Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá huyện vĩnh lộc, tỉnh thanh hoá hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.68 KB, 136 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào, di sản văn hố bao giờ cũng
là tài sản vơ giá. Di sản văn hoá là sự kết tinh, hội tụ những sáng tạo có giá trị
đặc sắc trong tiến trình lịch sử của một dân tộc.
Bảo tồn di sản văn hố có tác động to lớn đến việc hình thành nhân
cách con người, tạo động lực cho sự phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, việc
giải quyết thật thoả đáng mối quan hệ giữa kinh tế và văn hố nói chung, giữa
bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hố nói riêng là vấn đề mang tính
tồn cầu, được quan tâm ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước
đang phát triển và hội nhập như Việt Nam. Văn hoá phải được nhận thức là bộ
phận hữu cơ trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.
Di sản văn hố Việt Nam là tài sản vơ giá, do các thế hệ người Việt
Nam chung đúc nên trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đảng ta
khẳng định “Di sản văn hố là tài sản vơ giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt
lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn
hoá” [36, tr.63]. Nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá đối với sự
nghiệp đổi mới, phát triển, một trong những định hướng quan trọng của Đảng
là phải phát huy mọi nguồn lực để đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu, chậm phát triển, tiến hành CNH, HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật và cơ cấu kinh tế cho chủ nghĩa xã hội. Văn hoá phải trở thành
một trong những nguồn nội lực quan trọng góp phần xây dựng đất nước, nhất
là khi nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế, những tác động mạnh mẽ về mặt trái của tồn cầu hố, của phát triển
kinh tế thị trường và sự biến đổi khí hậu ngày càng diễn ra gay gắt đã và đang
đặt di sản văn hoá nước ta vào nguy cơ bị mai một và biến dạng. Để di sản


2


văn hoá dân tộc tiếp tục toả sáng trong quá trình đất nước ta giao lưu và hội
nhập Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI tiếp tục nhấn mạnh
vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá dân tộc trong sự nghiệp phát
triển văn hố, nền tảng tinh thần của xã hội:
Hồn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về
sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn
hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát
triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng
các giá trị văn hố trong cơng chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người
nước ngoài. Xây dựng, thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá
trị văn hố, ngơn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số [39, tr.225].
Vấn đề bảo tồn, phát huy di sản văn hố dân tộc hiện nay có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng nhằm giữ gìn và phát triển nền văn hố dân tộc, tạo cơ sở để
nước ta hồ nhập với tiến trình giao lưu, hội nhập quốc tế về mọi mặt mà
khơng bị hồ tan, khơng tự tha hố mình. Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn
hố (DSVH) dân tộc khơng chỉ là nhiệm vụ của riêng những người làm cơng
tác văn hố, mà là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước, của toàn xã hội, là
trách nhiệm của mỗi người con đối với với dân tộc.
Vĩnh Lộc là vùng đất cổ, thời tiền sử nơi đây đã sớm có người tụ cư
sinh sống. Thời đồ đá mới, với di chỉ khảo cổ học Đa Bút (xã Vĩnh Tân), di
chỉ Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh) và di chỉ Mũi Ốc làng Còng (xã Vĩnh Hưng) đã
minh chứng bề dày về lịch sử - văn hoá của vùng đất này.
Thời phong kiến vùng đất “Địa linh - Nhân kiệt” này từng là kinh đô
của nước Đại Ngu dưới vương triều Hồ (1400 - 1407). Trong cuộc kháng
chiến chống kẻ thù xâm lược Phương Bắc, vùng đất này đã sản sinh ra nhiều
tướng lĩnh tài ba cứu dân, cứu nước như: Long Hổ Vệ Lưỡng Thượng tướng
quân Trần Khát Chân dưới triều Hồ có cơng dẹp giặc Chế Bồng cuối thế kỷ



