Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

CHƯƠNG i: lý LUẬN CHUNG về DI sản văn hóa và TỔNG QUAN về DI sản văn hóa ở HUYỆN KIM ĐỘNG, TỈNH HƯNG yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.46 MB, 124 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
xác định: Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa là một trong những nhiệm
vụ quan trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Trong đó, di sản văn hóa được coi là “cốt lõi của bản sắc dân tộc,
cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”. Do vậy, trong
q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta chủ
trương đặc biệt coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong 15 năm vừa
qua, kể từ khi Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII được triển khai,
nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa được thực hiện trên địa bàn cả
nước và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, xung quanh việc
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn
chế. Thực tiễn địi hỏi cần có một sự tổng kết hoạt động bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa ở các địa phương, trên cơ sở đó, có sự đánh giá tồn
diện và tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề này.
Nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Hưng n, huyện Kim Động có vị trí địa
lý thuận lợi cả về đường thuỷ và đường bộ bởi có quốc lộ 39A và sông Hồng
chạy qua. Nơi đây là vùng đất có truyền thống văn hiến từ lâu đời, trải qua
q trình lịch sử, Kim Động vẫn cịn lưu giữ được nhiều di tích: đền, đình,
chùa, miếu, lăng mộ... Hiện nay, tồn huyện có 164 di tích các loại, trong đó
24 di tích và cụm di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 19 di tích xếp hạng cấp
tỉnh. Cùng với di sản văn hố vật thể, Kim Động cịn có nhiều di sản văn hố
phi vật thể đặc sắc với gần 60 lễ hội.
Là một huyện mới được tái lập (1996), Kim Động có bước phát triển
khá nhanh về kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng


2


nâng cao. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều địa phương khác, Kim Động đang
phải đối mặt với những thách thức trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội,
giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại: làm thế nào để các giá
trị văn hóa khơng bị mai một trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa?
Làm thế nào để kinh tế và văn hố có sự kết hợp hài hòa nhằm hướng tới sự
phát triển bền vững? Làm thế nào khai thác được các giá trị di sản văn hóa để
nó trở thành một nguồn lực cho sự phát triển bền vững của địa phương? là
những vấn đề đang đặt ra, cần có câu trả lời thỏa đáng.
Ở một phương diện khác, nhiều di tích văn hố có thời gian tồn tại lâu
đời nên đã xuống cấp nghiêm trọng. Hơn nữa, trải qua thăng trầm của lịch sử,
các di sản văn hoá nằm ở nhiều tầng lịch sử khác nhau, nhiều di tích, di vật và
các di sản văn hóa phi vật thể chưa được quan tâm nghiên cứu, đánh giá đúng
mức để bảo vệ và phát huy nên khơng ít di sản văn hố của huyện đang bị rơi
vào lãng quên. Công tác đầu tư khai thác, phát huy các giá trị của di sản văn
hóa chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Do đó, việc nghiên cứu, xác định
rõ các giá trị lịch sử, văn hố của các di tích trên địa bàn huyện Kim Động,
tỉnh Hưng Yên, trên cơ sở đó có biện pháp quản lý, khai thác giá trị các di sản
văn hóa trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cấp bách và hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do đó, tơi lựa chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hoá huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm luận văn tốt
nghiệp hệ đào tạo thạc sĩ văn hoá học tại Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa là
một chủ đề thu hút sự quan tâm khơng chỉ riêng giới nghiên cứu văn hóa mà của
cả xã hội. Liên quan đến chủ đề này, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, các bài
viết được cơng bố, có thể kể đến như:


3

Các văn bản của Đảng và Nhà nước đề cập đến di sản văn hóa; bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII đã xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng để xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là bảo tồn và phát huy các
di sản văn hóa.
- Nghị định của Chính phủ số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa.
- Chỉ thị số 05/2002/CT-TTg ngày 18/02/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ cổ vật trong di tích và ngăn
chặn đào bới trục vớt trái phép di chỉ khảo cổ học;
- Quyết định số 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24/7/2001 của Bộ trưởng
Bộ Văn hóa - Thơng tin phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá
trị di tích lịch sử-văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020;
- Quyết định số 05/2003/QĐ-BVHTT, ngày 06 tháng 2 năm 2003 của
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thơng tin ban hành Quy chế bảo quản, tu bổ và
phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh;
- Quyết định số 13/2004/QĐ-BVHTT ngày 01/4/2004 của Bộ trưởng
Bộ Văn hóa - Thơng tin ban hành định mức dự tốn bảo quản, tu bổ và phục
hồi di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh;
- Quyết định số 70/2006/QĐ-BVHTT, ngày 15 tháng 9 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa - Thơng tin ban hành Quy chế kiểm kê hiện vật bảo tàng.
Từ năm 2009 đến nay, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Di sản văn hóa đã được khẩn trương nghiên cứu, xây dựng,
nhằm cụ thể hóa những vấn đề cịn vướng mắc đáp ứng u cầu của thực tiễn
phát triển các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, phục vụ có
hiệu quả q trình phát triển kinh tế, xã hội, đó là:



4
- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Di sản văn hóa;
- Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ quy định
thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ,
phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh;
- Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 quy định việc
kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hoá phi
vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia;
- Thơng tư số 09/2011/TT-BVHTTDL ngày 14/7/2011 quy định về nội dung
hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh;
- Thơng tư số 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 quy định chi tiết
một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.
Các cơng trình nghiên cứu về di sản văn hóa; bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa
- Cơng trình Di sản văn hố dân tộc trong tín ngưỡng và tơn giáo ở Việt
Nam của PGS. Chu Quang Trứ - Nxb Thuận Hoá, Huế 1996, đã trình bày một
cách khái quát các phương diện chủ yếu của giá trị di sản văn hoá dân tộc tín
ngưỡng, tơn giáo ở nước ta.v.v...
- Cơng trình Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hố dân
tộc (1997) của GS.TS. Hồng Vinh. Cuốn sách đề cập đến những vấn đề lý
luận về di sản văn hố dân tộc, về vai trị, chức năng của di sản văn hoá đối
với việc lựa chọn mơ hình phát triển văn hố dân tộc. Tác giả đã tiến hành
phân loại và bước đầu mô tả thực trạng vốn di sản văn hố dân tộc.
- Cơng trình Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Việt Nam của
GS.TSKH. Lưu Trần Tiêu - Tạp chí Văn hố nghệ thuật, Hà Nội, 2000, đề cập
và phân tích những dấu tích văn hố khảo cổ học tồn tại trên đất nước ta qua
các thời kỳ.



