Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giáo dục lối sống cho học viên trường cao đẳng cảnh sát nhân dân 1 hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỖ THỊ HÀ

GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG CAO
ĐẲNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN I HIỆN NAY THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
MÃ SỐ: 60.31.02.04

Người hướng dẫn: PGS.TS Bùi Đình Phong

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Đình Phong.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Đỗ Thị Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG


CHO THANH NIÊN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG .................. 12
1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm lối sống và giáo dục lối sống............................................. 12
1.1.2. Khái niệm nếp sống ............................................................................ 16
1.1.3. Khái niệm lẽ sống ............................................................................... 17
1.1.4. Khái niệm phong cách sống ................................................................ 18
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và giáo dục lối
sống cho thanh niên.......................................................................................... 18
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên ..................... 18
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục lối sống cho thanh niên.......... 25
1.2.3. Phương pháp giáo dục lối sống cho thanh niên .................................. 34
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 42
Chương 2 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC GIÁO DỤC
LỐI SỐNG CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CẢNH SÁT NHÂN
DÂN I .................................................................................................................. 43
2.1. Thực trạng và yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lối sống cho
học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I .............................................. 43
2.1.1. Thực trạng lối sống và công tác giáo dục lối sống cho học viên
Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I ......................................................... 43
2.1.2. Tình hình đất nước và ngành Công an đòi hỏi phải giáo dục lối sống
cho học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I .................................... 66
2.2. Nội dung và giải pháp giáo dục lối sống cho học viên Trường Cao đẳng
Cảnh sát nhân dân I .......................................................................................... 71
2.2.1 Nội dung giáo dục lối sống cho học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát
nhân dân I ...................................................................................................... 71
2.2.2. Giải pháp giáo dục lối sống cho học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát
nhân dân I ...................................................................................................... 80
1



2.2.3. Phát huy vai trò các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ nhà trường
trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học viên .................................. 84
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 92
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 95
PHỤ LỤC

2


DANH MỤC VIẾT TẮT
CNXH

Chủ nghĩa xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CAND

Công an nhân dân

CSND

Cảnh sát nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản


LLCT, KHXH&NV

Lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo
dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ
trẻ muôn đời sau noi theo. Tư tưởng của người có vai trò, ý nghĩa và tác dụng to
lớn đối với cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh” [10, tr.88].
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn
dành sự quan tâm đặc biệt cho thế hệ trẻ và để lại cho thanh niên Việt Nam
những tình cảm quí báu và những lời dạy thiết thực đối với lớp con cháu. Người
đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ
là mùa xuân của xã hội”. Là một lãnh tụ có tầm nhìn xa, trông rộng, hơn ai hết
Người thấu hiểu vai trò vô cùng quan trọng to lớn của lực lượng thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ, kiến thiết nước
nhà. Để phát huy vai trò và sức mạnh của tuổi trẻ thì phải tiến hành giáo dục
thanh niên một cách toàn diện và chu đáo. Hiểu sâu sắc tầm quan trọng của vấn

đề này, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã hết sức quan tâm dìu dắt thế hệ trẻ.
Đối với việc chăm lo đào tạo, giáo dục và bồi dưỡng thanh niên trong đó
có lớp thanh niên trí thức - những thanh niên, học viên đang được đào tạo từ các
trường đại học, cao đẳng được Bác dành sự quan tâm đặc biệt. Bác yêu cầu học
viên: “Phải hiểu rõ học thế nào? Học cái gì? Học để làm gì?”. Bác chỉ rõ: “Học
tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự” và “Học
để phụng sự ai? Để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu
nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”. Từ đó có thể
thấy, nhiệm vụ của thanh niên trí thức thời đại mới không chỉ là ra sức học tập
để làm chủ được tri thức, công nghệ mới, mà còn phải xác lập được cho mình lý
tưởng cộng sản đúng đắn đây chính là vũ khí sắc bén trong đấu tranh chống lại
4


cái xấu, chống lại những cám dỗ bên ngoài, giúp thanh niên vươn lên để hoàn
thành mục tiêu.
Đặc biệt trong xã hội hiện tại, khi mà các giá trị tinh thần cũ và mới đan
xen, một bộ phận không nhỏ thanh niên, sinh viên có lối sống buông thả, vị kỉ,
cá nhân, thờ ơ, vô cảm với thời cuộc, chìm đắm trong cuộc sống ảo trên mạng,
vùi mình trong các cuộc ăn chơi đua đòi…thì những lời dạy của Bác càng có giá
trị lớn lao hơn bao giờ hết. Nhưng làm thể nào để những lời dạy quý báu đó của
Người thấm nhuần tới được học sinh, sinh viên, giúp các em hình thành được lý
tưởng và lối sống đúng đắn? Trách nhiệm đó không chỉ của riêng ai, mà là trách
nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của các bậc làm cha làm mẹ, của các nhà
giáo dục, các nhà quản lý trong lĩnh vực có liên quan tới thanh thiếu niên.
Công tác giáo dục lối sống cho học sinh viên hiện nay đã có nhiều tiến bộ,
Đa số họ có tinh thần yêu quê hương đất nước, tin tưởng, chấp hành đường lối,
chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của nhà nước, xác định được
mục tiêu sống, có lý tưởng phấn đấu ràng với động cơ học tập nghiêm túc; tích