3
XIV, Thái uý Trịnh Khả (quê làng Kim Bôi xã Vĩnh Hoà) một trong 18 tướng
lĩnh trong hội thề “Lũng Nhai” cùng Lê Lợi thề giết giặc Minh, dũng tướng
Võ Uy…, hưởng ứng Chiếu cần vương chống Pháp có cuộc khởi nghĩa Hùng
Lĩnh do Tiến sỹ Tống Duy Tân người làng Bồng Trung xã Vĩnh Tân là thủ
lĩnh... Vùng đất Vĩnh Lộc cịn là nơi phát tích của 12 đời chúa Trịnh nối nhau
giúp vua điều hành đất nước. Trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp
và chống đế quốc Mỹ, vùng đất này đã có rất nhiều người trở thành anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân như Anh hùng Vũ Ngọc Đỉnh (quê xã Vĩnh Yên),
anh hùng Lê Hữu Hãnh, Mai Xuân Điểm (quê Xã Vĩnh Tân)… Truyền thống
ấy đã tạo nên khí phách anh hùng cách mạng cho lớp lớp người con của quê
hương Vĩnh Lộc .
Thiên nhiên cũng ưu ái ban tặng cho Vĩnh Lộc nhiều danh lam, thắng
cảnh đẹp. Có thể nói rằng, mỗi tên đất, tên làng, ngọn núi, dịng sơng nơi đây
đều thấm đẫm truyền thống lịch sử, văn hoá và huyền thoại. Theo báo cáo
kiểm kê di tích, danh thắng chưa xếp hạng năm 2011, Ban quản lý di tích
danh thắng Thanh Hoá đã đánh giá: “Vĩnh Lộc là một vùng đất hẹp, nhưng
thật lý tưởng với người Việt tiền sử - hội tụ đầy đủ núi đồi, đồng nương, sơng
ngịi, để có thể săn bắt hái lượm, trồng trọt và chăn ni gia súc. Đó cũng là
điều kiện để nghề nông ở đây ra đời sớm mà những chiếc răng bị nhà và lưỡi
cày bằng đồng tìm thấy ở di chỉ Phụng Cơng cho ta thấy điều đó”. Chính vì
vậy, Vĩnh Lộc là vùng đất chứa đựng nhiều giá trị di sản văn hoá đầy sức sống
và tiêu biểu cho bức tranh văn hoá của đất nước.
Với gần 300 di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, trong đó có 13 di tích
cấp Quốc gia, 46 di tích cấp tỉnh, 07 cây di sản các loại, 01 di tích được
UNESCO cơng nhận là di sản văn hố Thế giới, 01 di chỉ khảo cổ học dẫu bị
mai một, biến dạng ít nhiều bởi thời gian, thiên tai, địch hoạ nhưng hệ thống
di sản văn hoá trên địa bàn Huyện vẫn hội tụ đủ các loại hình: di tích lịch sử văn hoá, danh lam - thắng cảnh, di tích lịch sử cách mạng, kiến trúc nghệ



4
thuật…. Mỗi di tích, mỗi địa danh đều gắn với những huyền thoại, những dấu
ấn, những truyền thuyết lịch sử hay những nhân vật tên tuổi trong sử sách, cùng
với những làn điệu “Chèo chải” trong các lễ hội truyền thống tôn vinh nhân vật
lịch sử, tất cả đã tạo nên một khơng gian văn hố của vùng q giàu truyền thống
yêu nước và cách mạng này. Đó là những giá trị q giá của cha ơng để lại có tác
dụng bồi đắp, giáo dục tâm hồn và cốt cách, tình yêu thiên nhiên, quê hương đất
nước cho lớp lớp những người con của Vĩnh Lộc qua nhiều thế hệ.
Ngày 26 tháng 8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê
duyệt nhiệm vụ Quy hoạch tổng thể bảo tồn, phát huy giá trị di tích Thành
Nhà Hồ và vùng phụ cận gắn với phát triển du lịch, quy mô lập quy hoạch
khoảng 50.978 ha. Mục tiêu của Quy hoạch là nhằm bảo tồn, tơn tạo di tích
văn hố đặc biệt này trong hệ thống di sản văn hoá dân tộc và nhân loại, xây
dựng sản phẩm du lịch văn hoá -lịch sử đặc biệt của khu vực Bắc Trung Bộ.
Đây là cơ sở quan trọng, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế-xã hội của
huyện Vĩnh Lộc và tỉnh Thanh Hố.
Để kết hợp hài hồ giữa phát triển kinh tế và mục tiêu phát triển văn
hoá, đảm bảo tính bền vững trong q trình phát triển, cần phải nghiên cứu vấn
đề bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá trên địa bàn Huyện một cách hệ
thống, là yêu cầu cấp thiết. Là người con của q hương với mong muốn góp
phần vào việc giữ gìn, phát huy giá trị di sản trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc, Tác
giả chọn đề tài: “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh Hoá hiện nay” làm Luận văn tốt nghiệp hệ Cao học - chun ngành Văn
hố học tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Di sản văn hoá là tài sản quý giá của mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó, vấn
đề bảo tồn, phát huy giá trị DSVH trong thời đại ngày nay khơng cịn là vấn
đề của mỗi quốc gia, dân tộc mà nó đã trở thành vấn đề mang tính tồn cầu.
Trên thế giới, vào thời gian nửa sau thế kỷ XX, Tổ chức Văn hoá, Giáo