5
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH (qua thực tế một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ)” (2008) do
TS. Nguyễn Toàn Thắng làm chủ nhiệm, hoàn thành tại Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, khảo sát thực trạng hoạt động bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Hưng
Yên thời gian vừa qua, đồng thời đề xuất những giải pháp cho hoạt động này
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các cơng trình luận án, luận văn về di sản văn hóa; bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa
Luận án tiến sĩ “Nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản văn hóa nghệ thuật
trong giai đoạn hiện nay” của Đàm Hồng Thụ, Viện Văn hố Nghệ thuật. Hà
Nội, năm 1996.
- Luận án tiến sĩ Di sản văn hoá truyền thống với vấn đề phát triển du
lịch (trên cơ sở khảo sát địa bàn tỉnh Hưng Yên) của Lê Thị Hồng Hạnh, Viện
Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội, năm 2007. Trên cơ sở khảo sát, kiểm kê kho
tàng di sản văn hóa của Hưng Yên, kết hợp với các lý luận được tổng quan,
luận án đã xác lập mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hóa và khai
thác di sản cho mục đích du lịch. Luận án nêu ra giải pháp hợp lý để vừa phát
triển du lịch dựa trên việc khai thác các giá trị văn hóa vừa bảo tồn các di sản
văn hóa, góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc.
- Luận văn thạc sĩ Văn hóa học Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay của Hoàng
Thanh Mai, Hà Nội, năm 2011. Trên cơ sở làm rõ vai trị của di sản văn hố
đối với phát triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Lạng Sơn, luận văn tập trung
nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá của tỉnh
Lạng Sơn trong thời gian vừa qua, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả của cơng tác này trong thời kỳ đẩy mạnh hội
nhập và giao lưu quốc tế.



6
- Luận văn thạc sĩ Văn hoá học Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hoá ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời kỳ đổi mới hiện nay của Nguyễn Thị Nữ Y, Hà
Nội, năm 2011. Trên cơ sở nhận thức về vai trị của di sản văn hố đối với sự
phát triển kinh tế- xã hội ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, luận văn tập trung nghiên
cứu, đánh giá thực trạng bảo tồn và phát huy di sản văn hoá ở tỉnh Hà Tĩnh
trong những năm qua. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá trong
thời kỳ đổi mới.
Các cơng trình về di sản văn hóa; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên
- Năm 2002, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hưng Yên đã chỉ đạo
Bảo tàng tỉnh xuất bản cuốn sách “Di tích lịch sử - Văn hóa Hưng n”, giới
thiệu 158 di tích và cụm di tích lịch sử - văn hóa được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch cơng nhận, trong đó có 17 di tích của huyện Kim Động. Đây là cơng
trình mang tính chất sưu tầm, chưa đề cập đến việc tổ chức phân loại, đánh giá,
tìm hiểu, khai thác các giá trị di sản văn hoá, xây dựng các phương án bảo tồn và
phát huy tác dụng các giá trị di sản văn hóa một cách tồn diện trên cả 2 lĩnh
vực: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh Hưng Yên.
- Năm 2012, Ban Quản lý di tích tỉnh Hưng Yên xây dựng cuốn sách
“Hưng Yên - di tích lịch sử văn hóa", giới thiệu tóm lược về vị trí địa lý,
niên đại xây dựng, q trình tu bổ, tơn tạo, năm cơng nhận xếp hạng của
các di tích tính đến tháng 4 năm 2012 trên địa bàn toàn tỉnh. Trong đó,
huyện Kim Động có 24 di tích, cụm di tích xếp hạng cấp quốc gia, 19 di
tích xếp hạng cấp tỉnh.
- Năm 2007, Ban Thường vụ huyện ủy Kim Động đã chỉ đạo nghiên
cứu và xuất bản cuốn sách “Kim Động xưa và nay”. Cuốn sách giới thiệu tổng
quát về Kim Động từ xa xưa đến ngày nay, giúp người đọc hiểu biết về truyền
thống lịch sử và tiềm năng của mảnh đất này.



7
- Năm 2009, huyện Kim Động xuất bản cuốn sách Kim Động vùng văn hoá
dân gian đặc sắc, giới thiệu về những giá trị văn hoá phi vật thể của huyện.
Như vậy, có thể nói cho đến nay, chưa có cơng trình nào đi vào nghiên
cứu hệ thống di sản văn hóa và vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa của huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Trên cơ sở những kết quả của các
công trình đi trước, luận văn tập trung tìm hiểu hệ thống di sản văn hóa ở
huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy
những giá trị di sản văn hóa, từ đó, đề xuất kiến nghị với địa phương và các
cơ quan chức năng những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này
trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về văn hóa, di sản văn hóa, luận văn
nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy những giá trị của các di sản văn
hóa trên địa bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên trong thời gian vừa qua; đề
xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá của địa phương giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về di sản văn hoá; vai trị của di sản
văn hố đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Kim Động, tỉnh Hưng
Yên hiện nay.
- Đánh giá thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá ở huyện
Kim Động, tỉnh Hưng Yên từ khi tái lập huyện (năm 1996) đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn di sản
văn hoá và khai thác giá trị di sản văn hoá vào việc phát triển kinh tế - xã hội
của huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.



8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các giá trị di sản văn hóa
phi vật thể và vật thể trên địa bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hoá của huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên từ năm 1996 đến nay.
- Về không gian: huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngồi phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Văn hóa học, luận văn
còn sử dụng hệ thống các phương pháp liên/đa ngành: phân tích - tổng hợp;
phương pháp điền dã, đối chiếu và so sánh, logic và lịch sử, thống kê và phân
loại văn bản… để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn nghiên cứu thành cơng sẽ có những đóng góp sau:
- Đánh giá được thực trạng công tác bảo tồn và phát huy những giá trị
của các di sản văn hóa trên địa bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên từ năm
1996 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá của địa phương trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
quảng bá và khai thác giá trị của di sản văn hoá trên địa bàn huyện Kim Động,

tỉnh Hưng Yên.


