồn giống nhau.
Phong cách có liên quan tới đạo đức, song phong cách không phải là
đạo đức mà là tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức được nhận thức và được
thể hiện ra cuộc sống của con người. Nói phong cách khiêm tốn, giản dị chính
là chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính được con người nhận thức và thể
hiện trong cuộc sống đời thường.
Phong cách sống chính là tác phong, cung cách ứng xử, kiểu cách, hình
thức diễn ra trong đời sống hàng ngày của con người. Phong cách sống nói
lên nét riêng biệt của từng cá nhân với một lối sống cụ thể trong cộng đồng,
xã hội.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA THANH NIÊN
VÀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN

1.2.1. Vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
và dân tộc
1.2.1.1. Thanh niên là lực lượng có vai trị quyết định đối với vận
mệnh dân tộc và sự phát triển của đất nước
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln dành cho thế hệ trẻ sự quan tâm đặc biệt. Thanh niên ln đóng vai
trị quan trọng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc như
Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Trần

Quốc Toản, Trần Nhật Duật, Lê Lợi, Nguyễn Huệ,... đều là những người chí
lớn, tài cao, lập cơng khi đang ở tuổi thanh niên. Hồ Chí Minh đã khái qt
truyền thống đó trong cuốn “Lịch sử nước ta”:


19
“Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang mn đời”.
Những năm tháng tuổi trẻ, được hịa mình vào cuộc sống lao động, đấu
tranh của nhân dân nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh có điều kiện tìm
hiểu thêm về vai trị của thanh niên trong sự phát triển của lịch sử nhân loại.
Nhờ có phương pháp luận mác xít và những hiểu biết thực tiễn phong phú,
Người càng phát hiện tiềm năng to lớn của lực lượng này trong cuộc đấu
tranh cách mạng và sự phát triển xã hội. Người nhận thấy thanh niên có
những ưu điểm nổi trội: trẻ, khỏe, chiếm số đông trong xã hội, hăng hái, nhiệt
tình, nhanh nhạy tiếp thu cái mới, giàu ước mơ ... Đó là lứa tuổi ham hiểu
biết, giàu niềm tin, tự thể nghiệm mình, có khả năng tiềm ẩn trong việc thực
hiện lý tưởng, mục tiêu cao quý. Do vậy, nếu biết định hướng, động viên đúng
thì thanh niên sẽ say sưa với lý tưởng sống cao đẹp, phát huy tài năng, tính
sáng tạo, sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa.
Nhìn thấy rõ vai trị rất to lớn của thanh niên trong cách mạng văn hóa,
Hồ Chí Minh cho rằng muốn vận động nhân dân đứng lên làm cách mạng, trước
hết phải làm cho tầng lớp thanh niên của dân tộc giác ngộ. Nếu họ không được
giác ngộ, khơng đủ nghị lực, khơng cịn sức sống, chỉ chạy theo “rượu cồn và
thuốc phiện” thì dân tộc có nguy cơ diệt vong. Thanh niên phải khẳng định vai
trò của mình trước vận mệnh của dân tộc. Và chính Hồ Chí Minh đã thức tỉnh
được lực lượng quan trọng này. Khi thanh niên Việt Nam có lý tưởng cách mạng
soi đường, họ đã hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh, sẵn sàng chấp nhận
mọi gian khổ hy sinh, cùng với Đảng, với dân tộc làm nên thắng lợi cách mạng
tháng Tám năm 1945. Chỉ trong vòng 15 năm ấy đã có hàng nghìn thanh niên trở

thành cán bộ trung kiên của Đảng như Lý Tự Trọng, Trần Phú, Châu Văn Liêm,
Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai...
Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước độc lập, tiền đồ rạng rỡ
của dân tộc được mở ra trước mắt thế hệ trẻ. Trong điều kiện mới, Hồ Chí