5
dục và Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã rất nỗ lực để nghiên cứu
đánh giá tiềm năng quá khứ của nhân loại, đặc biệt là về di sản văn hoá.
UNESCO chia di sản văn hoá thành hai loại: Di sản “Văn hoá vật thể” và di
sản “Văn hoá phi vật thể”; Lấy ngày 18/5 hàng năm là ngày Bảo tàng Thế
giới; nhiều tổ chức phi chính phủ về bảo vệ di sản văn hố (DSVH) mang tính
khu vực và quốc tế đã lần lượt ra đời để cùng nhau phối hợp bảo vệ DSVH
của nhân loại. Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng các bộ Luật về di sản văn
hố như: Trung Quốc, Nhật Bản, Mêhicơ, Ai Cập…nhằm tăng cường trách
nhiệm của Nhà nước và nhân dân trong việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hố dân tộc.
Ở nước ta, cơng trình đầu tiên nghiên cứu về DSVH là: Việt Nam văn
hoá sử cương của học giả Đào Duy Anh (1938) với quan điểm:
Ta muốn trở thành một nước cường thịnh về vật chất, về tinh thần
thì phải giữ văn hố cũ (di sản) làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn
hoá mới làm dụng nghĩa là phải khéo điều hoà tinh t giữa văn hố
phương Đơng với những điều sở trường về khoa học của văn hoá
phương Tây [1, tr.396].
Năm 1945, sau khi cách mạng tháng Tám thành công, khi nước nhà vừa
dành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46 về việc Bảo
tồn di sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1997, GS,TS. Hoàng Vinh xuất bản cuốn sách Một số vấn đề về
bảo tồn và phát triển di sản văn hoá dân tộc. Trên cơ sở những quan niệm
DSVH của quốc tế và Việt Nam tác giả đã đưa ra hệ thống lý luận về DSVH
dân tộc trên cơ sở đi sâu nghiên cứu vai trò, chức năng của di sản, phân loại
bước đầu, đánh giá thực trạng đối với di sản văn hố dân tộc. Qua đó, nêu lên
những tồn tại, ngun nhân đã và đang gây nên những tổn thất và hư hại đối
với vốn di sản văn hoá dân tộc trong thời gian qua. Đưa ra những giải pháp,
kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc phù hợp với tình



6
hình thực tiễn của đất nước.
Cuốn sách cịn giới thiệu một số kinh nghiệm của đất nước Nhật Bản
trong về vấn đề bảo tồn, phát triển di sản văn hoá.
Năm 2000, GS, VS. Hoàng Trinh xuất bản cuốn sách: Bản sắc dân tộc
và hiện đại hoá trong văn hoá, Nxb Chính trị Quốc gia - Hà Nội. Tác giả đi
sâu phân tích, đưa ra những quan niệm khoa học về bản sắc dân tộc và hiện
đại. Qua đó khẳng định: hiện đại hố chỉ có thể thành cơng nếu bản sắc dân
tộc được sử dụng như một động lực, bản sắc văn hoá dân tộc chỉ phát triển
được trong một đất nước hiện đại hoá. Bản sắc dân tộc và hiện đại hố là tiến
trình phát triển theo quy luật của văn hoá nước ta khi bước vào thế kỷ XXI.
Năm 2000, GS.TS. Lưu Trần Tiêu - Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hoá Việt Nam - Tạp chí văn hố nghệ thuật - Hà Nội, là tập hợp những
cơng trình nghiên cứu khoa học về văn hố và nghệ thuật của tác giả đã được
cơng bố trên sách báo, tạp chí trong và ngồi nước. Đặc biệt, tác giả trình bày
những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn đối với vấn đề bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hoá dân tộc.
Năm 2001, Luật di sản văn hoá được ban hành và được bổ sung, sửa
đổi năm 2009.
Năm 2009, trong Chiến lược phát triển văn hoá từ nay đến năm 2020, do
Thủ tướng phê duyệt, di sản văn hoá một lần nữa được tiếp tục khẳng định là
một trong tám lĩnh vực lớn trong quan niệm, phạm vi văn hoá được nêu lên từ
Nghị quyết Trung ương 5- khoá VIII. DSVH là lĩnh vực thứ hai được quan tâm
trong nội dung của Chiến lược phát triển văn hoá Việt Nam đến năm 2020.
Năm 2007, trong sách Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể, do Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch phát hành, GS,TS. Ngô Đức Thịnh đã bàn đến văn
hố phi vật thể và cơng tác bảo tồn và phát huy, khá hệ thống.
Năm 2003, trên Tạp chí cộng sản số 20, PGS,TS. Nguyễn Văn Huy đề