9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hơn một số lý luận về di
sản văn hóa.
- Về mặt thực tiễn: Phân tích thực trạng cơng tác bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Các
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quảng bá và khai thác giá
trị của di sản văn hóa trên địa bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, góp phần
cùng các cấp uỷ Đảng, chính quyền làm tốt cơng tác bảo tồn và phát huy giá
trị của di sản văn hóa trên địa bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.


10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI SẢN VĂN HÓA
VÀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DI SẢN VĂN HÓA HUYỆN KIM ĐỘNG,
TỈNH HƯNG YÊN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI SẢN VĂN HÓA

1.1.1. Quan niệm về di sản văn hóa
Di sản văn hóa (DSVH) là bức tranh văn hóa đa dạng mn màu sắc
của mỗi quốc gia, là biểu tượng sinh động về niềm tin, phong tục, tập quán,
tín ngưỡng và đời sống tạo nên dấu ấn và bản sắc riêng của mỗi cộng đồng.
Đó là tồn bộ những sản phẩm, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc

đã sáng tạo, để lại, lưu giữ, trao truyền nhiều thế hệ. Di sản văn hoá giữ vai
trị quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của mỗi dân tộc. Đó
khơng chỉ là tài sản riêng của một vùng đất hay của một địa phương mà là tài
sản của quốc gia, dân tộc.
Theo nghĩa Hán Việt, di sản văn hóa là những tài sản văn hóa có giá trị
của q khứ cịn tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai. “Di” là để lại,
còn lại, chuyển lại, dịch chuyển. “Sản” là tài sản, là những gì q giá, có giá trị.
Từ điển tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên, tài sản được giải thích
là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng [47, tr.853].
Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009 đã xác
định: Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta [50, tr.30].
Nghĩa tài sản trong Từ điển tiếng Việt mang ý nghĩa kinh tế, thực dụng,
cịn trong Luật Di sản văn hóa, là một thuật ngữ có hai nghĩa quan trọng. Thứ
nhất, là thuật ngữ mang tính luật học, thể hiện tính có sở hữu cụ thể của di sản
văn hóa. Nói di sản văn hóa là tài sản, có nghĩa chứng tỏ người sở hữu cụ thể.


11
Người sở hữu ở đây có thể là một cá nhân, tổ chức, đoàn thể hay nhà nước. Việc
xác định quyền sở hữu đối với từng di sản văn hóa có vai trị hết sức quan trọng
trong việc giữ gìn, chống thất thoát di sản. Thứ hai, giá trị sử dụng của di sản
được thể hiện thơng qua vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Di sản văn hóa tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những vùng
miền, những tộc người khác nhau. Sự đa dạng, giàu có của di sản văn hóa Việt
Nam khơng chỉ bởi dân tộc ta đã có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước; khơng chỉ bởi nước ta hội tụ sự đặc sắc văn hóa của 54 tộc người… mà
còn bởi mỗi vùng miền, mỗi tộc người đều cố gắng bảo tồn những sắc thái
văn hóa, những truyền thống văn hóa lâu đời của riêng mình để góp chung

vào kho tàng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Di sản văn hóa được phân loại theo nhiều cách khác nhau, trong đó, có
một số cách phân loại phổ biến sau:
Phân loại theo khả năng thỏa mãn nhu cầu hay mục đích sử dụng của di
sản văn hóa, được phân chia ra thành di sản văn hóa vật chất và di sản văn
hóa tinh thần.
Phân loại theo lĩnh vực hoạt động của con người, chẳng hạn GS Trần
Ngọc Thêm phân loại văn hóa thành 4 tiểu hệ thống: văn hóa nhận thức, văn
hóa ứng xử với mơi trường xã hội, văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên,
văn hóa tổ chức đời sống. Theo cách phân chia này, có 4 tiểu hệ thống di sản
văn hóa tương ứng [57, tr.23].
PGS.TS. Phạm Duy Khuê lại chia di sản văn hóa thành các lĩnh vực
chính là: văn hóa tài nguyên, văn hóa kỹ thuật (văn hóa hành vi), văn hóa thân
tộc (văn hóa cơ chế) và văn hóa tư tưởng (văn hóa tâm thức).
Trong luận văn, việc phân chia di sản văn hóa dựa theo cách phân loại
của Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc - UNESCO và
Luật Di sản văn hóa của Việt Nam, phân loại theo hình thái biểu hiện của di
sản văn hóa. Theo cách phân chia này, di sản văn hóa được chia thành di sản
văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.


12
Di sản văn hóa vật thể là dạng di sản văn hóa được bảo tồn và lưu giữ
dưới dạng vật thể hữu hình có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm: di
tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia…
Di sản văn hóa phi vật thể là dạng di sản văn hóa được bảo tồn và lưu
giữ dưới dạng phi vật thể, vơ hình mà con người khơng thể nhận biết được
bằng xúc giác. Đó là các sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ khác bao gồm tiếng nói, chữ

viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn
xướng dân gian, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y,
dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc
và những tri thức dân gian khác [50, tr.13]. Di sản phi vật thể, khác với di sản
vật thể ở chỗ, những hình thức lưu truyền và truyền dạy các di sản này đều
thông qua ký ức, truyền miệng, truyền nghề, thực hành qua ngôn ngữ và hành
vi của con người cụ thể.
Di sản văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, chuyển tải bản sắc văn hóa
của một cộng đồng xã hội. Do vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
là hoạt động thiết thực nhằm hướng tới xây dựng nền văn hóa Việt Nam
truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào việc giữ gìn và làm
phong phú kho tàng di sản văn hóa nhân loại.
1.1.2. Quan niệm về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Theo từ điển Tiếng Việt: “bảo tồn” là “giữ lại không để cho mất đi”.
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức
vốn có của nó, bảo tồn là không để mai một không để bị thay đổi, biến hóa
hay biến thái.
GS.TS. Ngơ Đức Thịnh quan niệm bảo tồn là những nỗ lực nhằm gìn
giữ các giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có (truyền thống) của mỗi dân tộc,
quốc gia [59, tr.252].