cực tham gia các hoạt động, các phong trào “xung kích, sáng tạo, tình nguyện vì
cộng đồng…”, biết chia sẻ, hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn.
Bên cạnh những biểu hiện tích cực vẫn còn một bộ phận không nhỏ học
sinh sinh viên có ý thức phấn đấu chưa cao, thờ ơ với các vấn đề chính trị - xã
hội, phai nhạt lý tưởng cách mạng, không xác định được mục tiêu, lí tưởng cuộc
sống; có biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, mắc tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật. Một số học sinh sinh viên đề cao lối sống thực dụng, ích kỉ, thích
hưởng thụ, đua đòi, xa hoa lãng phí, xem nhẹ giá trị tinh thần. Không quan tâm
đến cộng đồng, người xung quanh, ít tham gia các hoạt động tình nguyện, hoạt
động xã hội và cộng đồng, người xung quanh, ít tham gia các hoạt động tình
nguyện, hoạt động xã hội và cộng đồng, sống khép mình, đề cao chủ nghĩa cá
nhân, xa rời tập thể, có một số học sinh sinh viên vi phạm pháp luật nghiêm
trọng gây bức xúc trong nhân dân.
Với vai trò là trường trọng điểm về đào tạo cán bộ chiến sĩ Công an,
nhiệm vụ đặt ra đối với Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I là đào tạo, cung
5


cấp cho đất nước đội ngũ cán bộ chiến sĩ không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong
sáng, lối sống lành mạnh. Để thực hiện được mục tiêu đó, vấn đề giáo dục lối
sống cho học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I vừa là đòi hỏi tất yếu
khách quan vừa là nhiệm vụ quan trọng của trường trong giai đoạn hiện nay.
Trong xu thế chung của sinh viên cả nước, đa số học viên Trường Cao đẳng
Cảnh sát nhân dân I đều chấp hành tốt nội quy của trường, phấn đấu học tập
không ngừng để trở thành những cán bộ có ích phụng sự cho tổ quốc cho nhân
dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một bộ phận không nhỏ có những biểu hiện
lệch lạc trong nhận thức như: xác định động cơ học tập không đúng, mục đích
học tập không có sự cố gắng mà là nhằm chống đối với gia đình và thầy cô, chỉ
muốn qua môn học không có ý thức phấn đấu, cá biệt còn một số sinh viên có

hành động quay cóp trong thi cử, một số sinh viên còn vi phạm điều lệnh
CAND, một số em còn thơ ơ với các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn
mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ham ăn chơi đua đòi, chạy theo lối sống thực
dụng, buông thả, tiếp thu lối sống văn hóa phương Tây không có chọn lọc, quá
coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần, sùng bái đồng tiền.
Đứng trước yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới toàn diện, đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công
cuộc hội nhập quốc tế, diễn biến của tình hình thế giới ngày một phức tạp, đã đặt
ra cho các thế hệ sinh viên nhất là học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân
I sẽ gánh vác những trọng trách to lớn nhưng vô cùng khó khăn phức tạp. Vì
vậy, việc giáo dục lối sống cho học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I
là yêu cầu khách quan và cấp bách hơn bao giờ hết bởi đây là nội dung quan
trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách tuổi trẻ, là sự chuẩn bị quan trọng
để những cán bộ chiến sĩ công an trẻ bước vào đời.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Giáo dục lối sống cho học viên
Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”
làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

6


1. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Vấn đề giáo dục lối sống cho sinh viên được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu theo nhiều khía cạnh, cách tiếp cận khác nhau. Điển hình là những
công trình sau:
2.1. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục cho
thanh niên
+ “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” do Huỳnh
Khái Vinh chủ biên đã cho thấy lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội là
những yếu tố cơ bản trong đời sống xã hội của mỗi con người và mỗi nền văn

hóa, gắn liền với các cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng về mọi mặt đời sống vật
chất, tinh thần của toàn xã hội. Trong đó, đạo đức về cơ bản đóng vai trò là lẽ
sống; còn lối sống là mà hạt nhân là các khuôn mẫu ứng xử và thể chế xã hội
mang biểu trưng văn hóa điển hình và đóng vai trò định hình, định tính văn hóa
và con người. Dưới sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu
hướng chuyển đổi lối sống đạo đức, chuẩn giá trị xã hội trong giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ thực trạng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội
mới, tác giẩ đưa ra phương hướng, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống,
đạo đức và chuẩn giá trị xã hội mới.
+ “Giá trị bền vững và sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin và Chủ nghĩa
xã hội khoa học” của GS.TS Hoàng Chí Bảo (NXB Chính trị Quốc gia, 2012).
Tác phẩm đã trình bày về phát triển xã hội của Mác - Ăngghen và Lênin, quan
điểm của các nhà kinh điển về chế độ xã hội, quyền con người và quyền công
dân, tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản và sự chín muồi của chủ nghĩa Mác, giá trị
bền vững và sức sống của Chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời đại ngày nay.
+ “Tìm hiểu ý nghĩa khoa học cách mạng, thực tiễn trong Sáu điều dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Công an nhân dân” do Nguyễn Quý, Lê
Xuân Trường, Nguyễn Hữu Lê (Hà Nội, Công an nhân dân, 1983). Tác phẩm
phân tích, giải thích, minh họa nội dung sáu điều Bác dạy đối với Công an nhân
dân Việt Nam, nêu nhiều gương hy sinh và truyền thống tốt đẹp của lực lượng
Công an nhân dân.
7