cập Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá các dân tộc hiện


7
nay. Bài Bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể ở nước ta hiện nay của PGS,TS.
Nguyễn Chí Bền trên Báo Văn hoá năm 2007 đã bàn sâu về cách thức bảo tồn
văn hoá phi vật thể nước ta hiện nay.
Năm 2005, Nxb Văn hố Thơng tin - Viện Văn hố đã phát hành Cơng
trình nghiên cứu Vai trị của văn hố trong CNH, HĐH nơng thơn vùng đồng
bằng sông Hồng do GS,TS. Lê Quý Đức chủ biên.
Trên các Tạp chí chun ngành: Di sản văn hố, Thế giới di sản, văn
hoá nghệ thuật… đã đăng tải nhiều bài nghiên cứu về bảo tồn phát huy giá trị
các di sản văn hố dân tộc. Nhìn chung, các bài viết đã đề cập đến nhiều
phương diện của vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá của Việt Nam.
Trước hết, đó là sự nhận thức lý luận về bảo tồn, phát huy di sản và bảo tồn,
phát huy di sản văn hố Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hoá. Các bài viết
cũng đã đề cập đến bài học của thế giới về lĩnh vực này. Nhiều bài viết nghiên
cứu việc bảo tồn, phát huy đối với những giá trị di sản văn hố cụ thể, tình
trạng xuống cấp của nhiều di sản văn hố, phát huy vai trị của di sản trong
phát triển kinh tế du lịch hiện nay.v.v…
Riêng về huyện Vĩnh Lộc, nhiều năm nay chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu về vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa bàn
Huyện. Trong lịch sử, có một số tác phẩm nghiên cứu như: Vĩnh Lộc huyện
chí của tác giả Lưu Cơng Đạo viết bằng chữ Hán, được dịch giả Nguyễn Văn
Hải - Phó trưởng Ban quản lý Di tích - Danh thắng Thanh Hoá dịch năm
2009. Trong cuốn sách tác giả mới ghi chép lại được những điều kiện tự
nhiên, nhân vật lịch sử, danh lam, thắng cảnh, đặc sản trên địa bàn huyện
Vĩnh Ninh (tên gọi của huyện Vĩnh Lộc lúc bấy giờ).
Năm 2004, cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc được phát hành.
Cuốn sách chủ yếu giới thiệu quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ

huyện Vĩnh Lộc, trong đó có một chương viết về vùng đất và con người Vĩnh
Lộc một cách khái lược.
Năm 2004, Ban Quản lý Di tích và Danh thắng phát hành cuốn sách


8
“Di tích và danh thắng Thanh Hố”. Cuốn sách giới thiệu một số Di tích,
danh thắng trên địa bàn tỉnh Thanh Hố trong đó có giới thiệu một số di tích,
danh thắng của huyện Vĩnh Lộc.
Năm 2009, Nxb Thanh Hố cho phát hành cuốn sách:“Chùa xứ
Thanh”. Cuốn sách giới thiệu về một số chùa tiêu biểu ở tỉnh Thanh Hoá
trong đó có một số chùa của huyện Vĩnh Lộc.
Một số cuốn lịch sử các xã, thị trấn trên địa bàn huyện cũng chỉ ghi
chép đánh giá về các di sản văn hoá của địa phương một cách đơn thuần.
Sự khảo sát trên đây cho thấy tình hình nghiên cứu liên qua đến đề tài:
thứ nhất là những định hướng của Đảng về bảo tồn, phát huy giá trị di sản
trong q trình phát triển; những thể chế và chính sách của nhà nước về công
tác bảo tồn phát huy di sản. Thứ hai, các cơng trình đã nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hố ở nước ta. Chưa có cơng
trình nào nghiên cứu vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hoá trên
địa bàn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá hiện nay. Tác giả luận văn sẽ kế
thừa những nghiên cứu trước làm cơ sở thực hiện đề tài, góp phần giữ gìn và
phát huy ngày càng hiệu quả các di sản văn hoá của quê hương.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và thực tế việc bảo tồn, phát
huy di sản văn hoá trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, luận văn đề
xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị di sản văn hoá của
Huyện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Góp phần hệ thống cơ sở lý luận về di sản văn hoá, vai trò của bảo
tồn, phát huy các giá trị di sản đối với phát triển kinh tế, xã hội và văn hố.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hoá trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc hiện nay qua đó chỉ ra những thành tựu, hạn