13
Theo GS.TS. Trần Ngọc Thêm: Bảo tồn là hoạt động giữ gìn một cách
an tồn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, hay nói cách khác bảo
tồn có nghĩa là bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống
cấp của kết cấu đó [57, tr.289].
Trong tiến trình lịch sử, hoạt động bảo tồn di sản văn hóa xuất hiện
ngay từ khi con người ý thức được giá trị của di sản văn hóa trong đời sống,
đồng thời hiểu được mối nguy hại do tác động của thiên nhiên và chính con

người gây ra, họ đã khơng ngừng tìm kiếm các biện pháp bảo tồn.
Cơng tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm
các hoạt động như: bảo tồn nguyên trạng; trùng tu; gia cố; tái định vị; phục
hồi; quy hoạch bảo tồn. Tuy nhiên, cần phải hiểu bảo tồn di sản văn hóa là
việc bảo vệ, giữ gìn những giá trị liên quan từ quá khứ đến hiện tại làm cho
di sản văn hóa giàu có hơn và tất yếu, cái được bảo tồn phải phù hợp với thời
đại để nó có thể tiếp tục song hành cùng xu hướng đi lên của cuộc sống.
Cũng theo từ điển Tiếng Việt, phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt
tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [63, tr.768]. Phát huy là việc khai thác,
sử dụng sản phẩm một cách có hiệu quả, là những tác động làm cho cái hay,
cái đẹp, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao.
Nói một cách khác, phát huy chính là việc khai thác, sử dụng sản phẩm một
cách có hiệu quả. Công việc này xuất phát từ nhu cầu thực tế, con người
mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều người cùng biết đến hoặc
đem về những lợi ích kinh tế. Theo cách hiểu của các tác giả cơng trình “Bảo
tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi
mới và hội nhập”, phát huy được thể hiện ở hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là những hành động nhằm đưa các di sản văn hóa vào
thực tiễn xã hội, coi đó như là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy
sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con
người, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa đối với phát triển xã hội.


14
Thứ hai, phát huy cịn bao hàm ý nghĩa đó chính là mơi trường tốt
nhất để bảo tồn và làm giàu di sản văn hóa.
Mục đích của phát huy giá trị di sản văn hóa là phục vụ cho sự tiến bộ
của xã hội, cho sự phát triển bền vững và góp phần quan trọng trong việc giáo
dục truyền thống u nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Cách thức phát huy mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau điều đó tùy

thuộc vào văn hóa của mỗi vùng, vào nhận thức của từng người. Nhưng đòi
hỏi các hoạt động này đều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, tơn vinh vẻ
đẹp và phát triển các giá trị văn hóa đó. Hình thức chủ yếu của phát huy là
giới thiệu hình ảnh của di sản trên mọi phương diện nhằm khai thác có hiệu
quả giá trị kinh tế - văn hóa của di sản.
Cụm từ “ bảo tồn và phát huy” văn hoá truyền thống (hay bản sắc văn
hoá, giá trị văn hoá truyền thống) được đề cập trong nhiều cơng trình nghiên
cứu cũng như các văn kiện liên quan đến văn hóa. Trong “ Thập kỷ thế giới
phát triển văn hoá” (1988- 1998) do UNESCO - cơ quan văn hoá, khoa học và
giáo dục của Liên hiệp quốc phát động, đã đưa ra khuyến nghị, đó là “Bảo
tồn, làm giàu và phát huy” các giá trị (bản sắc) văn hoá truyền thống. Các
nguyên tắc trên càng trở nên bức thiết trong bối cảnh toàn cầu hố hiện nay,
đặc biệt là tồn cầu hố văn hoá.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là hoạt động quan trọng trong
việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và vẻ đẹp tâm hồn trí tuệ của
con người Việt Nam. Bảo tồn và phát huy luôn gắn liền với nhau trong việc
xây dựng và phát triển văn hóa. Bởi lẽ văn hóa là cái thể hiện sức sống của
dân tộc, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nếu chỉ bảo tồn mà
khơng đưa ra sử dụng thì khơng phát huy được giá trị ẩn chứa trong di sản.
Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH là phương thức có hiệu quả nhất để
giữ gìn những giá trị di sản văn hóa. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, vấn
đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa được coi là hoạt động khoa học, đòi hỏi


15
những kiến thức chuyên sâu, sự phối hợp liên ngành và phải tuân thủ những
nguyên tắc cao nhất của bảo tồn là giữ được tính nguyên gốc của di sản gắn
với điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội, cụ thể của từng thời kỳ. Do vậy, khi giải
quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa cần có
sự hiểu biết đầy đủ về nội dung chứa đựng trong di sản cũng như các thuộc

tính của di sản văn hóa đó. Đồng thời, đánh giá toàn diện, nhận diện đâu là
yếu tố gốc, yếu tố nội sinh, đâu là yếu tố ngoại sinh, yếu tố kế thừa để từ đó
có hình thức bảo tồn cho phù hợp. Mặt khác, cần nâng cao nhận thức coi di
sản văn hóa khơng những là cội rễ của bản sắc văn hóa mà việc bảo tồn và
phát huy nó là giải pháp để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc,
đối thoại với các nền văn hóa khác trong q trình tồn cầu hóa đang diễn ra
hết sức mạnh mẽ hiện nay.
Trong q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay,
cũng như nhiều nước khác, Việt Nam đang phải xử lý mối quan hệ giữa bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trước sự tác động mạnh mẽ
của văn hóa bên ngồi như: xác định di sản văn hóa như là tài sản văn hóa;
khai thác và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trên cơ sở gắn với đời
sống hiện đại; Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đi liền với
mở rộng giao lưu văn hóa với thế giới. Do vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối và
chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa, nhằm nâng cao đời sống vật chất
tinh thần nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII đã chỉ rõ: Di sản
văn hóa là tài sản vơ giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân
tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng


16
bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân
gian) văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể… [22,
tr.44]. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó đang đi vào cuộc sống và tạo
nên một diện mạo mới cho hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa

trên khắp cả nước, trong đó có huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
1.2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI CỦA
HUYỆN KIM ĐỘNG, TỈNH HƯNG YÊN