+ “Sáu điều dạy của Bác Hồ kính yêu đối với Công an nhân dân” (Hà
Bắc: Phòng tổ chức cán bộ và công tác chính trị, 1983) đã nghiên cứu, phân tích
nội dung Sáu điều Bác dạy đối với Công an nhân dân Việt Nam.
2.2. Các công trình nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào giáo dục lối sống cho sinh viên.
+ Mạc Văn Trang: “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những

phương hướng, biện pháp giáo dục”, Đề tài cấp Bộ, mã số B94 -38 - 24, Bộ
Giáo dục và đào tạo, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục năm 1995. Công trình
này đã xác định khái niệm lối sống sinh viên và nêu ra một hệ thống những đặc
điểm chủ yếu của lối sống sinh viên được biểu hiện qua định hướng giá trị, trong
các hoạt động cụ thể, trong hành vi giao tiếp và ứng xử của cá nhân. Đặc biệt,
tác giả đã tiến hành điều tra, khảo sát, thống kê số liệu để phân tích các biểu hiện
tích cực và tiêu cực trong lối sống của sinh viên. Từ đó, đưa ra phương hướng và
những giải pháp nhằm giáo dục lối sống cho sinh viên. Có thể thấy tác giả đã
tránh chỉ trình bày lý luận về lối sống sinh viên mà tiếp cận lối sống sinh viên
bằng những phương pháp nghiên cứu cụ thể, mô tả các biểu hiện cụ thể của lối
sống sinh viên trong cuộc sống hiện thực của họ.
+ Phạm Tấn Xuân Tước: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại
học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Hồ Chí Minh học,
2006, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã nêu ra tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống mới cho thanh niên, thưc
trạng và nội dung, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho sinh viên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
+ Giáp Văn Thông: “Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ,
chiến sĩ Công an trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2004. Đề tài đã nêu ra tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng
cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ Công an ở Việt Nam hiện nay. Từ
đó nêu ra thực trạng, đề xuất và giải pháp.
8


+ Nguyễn Thị Thanh Hà: “Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc
xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2014.

Luận án đã nêu ra tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên
hiện nay, những vấn đề tác động đến công tác xây dựng lối sống cho sinh viên.
Thực trạng, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc đối với việc xây dưng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Những tài liệu trên đã đề cập rất nhiều đến vấn đề giáo dục đạo đức lối
sống nhưng chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu, giải quyết vấn đề giáo
dục lối sống cho học viên Cảnh sát nhân dân nói chung và trường Cao đẳng
Cảnh sát nhân dân nói riêng. Vì vậy, đề tài không trùng lặp với các công trình
trước đó. Những tài liệu trên là nguồn tư liệu quý để tác giả tham khảo và kế
thừa, làm định hướng cho luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lối sống cho
thanh niên, luận văn phân tích làm rõ nội dung và giải pháp chủ yếu nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lối sống cho học viên Trường Cao
đẳng Cảnh sát nhân dân I.
3.2. Nhiệm vụ
+ Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
lối sống cho thanh niên.
+ Phân tích thực trạng lối sống của học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát
nhân dân I từ 2010 đến 2015.
+ Nghiên cứu đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả giáo dục lối sống cho
học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu

9



+ Sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác giáo dục lối sống cho
học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lối sống cho thanh niên
+ Lối sống và công tác giáo dục lối sống cho học viên Trường Cao đẳng
cảnh sát nhân dân I hiện nay.
+ Thời gian khảo sát: từ năm 2010 đến năm 2015
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính
sách giáo dục pháp luật của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các văn bản quy định của Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ Công an có liên quan đến
giáo dục lý luận chính trị, lối sống trong các trường Đại học, Cao đẳng và trong
các trường Công an nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ
thể sau:
Phân tích - tổng hợp: Sử dụng phương pháp này nhằm phân tích làm rõ
các nguồn tài liệu, số liệu về đội ngũ cán bộ, giảng viên và học viên. Đưa ra các
kết luận về công tác giáo dục lối sống cho học viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thống kê - so sánh: Thu thập các số liệu về đội ngũ cán bộ, giảng viên và
học viên để phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức, lối sống học viên và công tác
giáo dục lối sống cho học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I tạo cơ sở
cho việc so sánh, đánh giá khoa học.
Phương pháp điều tra xã hội học: xây dựng bảng hỏi tạo điều kiện cho
học viên thể hiện được quan điểm của mình về các vấn đề liên quan đến lối sống
và công tác giáo dục lối sống. Thông qua đó, xử lý các số liệu để nhận được các
thông tin cần thiết phục vụ yêu cầu của đề tài nghiên cứu.


10


Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Phỏng vấn, trưng cầu ý kiến của các
chuyên gia để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục lối sống cho học viên
Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I.
+ Đề tài cũng tiến hành kế thừa những giá trị, những thành tựu của một số
công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
+ Hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lối sống cho thanh niên.
+ Đề xuất một số nội dung, giải pháp giáo dục lối sống cho học viên
Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I.
+ Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp cho Đoàn
trường, Hội học viên, Phòng Quản lý học viên trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện các chương trình hành động của mình.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
+ Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã khẳng định được tính tất yếu, tầm quan trọng và ý nghĩa của
công tác giáo dục lối sống cho thế hệ thanh niên nói chung cũng như học viên
Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I hiên nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục lối sống cho học viên Trường Cao
đẳng Cảnh sát nhân dân I.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập trong các trường Công an nhân dân.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2
chương 4 tiết.