9
chế cần khắc phục.
- Đề xuất, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản, khai thác giá trị di sản vào việc
phát triển ngành kinh tế Du lịch trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn huyện Vĩnh Lộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các giá trị di sản văn
hoá vật thể và phi vật thể trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng công tác bảo
tồn, phát huy các giá trị di sản văn hoá trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh Hoá từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sơ phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, quan niệm của UNESCO và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà
nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố, di sản văn hố; về bảo tồn, trùng tu,
tơn tạo, phát huy giá trị di sản văn hoá đối với phát triển kinh tế, văn hoá xã
hội trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Văn hố học, Luận văn
cịn sử dụng hệ thống các phương pháp liên/đa ngành; phương pháp thu thập
tài liệu, phân tích-tổng hợp; phương pháp điền dã kết hợp phương pháp lịch

sử lơgíc, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu chuyên gia
(tranh thủ ý kiến chuyên gia), phỏng vấn nghệ nhân, nhà quản lý, người dân
để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài đã đặt ra.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên đánh giá, nghiên cứu một cách khoa
học thực trạng công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa bàn
huyệnVĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá từ năm 1998 đến nay.
Đề xuất phương hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm bảo tồn và


10
phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc gắn với phát triển
ngành kinh tế Du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của Huyện giai đoạn
2013 - 2015, định hướng đến năm 2020.
Kết quả của Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ
quản lý, phịng Văn hố và Thông tin huyện, các cơ quan liên quan trong việc
bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá gắn với phát triển du lịch.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn được triển khai làm 3 chương.
Chương 1: Lý luận chung về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá,
khái quát về huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
Chương 2: Thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa
bàn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3: Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả
bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc trong
thời gian tới.


11

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN
HOÁ, KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HOÁ
1.1. QUAN NIỆM VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HOÁ

1.1.1. Quan niệm về di sản văn hoá
- Khái niệm di sản văn hoá
Di sản văn hoá (DSVH) theo nghĩa Hán Việt là những tài sản văn hố
có giá trị của q khứ cịn tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai. Di
sản: di là để lại, còn lại, dịch chuyển, sản là tài sản, là những gì q giá, có
giá trị. Di sản với tư cách là khái niệm khoa học đã xuất hiện khá lâu trong
lịch sử.
- Quan niệm về DSVH của một số nước trên thế giới
Trên thế giới, thuật ngữ DSVH được hình thành từ cuộc cách mạng tư
sản Pháp (1789). Quá trình tịch thu tải sản của tầng lớp quý tộc, tăng lữ, nhà
thờ, giáo hội để tập trung tất cả lại thành tài sản quốc gia sau cách mạng Tư
sản Pháp đã dần hình thành quan niệm di sản. Để tránh sự thất thoát và phá
hoại loại tài sản này, nhà nước Pháp lúc bấy giờ đã tiến hành kiểm kê, mô tả
và sắp xếp, phân loại các cơng trình lịch sử để xác định thứ tự ưu tiên nhằm
khôi phục và bảo tồn di sản quốc gia. Di sản lúc đó được hiểu như “ý niệm về
một tài sản chung, tài sản của mọi công dân, chứ khơng phải của riêng một ai,
đó là ý niệm đã tạo thành cái ý thức về di sản quốc gia”.
Năm 1983, Hội nghị Di sản toàn quốc của Vương quốc Anh đã đưa ra
định nghĩa: “Di sản là những gì thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao
cho thế hệ hiện nay và những gì mà nhóm người quan trọng trong xã hội hiện
nay mong muốn chuyển giao cho thế hệ tương lai”.
Theo Công ước về bảo vệ Di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới do
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp quốc (gọi tắt là



12
UNESCO) thông qua tại kỳ họp thứ 17 (năm 1932, tại Pari) thì DSVH được
hiểu là:
Các di tích: Các cơng trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ có các yếu tố
hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các hang động với các nhóm hay yếu tố có
giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học.
Các quần thể: Các nhóm cơng trình đứng một mình hoặc quần tụ có giá
trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật, hoặc sự nhất thể hoá
của chúng vào cảnh quan.
Các thắng cảnh: Các cơng trình của con người hay cơng trình của con
người kết hợp với tự nhiên, cũng như các khu vực kể cả di chỉ khảo cổ học có
giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc
nhân chủng học.
Bước sang thập kỷ 70 của thế kỷ XX, UNESCO đã đưa ra quan điểm
phân chia khá rõ về DSVH và di sản thiên nhiên hay di sản tự nhiên. Trong
quan niệm về di sản, UNESCO đề cao giá trị của di sản trên các phương diện:
lịch sử, nghệ thuật, khoa học, thẩm mỹ, dân tộc học, nhân chủng học….
Đề tài di sản văn hoá ngày càng được quan tâm nghiên cứu nhiều.
Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều cơng trình nghiên cứu về
DSVH với những mục đích khác nhau, với nhiều cách phân loại khác nhau
phục vụ cho mục đích nghiên cứu, nhưng tất cả đều có quan niệm thống nhất
về DSVH, dù tồn tại dưới dạng vật chất hay tinh thần DSVH đều là thành quả
sáng tạo của nhân dân có giá trị to lớn trong đời sống xã hội, tạo nên sức sống
mãnh liệt của một dân tộc.
- Quan niệm về di sản văn hoá ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong việc tham gia
phê chuẩn Công ước về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể năm 2003 của
UNESCO, và là thành viên của Uỷ ban liên Chính phủ tham gia xây dựng
phương hướng hoạt động và các chính sách quốc tế có liên quan đến Cơng