20
Minh khẳng định: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà... nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Khi miền
Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đã nhìn thấy thanh
niên là lực lượng nịng cốt để xây dựng xã hội mới, bởi: Thanh niên là người
tiếp sức cách mạng cho thế hệ cách mạng đi trước, đồng thời là người phụ
trách, dìu dắt thiếu niên nhi đồng - thế hệ thanh niên tương lai. Thanh niên là
người xung phong vươn lên phía trước trong cơng cuộc phát triển kinh tế, văn
hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên là lực lượng cơ
bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị
an, bảo vệ Tổ quốc. Trong mọi công việc, thanh niên thi đua thực hiện khẩu
hiệu: Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm.
Hồ Chí Minh khẳng định: Thanh niên có sứ mạng lịch sử vẻ vang đối
với cách mạng nước mình và cách mạng thế giới, đó là thanh niên trong giai
cấp công nhân, giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong
lịch sử, là người xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên thế giới.
Người cho rằng: Thanh niên các nước đoàn kết với nhau, tin tưởng vào khả
năng đấu tranh của mình để giữ gìn hịa bình thế giới, thực hiện hợp tác cùng
nhau để xây dựng đời sống hạnh phúc tươi vui.
Trực tiếp sáng lập rèn luyện và chứng kiến sự trưởng thành và cống
hiến của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Hồ
Chí Minh vơ cùng tự hào về thế hệ trẻ chúng ta. Người nhận thấy thế hệ trẻ
chúng ta xứng đáng là đội hậu bị tin cậy kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng
của thế hệ đi trước. Với một thế hệ như thế thì tương lai của đất nước, tiền đồ

của dân tộc nhất định sẽ “vô cùng vững chắc và vẻ vang”. Đây là kết luận
quan trọng được rút ra từ sự nhìn nhận khách quan, khoa học của Hồ Chí
Minh đối với vai trị lịch sử mà thế hệ thanh niên đã đảm nhiệm.
Bên cạnh việc khẳng định những ưu điểm của thanh niên, Hồ Chí Minh
cũng ln chỉ ra những mặt yếu, những nhược điểm của họ, đó là sự thiếu


21
từng trải trong cuộc sống, một số chưa chịu khó học tập, mắc bệnh hình thức,
bệnh cá nhân, tự cao, tự đại... Hồ Chí Minh chỉ rõ: phát huy mặt mạnh, khắc
phục mặt yếu là con đường để tự hoàn thiện nhân cách của thanh niên. Thanh
niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải khơng
ngừng rèn luyện tinh thần và lực lượng cho mình, phải làm những việc chuẩn
bị cái tương lai đó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và thế hệ trẻ là tài sản tinh thần
quý báu của Đảng và nhân dân ta. Tư tưởng đó bao gồm nhận thức, đánh giá
đúng vị trí, vai trị của thanh niên, về đặc điểm và khả năng của thanh niên
Việt Nam, về con đường và phương pháp cơ bản giáo dục, bồi dưỡng lý luận
cho thanh niên và thế hệ trẻ.
Tư tưởng đó trở thành quan điểm chỉ đạo quan trọng của Đảng ta trong
lãnh đạo xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa, coi thanh niên là đối tượng trung
tâm, giáo dục thanh niên và các đối tượng xã hội khác phát huy vai trò của họ
đối với các hoạt động xã hội, xây dựng cuộc sống mới và lối sống mới theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
1.2.1.2. Thanh niên là lực lượng to lớn, là đội quân xung kích trên
mọi mặt trận của cách mạng
Trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh
đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và vạch ra được con đường giải phóng cho
dân tộc, cho đồng bào. Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn lực lượng cách
mạng Việt Nam. Đó là tồn thể quần chúng bị áp bức và những người tiến bộ.

Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thấy vị trí của thanh niên trong lực lượng cách
mạng, là lực lượng đông đảo trong xã hội, sức khỏe dồi dào, hăng hái, nhiệt
tình, có lý tưởng, sẵn sàng hi sinh xả thân vì nghĩa lớn, thanh niên trở thành
lực lượng chủ yếu của cách mạng.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và những hoạt động của Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên, thanh niên nước ta bắt đầu ý thức được trách nhiệm