11



Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG
CHO THANH NIÊN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm lối sống và giáo dục lối sống.
Lối sống là khái niệm vẫn đang còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Từ
lâu, khái niệm này đã được các nhà triết học, văn hóa, xã hội học đề cập. từ lối
sống được dịch từ “mode de vie” trong tiếng Pháp, “Lebensweise” trong tiếng
Đức, “Obraz zhizni” trong tiếng Nga, và “Mode of life” trong tiếng Anh. Vào
những năm 60-80 của thế kỷ XX ở liên Xô cũ và các nước Đông Âu có hơn 50
định nghĩa về lối sống, nhưng đến nay vẫn chưa thể nêu lên một định nghĩa
tương đối thống nhất về nội dung và ý nghĩa của nó.
Giải thích phạm trù lối sống, học thuyết Mác đi từ phương thức hoạt động
sản xuất của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn
thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà
hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một
hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất
định của họ” [33, tr.30].
Như vậy, Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của
cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con người,
là phương thức sinh sống của con người, là mặt cơ bản của lối sống. Theo Mác,
lối sống chính là phương thức là dạng hoạt động của con người, nó chịu sự
quyết định của phương thức sản xuất. Tuy chịu sự quyết định của phương thức
sản xuất, nhưng lối sống không phải là sản phẩm thụ động của lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và những điều kiện sống khác. Bởi lẽ, phạm vi của lối
sống rộng hơn phương thức sản xuất. Ngoài những hoạt động vật chất của con
người còn có các hoạt động chính trị, xã hội, nghệ thuật…Phạm vi của lối sống

tương ứng với hình thái kinh tế- xã hội. Tuy nhiên hai khái niệm ấy không đồng
nhất với nhau. Hình thái kinh tế- xã hội gắn liền với hoạt động sản xuất vật chất
12


của con người, đó là một tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Ngược lại, lối sống phản ánh hoạt động chủ thể bao gồm: nhận thức, tình cảm,
động cơ, hành vi, ứng xử, thể chế xã hội…và cả những mối liên hệ giữa chúng.
Ở Việt Nam, “lối sống” là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu
cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh học của con
người và xã hội. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Lối sống là toàn bộ những
hình thức hoạt động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem
xét thống nhất với các điều kiện kinh tế xã hội nhất định”[61, tr.742].
Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác- lênin và những giá trị
truyền thống dân tộc về lối sống Hồ Chí Minh xem lối sống là hình thức biểu
hiện của văn hóa - văn hóa đời sống. Người quan niệm văn hóa là bộ mặt tinh
thần của xã hội và bộ mặt đó được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của mỗi
người. Điều này được Người chỉ ra khi nói về nội dung của đời sống mới, cũng
như cách thức xây dựng đời sống mới ở một nước Việt Nam độc lập.
Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con
người trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống vừa
có các giá trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các giá trị phù
hợp với điều kiện lịch sử của từng thời kỳ nhất định; có các khía cạnh tiến bộ và
cả những khía cạnh tiêu cực. Có thể nói, lối sống bộc lộ nhân cách của con
người trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định. Con người phản ánh qua
lối sống phần nào diện mạo văn hóa thời đại thông qua năng lực trí tuệ, quan hệ
ứng xử và khả năng đồng hóa thẩm mỹ hiện thực của mình trong nhiều phương
diện khác nhau.
Với Hồ Chí Minh, lối sống bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và lối

sống chung của từng nhóm người, rộng hơn là toàn xã hội.
Lối sống cá nhân là toàn bộ những hoạt động sống của cá nhân trong một
xã hội nhất định, đồng thời là sự phản ánh kết quả nhận thức của cá nhân về các
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.Vì thế, lối sống cá nhân luôn mang
đậm dấu ấn cá nhân và có tính phong phú đa dạng. Mặt khác được hình thành từ
13


một điều kiện kinh tế xã hội nhất định nên lối sống của các cá nhân lại có những
điểm chung tương đồng tạo nên lối sống chung của toàn xã hội. Chúng không có
sự tách rời biệt lập mà trái lại luôn thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau.
Hồ Chí Minh quan niệm xã hội là do nhiều cá nhân hợp lại mà thành,
chính vì thế, lối sống cá nhân tích cực thì góp phần tạo nên lối sống tiến bộ của
xã hội. Lối sống văn minh, cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mẫu
mực cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta học tập và noi theo. Ngược lại, lối
sống xã hội có tác dụng định hướng cho lối sống cá nhân, giúp mỗi cá nhân điều
chỉnh lối sống của bản thân.
Khái niệm “lối sống” được đảng ta đề cập lần đầu tiên trong văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Các đại hội sau đó Đảng ta đều đề
cập vấn đề lối sống. Hiện nay, vấn đề lối sống đã được nhiều nhà nghiên cứu ở
nước ta quan tâm nhiều hơn và nghiên cứu sâu hơn.
Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin vê lối sống,
Giáo sư Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con người” đã
quan niệm lối sống theo nghĩa rất rộng: “ Lối sống là phạm trù xã hội khái quát
toàn bộ hoạt động của các dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong
những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định và biểu hiện trên các
lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người
với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa”[24, tr.514].
Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Huy khẳng định, “Lối sống là tổng hòa những dạng
hoạt động sống điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất

định”[13, tr.353].
Ở góc độ xem xét tổng hòa các mặt cơ bản, khắc họa những đặc điểm cá
nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên cho
rằng: “Lối sống là tổ hợp toàn bộ các mô hình, cách thức và phong thái sống của
con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản
xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con
người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện
và mục đích sống”[19, tr.29].
14


Như vậy, trên cơ sở những quan điểm mà các tác giả đưa ra khi định
nghĩa về lối sống, chúng ta có thể nhận thấy có những điểm tương đồng khi cho
rằng: lối sống là sự khái quát hay tổng hòa toàn bộ hoạt động sống của con
người trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định và biểu
hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống từ lao động, trong sinh hoạt vật chất đến tinh
thần, trong quan hệ giữa người và người.
Từ đó chúng ta có thể đưa ra một số đặc điểm cơ bản của lối sống:
Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hòa các hoạt động sống ổn định
của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân trong
cộng đồng.
Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều
kiện sống của con người.
Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống là
hoạt động lao động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có tính
người trong việc sáng tạo các giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần.
Thứ tư, tổng hòa các khuôn mẫu ững xử, các thể chế xã hội được vận
hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong những điều kiện kinh tế- xã hội
nhất định, đó chính là nội dung và phạm vi của lối sống.
Thứ năm, lối sống nói chung mang tính văn hóa, bởi vì trong các hành

động xã hội, thể chế xã hội, khuôn mẫu ứng xử…trong lối sống đều mang ý
nghĩa văn hóa, hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp.
Như vậy có thể nói lối sống là toàn bộ những hoạt động của con người
được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống như lao động, sản xuất, và hoạt
động giao tiếp hàng ngày, trong một chế độ xã hội nhất định.
Từ khái niệm trên về lối sống, có thể hiểu giáo dục lối sống là quá trình
trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho chủ thể được giáo dục để
những hoạt động của họ biểu hiện trong các lĩnh vực của đời sống phù hợp với
những chuẩn mực chung trong một chế độ xã hội nhất định.

15


1.1.2. Khái niệm nếp sống
L.V Kokan cho rằng: “Nếp sống của con người được coi là sự phản ánh
của cá nhân vào xã hội, còn lối sống của con người được coi như là sự phản ánh
xã hội vào cá nhân”[Dẫn theo 20, tr.23]. Trong khi đó, A.P. Buchenko lại cho
rằng “nếp sống không phải là một phần mà là một trong những hình thức biểu
hiện của lối sống” ”[Dẫn theo 20, tr.23].
Lối sống là một hệ thống những hành vi của con người, trong lao động
cũng như trong quan hệ xã hội khác. Những hành vi được lặp đi lặp lại nhiều lần
thành một quy định, nền nếp, thói quen, phong tục, tập quán, lễ nghi…được gọi
là nếp sống.
Giáo sư Vũ Khiêu quan niệm: “Nếp sống là toàn bộ những thói quen được
hình thành trong cuộc sống hằng ngày, những thói quen đã trở thành nếp sống
trong sản xuất, chiến đấu, trong mọi quan hệ xã hội và trong sinh hoạt riêng tư của
mỗi con người. Những thói quen ấy được gọi là tập quán”[24, tr.135].
Nếp sống là sự biểu hiện sinh động của lối sống, do đó, nó không phải là
cái bất biến, vĩnh hằng mà nó vẫn biến đổi. Nhưng chỉ khi nếp sống thay đổi đến
một chừng mực nhất định thì lối sống với biến đổi. Điều này cho thấy, lối sống

và nếp sống không thể tách rời nhau, nhưng nó không phải là một. Đảng ta đã
từng khẳng định sự khác nhau này: “Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh,
khoa học, tiết kiệm và giản dị; bảo vệ và phát triển các giá trị tinh thần. Kiên
quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan; tiếp tục đấu tranh quét sạch băn hóa thực
dân mới và ảnh hưởng của văn hóa phản động, đồi trụy khác. Tất cả những việc
đó nhằm làm cho tư tưởng, tình cảm, lối sống mới thật sự chiếm ưu thế trong đời
sống nhân dân” [10, tr.104 – 105].
Nếu như lối sống là toàn bộ hoạt động của con người thì nếp sống là mặt
ổn định của lối sống. Nếp sống bao gồm những cách thức, những quy ước đã trở
thành thói quen trong sản xuất, trong sinh hoạt, trong tổ chức đời sống xã hội.
Nếp sống làm cho đời sống được ổn định.

16


1.1.3. Khái niệm lẽ sống
Lẽ sống là thuật ngữ triết học, đạo đức, tâm lý phản ánh mặt ý thức của lối
sống. Nó chính là sự lựa chọn chủ quan của con người về lối sống. Sự lựa chọn
này thể hiện sự khẳng định của cá nhân hay một dân tộc đối với lối sống.
Lẽ sống là một trong những vấn đề trung tâm của đời sống con người,
đây là nền tảng tinh thần của con người. Nó chi phối và liên quan mật thiết đến
những định hướng sống của con người hết sức cơ bản như lý tưởng, niềm tin,
thái độ sống, các quan niệm về hạnh phúc, thiện, ác…Lẽ sống có chức năng
định hướng cho lối sống, bởi nó như là thế giới quan, nhân sinh quan của con
người. Vai trò của lẽ sống đối với lối sống giống như “kim chỉ nam” cho cá
nhân điều chỉnh hành vi của mình, vì hạnh phúc cá nhân, vì cộng đồng xã hội.
Con người có lẽ sống tốt đẹp sẽ có khả năng vượt qua mọi khó khăn vượt qua
mọi khó khăn để vươn lên trong cuộc sống. Ngược lại, sự khủng hoảng về quan
niệm lẽ sống có thể dẫn con người tới đổ vỡ niềm tin, chao đảo tinh thần, lệch
hướng trong cuộc sống, rối loạn trong hành động dẫn tới những hậu quả khó