13
ước. DSVH từ Nghị quyết Trung ương 5- khoá VIII được quan niệm là thành
tố cốt lõi của văn hoá, chuyển tải giá trị bản sắc văn hoá của một cộng đồng
xã hội. DSVH Việt Nam là tài sản văn hoá quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Vì vậy, bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH là hoạt động thiết thực nhằm hướng tới xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hố dân tộc, góp phần làm phong phú và
giữ gìn kho tàng văn hố nhân loại.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Di sản văn hoá là cái của thời trước để
lại”. Di sản văn hoá (DSVH) được hiểu là những gì do con người sáng tạo,
khám phá ra và đã bảo vệ được, giữ gìn được từ quá khứ còn tồn tại được
trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Hay nói cách khác, di sản văn hoá là tài
sản, báu vật của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau. DSVH bao gồm: Các sản
phẩm về vật chất (cơng trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật, điêu khắc, thủ
công tinh xảo…), các sản phẩm phi vật chất (phong tục, tập quán, các giá trị
tinh thần, các làn điệu hát múa…), các sản phẩm hữu hình hay vơ hình do
con người sáng tạo ra.
Khái niệm di sản là một khái niệm có lịch sử phát triển, vận động, thay
đổi theo thời gian. Ngày nay, khái niệm di sản khơng hồn tồn đồng nhất với
khái niệm tài sản từ quá khứ. Bởi lẽ, không phải bất cứ cái gì của quá khứ
cũng coi là di sản. Di sản là sản phẩm của quá khứ nhưng phải được lựa chọn
theo nhu cầu của xã hội hiện đại. Di sản là sự lựa chọn từ quá khứ, những báu
vật, những ký ức của cộng đồng, thể hiện nhu cầu, mong muốn của xã hội
hiện đại. Do đó, sự ra đời của Luật Di sản văn hoá cùng với những văn bản
hướng dẫn đi kèm trở thành cơ sở pháp lý quan trọng, nhằm tăng cường nhận
thức và hành động cho toàn xã hội, tăng cường sự hiểu biết về di sản và quá
trình bảo vệ, phát huy kho tàng di sản văn hoá của dân tộc.
Theo Luật di sản văn hoá Việt Nam (2001) của nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, khái niệm di sản văn hoá được hiểu:


14
“DSVH là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là
một bộ phận của DSVH nhân loại có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của nhân dân ta” [62].
Điều 1 Luật Di sản ghi: “Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hoá phi vật
thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử,
văn hố, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [62].
Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chủ trương chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH nhằm nâng cao
đời sống tinh thần cho nhân dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. DSVH Việt Nam được bảo tồn, kế thừa và phát huy sẽ có tác dụng tích
cực trong xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam đương đại, gắn kết chặt
chẽ với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thị trường thế giới.
b) Phân loại di sản văn hoá
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu hoặc quản lý, mà người ta có nhiều
cách phân loại di sản văn hố khác nhau. Thông thường ta gặp các cách phân
loại như:
- DSVH vật thể và DSVH phi vật thể
- DSVH hữu hình và DSVH vơ hình
- DSVH tĩnh và DSVH động
Theo tổ chức UNESCO tại phiên họp thứ 23 (10/2003) đã thống nhất
quan niệm: DSVH bao gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể.
- DSVH phi vật thể là dạng thức tồn tại của văn hố khơng phải chủ yếu
tồn tại dưới dạng vật thể có hình khối, trong khơng gian và thời gian, nó tiềm
ẩn trong trí nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi ứng xử của con người

thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội
mà nó thể hiện ra. Từ đó người ta có thể nhận thức được sự tồn tại của DSVH
phi vật thể.