22
của mình đối với dân tộc và đứng lên đấu tranh. Tiêu biểu có các phong trào
đấu tranh như: phong trào để tang cụ Phan Châu Trinh và đòi ân xá cho cụ
Phan Bội Châu. Đây là dấu hiệu chứng tỏ phong trào đấu tranh của thanh niên
đã hồi sinh và có bước chuyển biến tích cực.
Trong thời kỳ hoạt động ở nước ngồi, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm,
theo dõi các phong trào đấu tranh cách mạng trong nước. Trong báo cáo gửi
Quốc tế Cộng sản về tình hình Đông Dương, Người đều chú ý đến phong trào
của thanh niên. Người còn xem phong trào thanh niên như ngòi nổ của các
phong trào cách mạng Việt Nam. Năm 1941, với chủ trương thành lập Việt
Nam độc lập đồng minh mà thành viên là các Hội cứu quốc trong đó có
Thanh niên cứu quốc. Đây là đồn thể của tất thảy thanh niên tuổi từ 18 đến
22, muốn tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật. Chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa
giành chính quyền, Người cịn chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân được thành lập, phần lớn các đội viên là đoàn viên và đảng viên trẻ tuổi
có tinh thần kiên quyết, hăng hái nhất được chọn lọc trong hàng ngàn những
du kích Cao - Bắc - Lạng. Hồ Chí Minh lạc quan tiên đốn: tuy lúc đầu quy
mơ cịn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang . Nó là khởi điểm của giải
phóng qn, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nướcViệt Nam.
Cơ sở sự tiên đốn đó của Hồ Chí Minh chính là niềm tin vững chắc
của Người về khă năng to lớn và sức mạnh tiềm tàng của thanh niên về xu thế

vận động của cách mạng.
Sau năm 1954, đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền: miền Bắc hồn
tồn giải phóng tiến lên xây dựng CNXH, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu
mới của Mỹ, tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trước tình hình mới phức tạp hơn, để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng
“chống Mỹ, cứu nước”, Hồ Chủ tịch kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước
dũng cảm tiến lên, hăng hái thi đua sản xuất và chiến đấu. Người động viên


23
thanh niên thực hiện tốt vai trị xung kích của mình “các cháu thanh niên gái
cũng như trai hãy thực hiện tốt “ba sẵn sàng”, xung phong hiến dâng tất cả
tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, cho Tổ
quốc và CNXH” .
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, tính đến cuối tháng 5/1965
đã có 2 triệu 50 vạn đồn viên và thanh niên thực hiện: “sẵn sàng chiến đấu”,
“sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang” và “sẵn sàng đi bất cứ nơi nào,
làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến”.
Ở miền Bắc, thanh niên hăng hái thi đua trên mọi mặt trận nơng nghiệp,
quốc phịng với tinh thần, đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên.
Thanh niên cơng nhân phất cao ngọn cờ ‘duyên hải’, đi đầu trong cải tiến kỹ
thuật, nâng cao năng suất lao động. Thanh niên công nhân thực hiện phong
trào “Đại phong”, xung phong trong công tác thủy lợi, cải tiến nông vụ.
Thanh niên các ngành đều thi đua sản xuất theo tinh thần “một người làm việc
bằng hai” và thực hành tiết kiệm. Thi đua cùng với thanh niên công nhân,
nông dân, thanh niên dân quân tự vệ, bộ đội, cơng an thực hiện “phong trào ba
nhất”, tích cực giữ gìn an ninh tổ quốc. Thanh niên trường học tích cực trong
phong trào xóa nạn mù chữ, thi đua thực hiện phong trào “Hai tốt”. Phong
trào “Ba sẵn sàng” đã trở thành phong trào cách mạng của thanh niên trong
những năm tháng tiến hành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và

xây dựng CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hịa chung với khí thế chống giặc của thanh niên ở miền Bắc, ở miền
Nam thanh niên sôi nổi tham gia phong trào “Năm xung phong” do Đoàn
thanh niên nhân dân cách mạng miền Nam phát động. Với tinh thần mưu trí,
dũng cảm, các nữ thanh niên đã đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh của
“đội qn tóc dài”. Thanh niên nơng thơn vùng giải phóng xung phong vào bộ
đội, đi dân quân phục vụ chiến trường hoặc tham gia xây dựng các làng xã
chiến đấu ở địa phương để bảo vệ quê hương. Ở các đô thị vùng Mỹ ngụy