lường. Một người có lẽ sống đúng đắn sẽ góp phần hình thành lối sống tốt đẹp.
Do vậy, có thể nói, lẽ sống là mặt lý tưởng của lối sống, là nhân lõi của lối sống.
Lẽ sống có hai loại:
Lẽ sống tầm thường được nảy sinh và giới hạn bởi những ham muốn cụ
thể và ít liên quan đến trách nhiệm của mình đối với người khác và xã hội.
Lẽ sống đạo đức là một quan niệm sống của con người mà nội dung chính
là mối quan hệ giữa hạnh phúc và nghĩa vụ. Nói cách khác, lẽ sống đạo đức
chính là ý nghĩa cuộc sống mà con người tự nhận thức được, tự giác hành động
vì một lý tưởng đạo đức cao đẹp dựa trên một quan niệm nhân sinh tiến bộ.
Lẽ sống đạo đức khác lẽ sống tầm thường ở chỗ con người nhận ra ý
nghĩa cuộc sống của mình hướng tới những giá trị đích thực, tự nguyện, tự giác
làm điều lợi vì hạnh phúc của xã hội, tự giác sống vì người khác dù trong bất kỳ
hoàn cảnh nào đều có ý thức giữ gìn nhân cách, phẩm giá của mình.

17


Lẽ sống là phạm trù trung tâm của đạo đức học vì nó quan trọng và quyết
định nội dung, tính chất của các phạm trù khác. Xác định lẽ sống đúng đắn tạo
thành một lối sống, một quan niệm đúng đắn.
1.1.4. Khái niệm phong cách sống
Phong cách sống là thuật ngữ tâm lý - xã hội dùng để chỉ thái độ, hành vi
ứng xử và định hướng giá trị trong đời sống hàng ngày của cá nhân và các nhóm
xã hội. Phong cách sống chính là hình thức biểu hiện của lối sống trong sinh
hoạt, trong các hoạt động xã hội của cá nhân, của các nhóm xã hội.
Phong cách sống là lề lối sinh hoạt riêng, là thói quen của mỗi người, đây
là dấu ấn riêng của từng người.
Phong cách sống của con người không chỉ phụ thuộc vào trình độ hiểu
biết mà còn chịu ảnh hưởng không ít đến ý thức đạo đức, tác phong, thái độ của
từng người.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và giáo
dục lối sống cho thanh niên
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên
1.2.1.1. Thanh niên là lực lượng to lớn trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc
Theo học thuyết Mác- Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người làm ra lịch sử. Quán triệt quan điểm trên, Hồ Chí Minh xác
định đúng đắn lực lượng cách mạng Việt Nam. Đó là toàn thể quần chúng bị áp
bức và những người tiến bộ. Người khẳng định cách mạng là việc chung của dân
chúng chứ không phải việc của một hai người, trong đó công nông là gốc cách
mạng, là đội quân chủ lực của cách mạng.
Tiếp thu luận điểm của C.Mác: “Tương lai của giai cấp công nhân, qua đó
tương lai của loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân
đang lớn lên”[34, tr.118] và luận điểm của V.I.Lênin: “Thanh niên là nguồn
chiến đấu sinh lực của cách mạng”[58, tr.67], Hồ Chí Minh khẳng định tiềm
năng, vai trò, vị trí to lớn của thanh niên trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong
sự nghiệp cách mạng. Điều đó thể hiện rất rõ trong nhiều tác phẩm của Hồ Chí
18


Minh về thanh niên và công tác thanh niên từ khi Người ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân đúng đắn theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Thanh niên được coi là lực
lượng đông đảo trong xã hội chiếm một phần ba tổng số nhân dân, đây là lực
lượng có sức khỏe dồi dào, hăng hái, nhiệt tình, có lý tưởng, sẵn sàng hy sinh xả
thân vì nghĩa lớn, thanh niên trở thành lực lượng chủ yếu của cách mạng.
Năm 1921, khi đất nước còn trong đêm đen nô lệ, Nguyễn Ái Quốc đã
nói: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang ẩn chứa một cái
gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi có thời cơ
đến”[51, tr.30]. Bốn năm sau, Người nêu lên tư tưởng “Thức tỉnh thanh niên để
đi tới thức tỉnh cả dân tộc”[52, tr.102]. Và 16 năm sau khi Đảng cộng sản Việt