15
- Đặc trưng nổi bật nhất của di sản văn hố phi vật thể là nó được tiềm
ẩn trong tâm thức của một cộng đồng xã hội và chỉ bộc lộ ra qua hành vi và
hoạt động của con người. Văn hoá phi vật thể được lưu giữ trong thế giới tinh
thần của con người, thơng qua các hình thức diễn xướng, nó được bộc lộ sinh
động với tư cách là một hiện tượng văn hoá. DSVH phi vật thể được hiểu là
các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo đó
là các công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các khơng gian văn hố có liên quan giữa
các cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ
một ý thức về bản sắc và sự kế thừa, qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối với
sự đa dạng văn hố và tính sáng tạo của con người.
- DSVH phi vật thể rất dễ bị biến dạng hoặc mất đi vĩnh viễn bởi sự vô
ý thức của con người, thời gian. Trên thực tế, người ta thường có xu hướng
thêm hoặc bớt, hay lãng quên trong quá trình lưu giữ DSVH phi vật thể. Do
đó, văn hố phi vật thể vừa có tính bền vững trong ý thức cộng đồng, vừa có
tính mong manh, dễ bị mai một, biến dạng tuỳ thuộc vào cuộc sống của một
cá nhân, nghệ nhân với những may rủi bất ngờ trong cuộc sống. Mặt khác,
DSVH phi vật thể có nguy cơ biến dạng rất cao bởi tính dị bản của nó do sự
can thiệp của các nhóm, tầng lớp xã hội qua các thời đại.
- DSVH vật thể là những sản phẩm văn hố có hình tượng, có thể “sờ
thấy được”. Văn hoá vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hoá chủ yếu
dưới dạng vật thể có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét, hình khối,
màu sắc, kiểu dáng, nó được tồn tại trong không gian, thời gian xác định.
DSVH vật thể được tạo nên từ đôi bàn tay khéo léo của con người, nó mang
dấu ấn lịch sử thời đại rõ nét. Văn hoá vật thể được khách thể hoá và tồn tại

như một khách thể bên ngoài con người. DSVH vật thể chịu sự tác động, bào
mòn của thời gian, sự tác động của thế hệ sau (có thể tích cực hay tiêu cực).
Nếu tác động tiêu cực, DSVH vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến mất hoặc
biến dạng, thay đổi nhiều so với nguyên gốc.


16
Đồng nhất với quan niệm phân loại di sản văn hoá của UNESCO, Luật
Di sản văn hoá Việt Nam năm 2001 đã chia DSVH thành 02 loại: DSVH vật
thể và DSVH phi vật thể.
Theo Luật Di sản văn hoá Việt Nam:
DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học,
bao gồm các di tích lịch sử - văn hố là cơng trình xây dựng, địa điểm và các
di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình xây dựng, địa điểm có giá trị
lịch sử, văn hoá, khoa học. Danh lam, thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên
hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến
trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền
lại, có giá trị lịch sử, văn hố, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. Bảo
vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu
biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học [62, tr.13].
DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hố, khoa
học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác bao gồm tiếng nói,
chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn
xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ cơng truyền
thống, tri thức về y dược học cổ truyền, văn hoá ẩm thực, trang phục truyền
thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá (năm 2009),
ở Khoản 1 - Điều 4, ghi:
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng

hoặc cá nhân, vật thể và khơng gian văn hố liên quan, có giá trị lịch
sử, văn hố, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng
được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [63].
Tuy nhiên, việc phân loại DSVH theo Luật Di sản văn hố chỉ mang
tính chất tương đối bởi mọi DSVH đều có phần vật thể và phi vật thể. Do đó,


17
nghiên cứu DSVH ln phải đặt nó trong mối quan hệ qua lại khơng thể tách
rời, qua đó hiểu được giá trị vật chất và giá trị tinh thần của DSVH đối với
đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm giá trị và giá trị DSVH
Theo Từ điển Tiếng Việt, “giá trị là cái làm cho mọi vật có ích, có lợi
có ý nghĩa, là cái đáng quý về mặt nào đó. Ví như giá trị tinh thần, giá trị vật
chất, giá trị nghệ thuật.v.v…”
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư, “giá trị là phạm trù triết học, xã hội
học chỉ tính có ích, có ý nghĩa của sự vật hiện tượng tự nhiên hay xã hội, có
khả năng thỏa mãn nhu cầu phục vụ lợi ích của con người”
Xét ở góc độ nghiên cứu, nhấn mạnh đến vai trò tiếp nhận của chủ thể
đối với giá trị, các nhà nghiên cứu xã hội học Việt Nam khẳng định:
Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể
hay tư tưởng, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến
nó như một nhu cầu hoặc cấp cho nó một vị trí quan trọng trong đời
sống của họ… Trong giá trị đều chứa đựng những yếu tố nhận thức,
yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với
sự vật, hiện tượng mang giá trị thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của
chủ thể
Xét về mặt nguyên tắc, giá trị là phạm trù mang tính xã hội, là cái
có nghĩa, cái có trước và biểu hiện như những chuẩn mực, những