24
kiểm sốt, thanh niên, học sinh sinh viên ln là lực lượng châm ngịi cho các
phong trào “đấu tranh chính trị”. Các đêm biểu diễn văn nghệ “hát cho đồng
bào nghe”, “dậy mà đi”, những cuộc hội thảo đòi dân sinh dân chủ thu hút sự
tham gia của đông đảo các đối tượng thanh niên, học sinh.
Thi đua chiến đấu, lao động sản xuất, học tập thanh niên lập nhiều
thành tích to lớn. Số lượng cá nhân thanh niên được nhà nước và Đảng phong
tặng danh hiệu anh hùng chiến sỹ thi đua ngày càng nhiều. Trong số 111 anh
hùng được tuyên dương tại Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua năm 1967 có 44
anh hùng là thanh niên. Chiến công và sự trưởng thành của thanh niên cả
nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước xứng đáng với lời khen của
chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các cháu thanh niên thân mến, các cháu là thế hệ anh
hùng trong thời đại anh hùng. Bác mong các cháu đều xứng đáng là những
anh hùng trong sự nghiệp cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc và xây dựng
xã hội mới”.
1.2.2. Nội dung giáo dục lối sống cho thanh niên
1.2.2.1. Giáo dục tinh thần yêu lao động, lối sống giản dị, trong sáng,
trung thực
Thanh niên là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội. Xã hội có phát
triển hay không phụ thuộc vào thái độ của thanh niên đối với lao động. Từ

nhận thức trên, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục thanh niên
tình yêu đối với lao động. Muốn thanh niên yêu lao động thì trước hết phải
làm cho thanh niên ý thức được lao động là bổn phận, trách nhiệm của mỗi
công dân đối với Tổ quốc.
Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cần phải giáo dục thanh niên
tình yêu lao động, quý trọng người lao động, có thái độ trân trọng đối với
người lao động trí óc cũng như lao động chân tay. Người nói: “Lao động là
nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Trong xã
hội ta, khơng có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười biếng, ỷ lại mới xấu


25
hổ” [69, tr.313]. Cần giáo dục cho thanh thiếu niên kỷ luật lao động, ý thức
bảo vệ của công, thực hành tiết kiệm, tinh thần dám nghĩ dám làm không sợ khó,
khơng sợ khổ, cần cù nhẫn nại, sáng tạo trong lao động. Người thường dạy:
- Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng là khiêm tốn, đoàn kết, thực
hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, người tiên
tiến thì giúp đỡ người người kém, người kém phải cố gắng tiến lên,
ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà.
- Phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự
kiêu tự mãn, chỉ tham việc có danh tiếng, xem khinh những cơng
việc bình thường. Phải chống tham ơ, lãnh phí [69, tr.106, 315].
Trong nhiều bức thư gửi thiếu niên nhi đồng, Hồ Chí Minh nhắc
nhở các cháu phải chăm học chăm làm, giúp đỡ cha mẹ làm những cơng
việc trong gia đình, đồng thời giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sỹ, neo
đơn những cơng việc vừa sức của mình như qt nhà, gánh nước, lấy củi,
xay lúa, giữ em, dạy chữ quốc ngữ... tuổi nhỏ làm việc nhỏ, nhiều công
việc nhỏ cộng lại thành công việc to. Trong tác phẩm Đời sống mới viết
năm 1947, Người nêu:
Phải khuyên học trò tham gia việc tăng gia sản xuất. Điều này cũng

quan trọng lắm. Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tạo
cho họ quen khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỷ lực (làm lấy mà
ăn), khơng ăn bám xã hội. Bốn là có ích cho sức khoẻ [64, tr.102-103].
Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Hồ Chí Minh rất chú
trọng đến việc giáo dục những phẩm chất cao quý như: cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư, những tác phong đẹp đẽ như khiêm tốn, giản dị. Đó là
tinh thần lao động tích cực, siêng năng, làm hết sức mình, gan dạ, sáng tạo; là
đức tính thật thà, chính trực trong đời cơng và đời tư. Phải kiên quyết chống
thói lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng. Tại buổi lễ khai mạc Trường Đại
học Nhân dân, ngày 19/1/1955, Người nói:


×