Nam do Người sáng lập, lãnh đạo nhân dân ta giành được chính quyền, lập ra
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh một
lần nữa khẳng định: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do
các thanh niên”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người biểu
dương thang niên ta là: “Thế hệ anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng”. Đây
chính là sự đánh giá cao nhất về vai trò, vị trí của thanh niên mà Người dành cho
lớp trẻ.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, chịu ảnh hưởng từ những hoạt động của
tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Hội thanh niên, Hội sinh viên, sinh
viên nước ta bắt đầu ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình đối với dân
tộc và bắt đầu đứng lên đấu tranh. Tiêu biểu là các phong trào đòi ân xá cho
Phan Bội Châu, phong trào để tang Phan Châu Trinh. Theo Hồ Chí Minh đây là
tín hiệu đáng mừng cho cách mạng Việt Nam, chứng tỏ thanh niên đã thức tỉnh,
hồi sinh. Người phấn khởi viết: “Đâu đâu học sinh cũng đều bãi khóa. Nữ sinh
cũng tham gia phong trào” [37, tr.231].
Những năm tháng hoạt động ở hải ngoại, Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên
theo dõi tình hình cách mạng trong nước. Trong các báo cáo gửi Quốc tế cộng
sản về tình hình Đông Dương, Người đều chú ý đến phong trào của thanh niên.
Đặc biệt Hồ Chí Minh còn xem phong trào thanh niên như ngòi nổ của các
phong trào cách mạng Việt Nam. Năm 1941, Người trở về tổ quốc trực tiếp lãnh
19


đạo phong trào cách mạng, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất mang tên Việt
Nam độc lập đồng minh. Thành viên của của mặt trận là các Hội cứu quốc, trong
đó có thanh niên cứu quốc. Đây là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ 18 đến 22
tuổi, muốn tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật. Chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành
chính quyền Người còn chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
Ngày 22 thánh 12 năm 1944 đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được
thành lập, phần lớn các đội viên là đoàn viên và đảng viên trẻ tuổi có tinh thần

kiên quyết, hăng hái nhất được chọn lọc trong hàng ngũ du kích Cao – Bắc –
Lạng. Trái với quan niệm mỉa mai của một số Người cho rằng: “Vài chục thằng
thanh niên học trò và dân cày, thổ có, Nùng có, Trại có, Kinh có. Với vài khẩu
súng quèn, mươi con dao mã tấu mà cũng dám tự gọi là quân, gánh trách nhiệm
giải phóng cho dân tộc” [40, tr.370], Hồ Chí Minh lạc quan tiên đoán: “Tuy lúc
đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm
của giải phóng quân, nó có thể đi khắp đất nước từ Nam chí Bắc, khắp đất nước
Việt Nam” [38, tr.540]. Cơ sở của sự tiên đoán chính là niềm tin vững chắc của
Hồ Chí Minh về khả năng to lớn và sức mạnh tiềm tàng của thanh niên, về xu
thế vận động phát triển của cách mạng.
Không phụ lòng tin yêu của lãnh tụ, thanh niên cả nước nhất tề đứng lên
theo lời hiệu triệu của Đảng và là lực lượng tiên phong trong công cuộc cướp
chính quyền từ tay phát xít Nhật, giành độc lập cho dân tộc, đem lại quyền làm
chủ cho nhân dân. Tiếp tục phát huy vai trò xung kích, thanh niên là lực lượng
chính yếu hăng hái tham gia thực hiện các nhiệm vụ cách mạng như: tăng gia
sản xuất, xóa nạn mù chữ, thực hành đời sống mới, chiến đấu chống thực dân
Pháp. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, thanh niên mọi miền đất nước nêu cao
tinh thần bất khuất, không ngại hi sinh quyết tâm kháng chiến để giữ vững nền
độc lập của nước nhà. Trước những tấm gương hi sinh anh dũng của thanh niên
cả nước, Hồ Chí Minh vô cùng tự hào và viết thư biểu dương ca ngợi: Các em là
đội cảm tử. Các em cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh . Các em là đại biểu cái tinh
thần tự tin của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã
kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
20


Trung, Phan Đình Phùng, Hoành Hoa Thám truyền lại cho các em. Nay các em
gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam
muôn đời về sau.
Những tấm gương tiêu biểu như Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Bế Văn Đàn,

Phan Đình Giót…cùng hàng triệu thanh niên dũng cảm khác đa cống hiến tuổi
xuân, sức lực cùng với toàn dân làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ đầy gian khổ.
Sau năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt thành 2 miền với hai nhiệm
vụ mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên xây dựng CNXH. Miền Nam
trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Lực lượng thanh niên cũng đã đóng góp rất nhiều trong công
cuộc xây dựng vừa bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Miền Bắc, làm hậu phương vững chắc cho miền Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Những cống hiến to lớn ấy của lực lượng thanh niên đã góp
phần không nhỏ làm nên đại thắng mùa xuân 1975.
Trong lúc Mỹ ngụy thẳng tay đàn áp, khủng bố các phong trào yêu nước
của tuổi trẻ và đồng bào miền Nam, đặc biệt là thời kỳ đen tối, khó khăn nhất ở
miền Nam, Bác Hồ luôn khẳng định vai trò của thế hệ trẻ với niềm tin yêu vô
cũng vững chắc: “Các cháu thanh niên miền Nam sinh ra và lớn lên trong hai
cuộc đấu tranh yêu nước đã được rèn luyện thành một thế hệ thanh niên vô cùng
gan dạ, thông minh, không sợ gian khổ hy sinh, quyết chiến, quyết thắng”.[49,
tr.618]. Không phụ niềm tin của Người hàng triệu thanh niên miền Nam đã tham
gia phong trào “Năm xung phong” do đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Việt
Nam tổ chức. Với tinh thần dũng cảm, mưu trí các nữ thanh niên đã đóng góp
tích cực vào những cuộc đấu tranh của “đội quân tóc dài”. Thanh niên nông thôn
vùng giải phóng xung phong vào bộ đội, đi dân công phục vụ chiến trường hoặc
tham gia xây dựng các làng xã chiến đấu ở địa phương để bảo vệ quê hương. Ở
các đô thị, vùng Mỹ- ngụy kiểm soát, thanh niên sinh viên, học sinh luôn là lực
lượng châm ngòi cho các phong trào đấu tranh chính trị. Các đêm biểu diễn văn
21