1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Kim Động có tổng diện tích tự nhiên là 11.466 ha; trong đó đất nơng
nghiệp chiếm 7.405 ha. Huyện thuộc vùng đồng bằng châu thổ sơng Hồng,
địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc khơng lớn (khoảng 1,6m - 3m), diện
tích ở độ dốc cao trên 3 m chỉ chiếm 12,7%. Đất Kim Động được phân chia tự
nhiên thành 2 vùng rõ rệt:
Vùng đất trong đê, rất thích hợp cho trồng lúa và trồng màu vụ ba, diện
tích tự nhiên khoảng 6.676 ha, trong đó, diện tích cấy lúa 4.800 ha. Đây là
vùng trọng điểm của huyện, quyết định đến tổng sản lượng lương thực hàng
năm, là vùng sản xuất lúa chất lượng cao, góp phần khơng nhỏ đến chỉ tiêu
xuất khẩu lương thực của quốc gia.
Vùng đất ngồi đê có diện tích tự nhiên khoảng 4.790 ha gồm một số
thơn thuộc các xã Ngọc Thanh, Hùng An, Đức Hợp, Mai Động, Phú Thịnh,
Thọ Vinh và hai xã Phú Cường, Hùng Cường. Địa hình vùng này phức tạp
hơn, ảnh hưởng đến khả năng khai thác. Toàn vùng chưa xây dựng được hệ
thống thủy lợi tưới tiêu cho hoa mầu nên sản xuất phải phụ thuộc vào thiên
nhiên. Người nông dân phải vất vả, cực nhọc để hạn chế và khắc phục hậu
quả của hạn hán và lũ lụt. Nhóm đất ngồi đê có diện tích canh tác trên 2.600
ha hàng năm được phù sa sông Hồng bồi đắp. Đây là vùng đất bãi trồng mầu
lý tưởng cho các cây như mía, ngơ, đậu đỗ các loại… Do cây màu phát triển
nên tạo nguồn thức ăn phong phú cho phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm.


17
Kim Động mang đặc điểm khí hậu của đồng bằng sơng Hồng là nhiệt
đới gió mùa, mùa đơng lạnh hơn so với điều kiện trung bình cùng vĩ tuyến.

Thời kỳ đầu mùa đơng khí hậu tương đối khơ, nửa cuối mùa đơng khí hậu ẩm
ướt. Mùa hạ nóng ẩm, nhiều mưa, khí hậu biến động mạnh. Nhiệt độ trung
bình hàng năm là 23,20C. Mùa hè nhiệt độ trung bình 30-32 0C, cao nhất là
tháng 6, tháng 7 nhiệt độ có khi lên tới 38 0C. Mùa đông nhiệt độ trung bình từ
17-220C. Thấp nhất là từ tháng Giêng, tháng Hai nhiệt độ chỉ có khoảng 8100C. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm 1.700mm. Mưa tập trung từ
tháng 5 đến tháng 9. Mưa lớn xảy ra trùng với kỳ nước lũ sông Hồng lên cao,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ đê điều. Tuy vậy, nguồn nước sông Hồng
vẫn là nguồn nước phù sa chủ yếu bồi đắp và tưới cho đồng ruộng Kim Động.
Nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt của Kim Động lấy từ nguồn
nước mặt và nguồn nước ngầm. Nước mặt lấy từ các sông như sông Hồng,
sông Cửu An, sông Kim Ngưu, sông Điện Biên và sông Tân Hưng. Sông
Hồng là nguồn nước lớn nhất chảy qua địa phận Kim Động mang phù sa
bồi đắp cho cả vùng ngồi đê. Sơng Cửu An chảy từ huyện Khoái Châu
xuống cầu Ngàng (Thị trấn Lương Bằng) nối với sơng Điện Biên và sơng
Tân Hưng. Đó là nguồn nước đảm bảo tưới tiêu cho hàng nghìn ha gieo cấy
lúa. Nguồn nước ngầm ở Kim Động khá dồi dào, mùa khô, nước ngầm ở độ
sâu 6-8m, mùa mưa, nước ngầm chỉ ở độ sâu 2-3m. Những điều kiện tự
nhiên về đất đai, khí hậu thủy văn, nguồn nước kể trên đã tạo nhiều thuận
lợi cho Kim Động phát triển nơng nghiệp một cách tồn diện, đa dạng,
phong phú về cây con. Hàng năm Kim Động đảm bảo an tồn lương thực
và có thóc chất lượng cao để xuất khẩu. Sản phẩm ngô, lạc, đậu đỗ là
nguồn nguyên liệu phong phú cho công nghiệp chế biến và sản xuất thức ăn
chăn nuôi. Giao thông thủy, bộ thuận lợi, đảm bảo tối ưu vận chuyển hàng
hóa đi về. Huyện Kim Động là vùng có nhiều thuận lợi trong sản xuất và
giàu tiềm năng để phát triển kinh tế.


18
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Kim Động là một huyện thuần nơng có tốc độ tăng trưởng kinh tế trung

bình năm đạt 6,3% (năm 2012), cơ cấu kinh tế: nông nghiệp - công nghiệp
xây dựng - dịch vụ thương mại là 31% - 35% - 34%. Thu nhập bình quân đầu
người 23,2 triệu đồng. Tổng thu ngân sách trong toàn huyện đạt 54,8 tỷ/năm.
Dân số ở huyện Kim Động tính đến tháng 12/2012 có 122.935 nhân
khẩu, trong đó nữ có 60.173 nhân khẩu, số trong độ tuổi lao động là 66.160
nhân khẩu (nguồn: phòng Thống kê huyện Kim Động) [64, tr.3].
- Về giáo dục, y tế: Mục tiêu cho sự nghiệp giáo dục của huyện là giữ
vững kết quả giáo dục phổ cập Tiểu học, Trung học cơ sở, tiếp tục nâng cao
chất lượng giáo dục mũi nhọn và đại trà. Từ năm 2010 đến 2012 có 169 học
sinh các lớp 5,9,12 đạt học sinh giỏi cấp tỉnh, 332 học sinh đạt giải cấp huyện.
Cơ sở giáo dục ngày càng được quan tâm: từ năm 2010 đến 2012 đã xây dựng
được 224 phòng học kiên cố cao tầng. Số trường tiên tiến xuất sắc tăng lên
không ngừng. Đến nay tồn huyện tồn huyện có 25 trường được cơng nhận
trường chuẩn quốc gia đạt 43%. Song song với phát triển giáo dục là y tế.
Trung tâm y tế huyện có 90 giường bệnh với đội ngũ 105 cán bộ cơng nhân
viên với 29 bác sỹ, trong đó có 8 bác sỹ chuyên khoa cấp I, 5 bác sỹ được
phong danh hiệu thày thuốc ưu tú, 100% trạm y tế xã trong huyện có bác sỹ,
tất cả các thơn đều có cán bộ y tế. Năm 2006, huyện Kim Động là huyện đầu
tiên của tỉnh Hưng Yên có 100% số xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Các chương trình dân số và trẻ em đều được triển khai một cách có hiệu quả
trên địa bàn huyện. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên chỉ còn 0,85%, tỷ lệ sinh con
thứ 3 hàng năm ở mức dưới 10%.
- Về an ninh quốc phòng: Huyện đã tổ chức thực hiện tốt phong trào
quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, tăng cường các biện pháp phịng ngừa và
tấn cơng tội phạm. Tình hình an ninh trật tự ngày càng ổn định. Huyện có quy
hoạch biện pháp khả thi để tiếp nhận quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự


19
trở về địa phương, hàng năm Kim Động đều là huyện hoàn thành tốt việc

tuyển chọn và gọi thanh niên nhập ngũ.
Trong thời gian qua, tình hình kinh tế xã hội huyện Kim Động đã có
những chuyển biến rõ rệt, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng
nâng cao. Hệ thống chính trị được quan tâm củng cố, đội ngũ cán bộ ngày
càng trưởng thành, từng bước đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn cách mạng
mới. Với thành tích đã đạt được trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân Kim
Động đã được Đảng và Nhà nước tặng những phần thưởng cao quý như: Năm
1998 huyện Kim Động vinh dự được đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân (theo quyết định số 424/KT-CTN ngày 22/8/1998), năm 2005
huyện được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba.
1.2.3. Những hoạt động văn hố
Từ nhận thức văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Những năm qua, huyện Kim Động đã tập
trung chỉ đạo, tổ chức triển có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hố.
Đến nay, tồn huyện đã có 83/93 làng được cơng nhận danh hiệu làng văn
hóa, đạt tỷ lệ 89%. Trong đó, có 12 xã, thị trấn đạt 100% làng văn hóa, tiêu
biểu như: Vĩnh Xá, Lương Bằng, Ngọc Thanh, Hùng An, Phú Thịnh, Hiệp
Cường... có 92,5% số gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa [2, tr.6].
Về xây dựng đời sống văn hoá tinh thần: Cùng với việc thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế, nhiệm vụ xây dựng nâng cao đời sống văn hoá tinh thần
của nhân dân nói chung ở các làng văn hố nói riêng đã được các cấp uỷ
đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực
hiện có hiệu quả. Phong trào văn hố văn nghệ, thể dục thể thao đã phát triển
rộng khắp thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đến nay, tồn
huyện có 90 câu lạc bộ, đội văn nghệ, chiếu chèo; có 115 câu lạc bộ Thể thao; 4
câu lạc bộ gia đình văn hố; 7 câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững [2, tr.7].


20

Về hoạt động văn học nghệ thuật: Đội ngũ sáng tác nghiệp dư đã cho ra
đời nhiều tác phẩm thơ, ca có giá trị nghệ thuật cao, có tác dụng giáo dục con
người mới, ca ngợi sự đổi thay của quê hương, đất nước, cổ vũ và phát huy
các giá trị văn hoá truyền thống của cộng đồng. Nhiều bài hát ca ngợi quê
hương Kim Động với những ca từ mượt mà, trữ tình, đi sâu vào lịng người, tiêu
biểu như: Kim Động quê ta, đường về Kim Động, Kim Động trên đường đổi
mới. Đặc biệt, trong 2 năm ( 2008- 2009), huyện Kim Động đã xuất bản 2 cuốn
sách “Kim Động xưa và nay ”, “Kim Động vùng văn hố dân gian đặc sắc”.
Về xây dựng cảnh quan, mơi trường và các thiết chế văn hoá: Những năm
qua, các xã, thị trấn trong huyện đã huy động được sức mạnh to lớn của nhân dân
trong việc xây dựng điện, đường, trường, trạm, thực hiện có hiệu quả phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm’’. Ngồi nguồn kinh phí đầu tư từ ngân
sách của Nhà nước, nhân dân các địa phương trong huyện đã đóng góp hàng chục
tỷ đồng để xây dựng các thiết chế văn hoá làng, làm cho cảnh quan mơi trường
thơn xóm ngày càng xanh, sạch, đẹp.
Mục tiêu của huyện từ nay đến năm 2015: Tập trung phát triển sự
nghiệp văn hóa và thơng tin vững mạnh, làm nền tảng và động lực cho sự phát
triển kinh tế -xã hội. Tranh thủ mọi nguồn lực để xây dựng các thiết chế văn
hóa; đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác văn
hóa thơng tin. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng
đời sống văn hóa”, phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, tạo
mơi trường văn hóa lành mạnh, làm cho văn hố thấm sâu vào trong mỗi gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư. Thực hiện có hiệu quả cơng tác bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH gắn với phát triển du lịch, nhằm thúc đẩy kinh tế xã
hội của huyện phát triển bền vững.
Những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa trình bày trên đây
tạo nên môi trường chung tác động đến hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa của huyện Kim Động trong giai đoạn hiện nay.



21
1.3. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG DI SẢN VĂN HÓA Ở
HUYỆN KIM ĐỘNG, TỈNH HƯNG YÊN

Là huyện nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông Hồng, Kim Động
mang trong mình bề dày và truyền thống của một vùng văn minh lúa nước với
đời sống sinh hoạt tinh thần phong phú. Người dân Kim Động với bản tính
năng động cởi mở và giao lưu văn hóa đã tạo cho vùng đất này một kho tàng
di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng độc đáo và đa dạng.
Trải qua sự tàn phá khốc liệt của thời gian, thiên tai, địch họa, dù bị mất
mát nhiều, nhưng đến nay, huyện Kim Động vẫn cịn 164 di tích lịch sử văn
hóa, trong đó có 24 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 19 di tích cấp tỉnh.
Ngồi ra, cịn có gần 60 lễ hội được tổ chức hàng năm, trong đó, có 3 lễ hội
tín ngưỡng, cịn lại là lễ hội dân gian.
Với nguồn “tài sản văn hóa” q báu mà cha ơng để lại, Kim Động
hiện là huyện có số lượng di sản văn hóa nhiều nhất tỉnh. Người dân Kim
Động luôn coi đây là tài sản quý giá mà các thế hệ cha ông đã dày cơng xây
dựng, giữ gìn và trao truyền lại cho thế hệ hôm nay và mai sau. Do vậy, cùng
với niềm tự hào về kho tàng di sản văn hóa đó, người dân Kim Động ln nêu
cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn, phát huy và khai thác các giá trị di
sản văn hóa, coi đây là nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế
- văn hóa của địa phương.
1.3.1. Di sản văn hóa vật thể
Hệ thống di tích văn hóa vật thể ở Kim Động tập trung chủ yếu ở loại
hình di tích lịch sử - văn hóa. Nhiều di tích có giá trị mang kiến trúc độc đáo
như: Đình Duyên Yên (thuộc xã Ngọc Thanh); Miếu Mái và chùa Dưỡng Phú
(thuộc xã Chính Nghĩa); chùa Phương Tòng (xã Hùng An), chùa Nho Lâm (xã
Mai Động), chùa Tiên Tường (xã Hiệp Cường), đình Thổ Cầu (thuộc xã Nghĩa
Dân)… Tồn huyện hiện có 164 di tích lịch sử trong đó có 60 đình; 27 đền, lăng,
miếu; 68 chùa; 09 nhà thờ ( Phụ lục 1). Hệ thống di tích ở Kim Động vừa phân



22
bố ở tất cả 19 xã, thị trấn trong huyện, vừa tập trung vào một số địa phương có
truyền thống về văn hóa như: xã Vĩnh Xá, Vũ Xá, Chính Nghĩa; Hiệp Cường,
Ngọc Thanh, Hùng An, Đồng Thanh, Phú Cường, thị trấn Lương Bằng.
Đặc biệt, một số xã có nhiều di tích được xếp hạng như xã Vĩnh Xá có
02 di tích cấp quốc gia và 3 di tích cấp tỉnh; xã Hiệp Cường có 02 di tích cấp
quốc gia, 03 di tích cấp tỉnh; xã Hùng An có 4 di tích cấp quốc gia, xã Thọ
Vinh có 03 di tích cấp quốc gia…Mỗi di tích có một sự tích, giá trị lịch sử
khác nhau về sự hình thành, nhân vật được thờ phụng đã tạo nên những nét
văn hoá, thẩm mỹ rất riêng biệt cho mảnh đất Kim Động anh hùng và có tính
giáo dục cao. Nghiên cứu kiến trúc nghệ thuật của từng thời kỳ có những dấu
ấn riêng mà dù qua những biến động thiên tai, địch họa những dấu ấn đó rất
khó mất đi. Du khách đến với các di tích trên địa bàn có thể cảm nhận được
những giá trị về mặt thẩm mỹ thông qua nghệ thuật kiến trúc truyền thống của
người Việt được thể hiện qua kiến trúc của hệ thống di tích như kiến trúc thời
thời Lê - Mạc tại đình Duyên Yên xã Ngọc Thanh, đình Mai Viên xã Song
Mai, đình Thọ Nham Hạ xã Thọ Vinh, đình Đồng Hạ xã Đức Hợp, đình và
chùa Đống Long xã Hùng An... thời Nguyễn tại đình Đồng Lý thị trấn Lương
Bằng,đình Thổ Cầu xã Nghĩa Dân, chùa Thọ Quang xã Thọ Vinh, chùa Trà
Lâm xã Hiệp Cường, đình Mai Xá xã Song Mai, đình Thanh Cù xã Ngọc
Thanh... Trong khơng gian thẩm mỹ, có thể nhận thấy một hợp thể hài hồ
tuyệt vời giữa cảnh trí thiên nhiên và hình khối kiến trúc cùng các mảng chạm
khắc tinh xảo. Mỗi ngôi đền, ngôi đình, ngơi chùa là một bảo tàng sống động
với rất nhiều cổ vật quý hiếm, mà mỗi cổ vật lại là một tác phẩm nghệ thuật
hoàn chỉnh. Điều đặc sắc là các kiến trúc tơn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn
huyện mang tính dân gian rõ nét, khẳng định những thành tựu truyền thống cổ
xưa và tài năng sáng tạo của các nghệ nhân qua các thời kỳ lịch sử. Họ sáng
tạo theo nguyên tắc tự làm lấy, với lòng thành kính sâu sắc thơi thúc lịng

thiện để tạo nên nhiều tác phẩm hồn chỉnh để lại cho đời. Chính bằng con


23
đường hình thành, sáng tạo như vậy mà ngày nay có kiến trúc tơn giáo đã trở
thành bộ phận quan trọng góp phần làm phong phú di sản văn hố dân tộc.
Các di tích lịch sử - văn hố (DTLS - VH) trên địa bàn huyện đều chứa
đựng những giá trị văn hoá, thẩm mỹ sâu sắc mà nhân dân các xã, thị trấn đã
và đang trân trọng giữ gìn để góp phần làm giầu di sản văn hố dân tộc, đồng
thời cũng là để du khách trong và ngoài tỉnh tham quan, tìm hiểu về quê
hương Kim Động anh hùng.
Thứ nhất, về đình: Là loại di tích có số lượng lớn, trong tổng số 164 di
tích của tồn huyện thì số lượng đình có tới 60 di tích, chiếm tỷ lệ 36,5 %.
Thông qua thần phả, sắc phong hiện còn lưu giữ được cho thấy các vị thần
được thờ trong các ngơi đình rất đa dạng. Có nhiều ngơi đình thờ các vị là
thiên thần, có cơng bảo vệ vùng đất nơi đây. Một số ngơi đình thờ những nhân
thần có cơng chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước như: đình Thổ Cầu xã
Nghĩa Dân, đình An Xá xã Tồn Thắng, đình Bồng Châu xã Phú Cường, đình
Ngơ Xá xã Vĩnh Xá….Ngồi nam thần có cả nữ thần được thờ như: đình
Hồng Xá, xã Hùng Cường, thờ Quốc mẫu Âu Cơ, đình Phú Khê xã Thọ Vinh
thờ Kha nương cơng chúa, tấm gương anh hùng khí tiết thời Hai Bà Trưng
khởi nghĩa.
Kết cấu kiến trúc của các ngôi đình trên địa bàn huyện tập trung ở ba loại
bố cục chính, đó là bố cục mặt bằng kiểu chữ Cơng, kiểu chữ Nhị, kiểu chữ Đinh.
Các ngơi đình trên địa bàn phần lớn được xây dựng từ thế kỷ XVII về
sau, trong đó có một số ngơi đình cịn giữ được kiến trúc khá nguyên vẹn kể
từ khi mới khởi dựng, điển hình như một số ngơi đình:
Đình Dun Yên thuộc thôn Duyên Yên, xã Ngọc Thanh, nằm ven sơng
Hồng, di tích được xây dựng năm 1786. Đình thờ tứ vị đại vương (An Sinh
vương Trần Liễu, Thiên Bồng phong lôi đại vương, Thiên Trung Quảng tế đại

vương và Quốc Vương Đương Vực đại vương) có cơng lập ấp, bảo vệ mùa
màng cho dân. Đình Duyên Yên kiến trúc chữ Nhị, gồm toà đại bái và hậu