nghệ “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Dậy mà đi”, những cuộc hội thảo đòi dân

sinh, dânc hủ luôn thu hút sự chú ý và tham gia đông đảo của các tầng lớp sinh
viên, học sinh. Sinh viên, học sinh còn tích cực tham gia phong trào bãi khóa,
xuống đường đấu tranh đòi hòa bình thống nhất đất nước, chống sự đàn áp của
chính quyền địch.
Thi đua trong chiến đấu, lao động sản xuất, học tâp thanh niên lập nên
nhiều thành tích to lớn. Chiến công và sự trưởng thành của thanh niên cả nước
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước xứng đáng với lời khen ngợi của
chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các cháu thanh niên thân mến, các cháu là thế hệ anh
hùng trong thời đại anh hùng. Bác mong các cháu đều xứng đáng là những anh
hung trong sự nghiệp cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc và xây dựng xã hội
mới”[49, tr.620].
1.2.1.2. Thanh niên là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước
Ngay từ khi còn trẻ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sớm hòa mình vào
phong trào đấu tranh của thanh niên trong nước và quốc tế. Chính những năm
tháng sống, lao động, chiến đấu cùng với thanh niên giúp Hồ Chí Minh có điều
kiện hiểu rõ thanh niên. Xuất phát từ quy luật vận động của xã hội loài người,
Hồ Chí Minh khẳng định thanh niên không những là lực lượng kế tục sự nghiệp
cách mạng của các thế hệ đi trước, mà còn là tương lai của đất nước, của dân
tộc: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một năm khởi đầu từ tuổi trẻ.Tuổi trẻ là
mùa xuân của xã hội”[39, tr.194]. Đây là kết quả nhận thức của một người từng
trải, có nhiều năm tháng gắn bó mật thiết với thanh niên, là sự tiếp nối và phát
triển những quan điểm của cha ông, của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò của
thanh niên trong lịch sử. Tính chân lý của câu nói trên chính là việc chỉ ra vai trò
quan trọng của thanh niên đối với sự phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh khẳng
định: thanh niên có sứ mạng lịch sử vẻ vang đối với cách mạng nước mình và
cách mạng thế giới, đó là thanh niên trong giai cấp công nhân, giai cấp đại biểu
cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử, là người xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Người cho rằng thanh niên các
22



nước đoàn kết với nhau, tin tưởng vào khả năng đấu tranh của mình để giữ gìn
hòa bình thế giới, thực hiện hợp tác cùng nhau để xây dựng đời sống hạnh phúc
tươi vui.
Trên thực tế thanh niên có mặt trên hầu khắp các mặt trận, góp phần xây
dựng đất nước về tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, bảo vệ Tổ quốc. Khi miền Bắc
nước ta bước vào thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhìn nhận thanh niên là lớp người xung phong trong công tác phát triển
kinh tế, văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng CNXH; thanh niên là lực lượng cơ
bản trong bộ đội, công an, dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự trị an,
bảo vệ Tổ quốc và trong mọi việc thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu đâu cần
thanh niên có, việc gì khó có thanh niên làm. Người cũng động viên thanh niên
thực hiện tốt hơn vai trò xung kích của mình, các cháu thanh niên gái cũng như
trai hãy thực hiện tốt “ba sẵn sàng”, xung phong hiến dâng tất cả tinh thần và lực
lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, cho Tổ quốc và XHCN.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người tính đến cuối tháng 5/1965 đã có 2 triệu 50
vạn đoàn viên và thanh niên ghi tên thực hiện: “sẵn sàng chiến đấu”, “sẵn sàng
gia nhập các lực lượng vũ trang”, “sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ ư.việc
gì mà Tổ quốc cần đến”. Thanh niên thi đua hăng hái trên mọi mặt trận nông
nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, khoa học kỹ thuật, giáo dục, y tế… với tinh
thần “việc gì khó có thanh niên, ở đâu khó có thanh niên”. Thanh niên công
nhân phất cao ngọn cờ “Duyên hải”, đi đầu phong trào cải tiến kỹ thuật, nâng
cao năng suất lao động. Thanh niên các ngành đều thi đua sản xuất theo tinh
thần “một người làm việc bằng hai” và thực hành tiết kiệm. Thi đua cùng với
thanh niên công nhân, thanh niên nông dân, thanh niên trong bộ đội, công an và
dân quân tự vệ hăng hái thực hiện “Phong trào ba nhất”, tích cực giữ gìn trật tự
trị an, bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên trường học đi đầu trong công việc xóa nạn
mù chữ, bổ túc văn hóa, xung phong đưa văn hóa lên giúp đồng bào miền núi,
nỗ lực thi đua thực hiện phong trào “Hai tốt”. Phong trào ba sẵn sàng đã thực sự

trở thành một cao trào cách mạng của thanh niên trong những năm tháng tiến
hành sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng CNXH dưới sự lãnh đạo của
23


×