24
cung. Tịa đại bái có 5 cửa gỗ lim, chạm tứ linh, tứ quý. Gian giữa treo bức
đại tự “Thiện tục khả phong” (phong tục tập quán tốt đẹp). Đỡ mái là hệ
thống kiến trúc đồ sộ với 6 bộ vì. Hệ thống chịu lực chính là 12 cột cái và 12
cột quân đều được làm bằng gỗ lim. Trên các đầu dư, con rường đều được
chạm khắc con giống, hình rồng và các hoa văn đao guột tạo cho di tích thêm
phần uy linh. Hai dĩ đình Dun n có kiến trúc độc đáo, được tạo bởi 6 bộ
vì cánh, trên các con rường trang trí hoa văn hình đao guột và chữ thọ. Toà
hậu cung gồm 3 gian, kiến trúc tường hồi bít đốc, bộ vì theo kiểu giá chiêng,
chất liệu gỗ lim đồng bộ với kiến trúc tồ đại bái, mái lợp ngói mũi. Gian giữa
hậu cung là ban thờ lớn, hai bên là đôi hạc gỗ đứng trên mình rùa và bộ bát
bửu sơn son thếp vàng, mỗi bên 8 cây, chạm khắc đầu rồng sinh động.
Đình Đống Long xã Hùng An là một trong số đình làng có kiến trúc bề
thế, hồnh tráng và cổ kính trong huyện. Đình được xây dựng vào thời Hậu
Lê, niên hiệu Chính Hồ thứ 15 (Giáp Tuất 1694), toạ lạc trên khu đất 2000m 2
Đình xây dựng theo chữ Đinh có Hậu cung, tồ Tiền Tế 5 gian và 2 dĩ, mái
lợp ngói mũi phẳng, hai đầu hồi có hai đầu kìm đắp nổi rất sinh động. Từ hai
đầu hồi xuôi xuống phần gấp khúc của mái các nghệ nhân tài hoa đã khéo đáp
bốn hình đao mềm mại trên guột lá cách điệu. Nghệ thuật chạm khắc của ngơi
đình mang đậm nét tinh tế: Xà đều có soi gờ chỉ, chạm nổi cách điệu mơ
phỏng theo các tích truyện cổ. Gian giữa có 8 bức cuốn, 2 bức đại tự đều được
chạm khắc tỷ mỷ. Đình Đống Long thờ tướng quân Triệu Quang Phục và 5 vị
Thành hoàng có tên là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy
và Trương Thị Kim Dung, những tướng tài đã lập nhiều chiến công lừng lẫy
dưới cờ khởi nghĩa của Triệu Quang Phục. Tại Đình Đống Long hiện cịn lưu
giữ được nhiều cổ vật có giá trị như: 1 ngai thờ và 1 cỗ kiệu bát cống thời

Nguyễn; 3 bát hương thời Lê; 1 bức đại tự và 2 bộ cửa võng. Đặc biệt, giá trị
là một hòm sắt đặt trên giá trúc, trong hòm lưu giữ 12 sắc phong của các triều
vua: Đồng Khánh, Thành Thái, Tự Đức, Khải Định.


25
Đình Thổ Cầu, xã Nghĩa Dân được kiến trúc kiểu chữ Nhị, đình được
xây dựng từ thời Hậu Lê và được trùng tu lại ở thời Nguyễn. Đình thờ Thành
hồng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng kiệt xuất của dân
tộc ta trong cuộc chiến chống đội quân xâm lược Ngun Mơng thế kỷ XIII.
Theo thần tích, trong cuộc kháng chiến thần thánh đó, Trần Hưng Đạo đã có
lần dừng chân ở đất Thổ Cầu để bổ sung thêm quân và lương thực. Nhân dân
Thổ Cầu vô cùng tự hào về sự kiện này nên đã xin sắc phong để được thờ
ơng, suy tơn ơng làm Thành hồng làng. Hàng năm, nhân dân mở hội từ ngày
18 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch để tôn vinh công đức của Trần Hưng Đạo.
Ngày 16 tháng 9 năm 1961, thơn Thổ Cầu xã Nghĩa Dân vinh dự được
đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm, đình Thổ Cầu được chọn là nơi nhân dân
xã Nghĩa Dân đến tập trung để đón và nghe Bác nói chuyện.
Đình Thổ Cầu hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: Kiệu bát
cống, kiệu long đình, ngai thờ, bài vị, bát hương, đỉnh trầm, lọ hoa, đèn cây
và bức đại tự dài 1,8 mét, rộng 1,1 mét sơn son thiếp vàng. Hiện vật lịch sử
đáng giá được trưng bầy trong đình là những tư liệu gốc ghi lại dịp Bác Hồ và
các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chính phủ về thăm gồm: Tranh, ảnh, sơ
đồ, bút tích, văn kiện.
Thứ hai là đền, lăng, miếu: Cũng là một loại hình di tích chiếm số
lượng khá lớn trong số di tích của huyện Kim Động, với 27 di tích, chiếm
16,4 %. Theo truyền thống thì đền, lăng, miếu được xây dựng để thờ thần,
thánh, những người có cơng với nước, với dân làng địa phương. Những vị thần
được thờ trong các ngôi đền, lăng, miếu ở Kim Động, ngồi những vị có nguồn
gốc từ thiên nhiên, thần thoại, phần lớn các ngôi đền, lăng, miếu thờ các vị nhân

thần như: đền và lăng Vũ Tiên Công xã Hiệp Cường, đền Đào Xá xã Vĩnh Xá,
đền Thọ Quang xã Thọ Vinh, miếu Dưỡng Phú xã Chính Nghĩa…
Thứ ba là chùa: loại di tích có số lượng lớn nhất, với tổng số 68 chùa
chiếm tỷ lệ 41,4 % so với tổng số di tích của toàn huyện. Theo truyền thống


×