biểu tượng văn hóa định hướng hoạt động của con người, được
cộng đồng xã hội lựa chọn, cùng nhau chia sẻ và tôn vinh. Giá trị
thể hiện rõ ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của
con người về bất cứ một hiện tượng tự nhiện, xã hội và tư duy theo hướng ghi
nhận là sự cần thiết, là cái tốt, cái hay, cái có ý nghĩa, cái chân, thiện, mỹ giúp
khẳng định và nâng cao bản chất người.


18
Thứ hai, giá trị là nhân tố nền tảng góp phần quyết định nhận thức và
hành động của các nhân cách; đóng vai trị điều chỉnh các nguyện vọng và
hành động của con người và cộng đồng; là chỗ dựa để đánh giá hành động của
người khác và để định đoạt lợi ích xã hội của các thành viên trong cộng đồng.
Do đó, giá trị xác định tiêu chuẩn của thang bậc xã hội. Mỗi nhóm xã hội, mỗi
giai tầng xã hội đều có bảng giá trị đặc thù, từ đó tạo nên đặc điểm chung
trong định hướng giá trị đạo đức lối sống của họ.
Thứ ba, giá trị là mục đích mà con người xã hội cần hướng tới, đây
chính là sợi dây liên kết và có vai trị định hướng cho các mục tiêu, phương
hướng và hành động của con người vào mục tiêu chung của xã hội. Như vậy,
có thể thấy tất cả những hành động, hành vi mang tính sáng tạo của mỗi cá
nhân, cộng đồng và xã hội, các sản phẩm vật chất và tinh thần là kết quả của
sự sáng tạo ấy có ý nghĩa và có ích cho con người thì đều có giá trị nhất định.
Cho nên, khi xem xét các giá trị văn hóa nói chung, giá trị DSVH nói
riêng cần phải có nhận thức thống nhất quan niệm về giá trị, từ đó soi vào
những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể để hiểu rõ hơn về các giá trị văn hóa
hiện tồn.
1.1.3. Khái niệm bảo tồn, phát huy di sản văn hoá
- Khái niệm bảo tồn di sản văn hoá
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Bảo tồn là giữ lại khơng để cho mất đi”.

Trong q trình nghiên cứu, cũng như trong hoạt động bảo tồn chúng ta
thường gặp các khái niệm: bảo tồn, bảo quản, bảo vệ. Những khái niệm này
được hiểu như sau: “Bảo tồn” là hoạt động giữ gìn một cách an tồn khỏi sự
tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, nói một cách hình ảnh bảo tồn là bảo
quản kết cấu của một địa điểm ở một hiện trạng và tìm cách hãm sự xuống
cấp của kết cấu đó. “Bảo quản” là sử dụng những biện pháp kỹ thuật để giữ
gìn, chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn tồn tại lâu dài. “Bảo vệ” là giữ
khơng để cho di sản văn hố bị xâm hại.


19
Tóm lại, bảo tồn DSVH là bằng tất cả những nỗ lực của con người về
hiểu biết lịch sử hình thành, ý nghĩa lịch sử của DSVH nhằm mục đích đảm
bảo sự an toàn lâu dài về vật chất cho di sản văn hoá và khi cần phải đảm bảo
việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại để khai thác khả năng phục
vụ cho xã hội hiện đại. Công tác bảo tồn DSVH được thực hiện qua nhiều cấp
độ khác nhau:
+ Bảo tồn nguyên trạng
+ Trùng tu
+ Gia cố
+ Tái định vị
+ Phục hồi
+ Tái tạo - làm lại
+ Quy hoạch bảo tồn
Trong tiến trình lịch sử, hoạt động bảo tồn xuất hiện ngay từ khi con
người ý thức được giá trị của DSVH trong đời sống xã hội. Đồng thời, nhận
thức được mối nguy hại do tác động của con người và thiên nhiên gây ra đối với
DSVH. Từ đó, con người đã khơng ngừng tìm kiếm các biện pháp bảo tồn
DSVH. Trong lịch sử, “bảo tồn” theo cơ sở khoa học được hình thành từ Pháp.
Hai hình thức bảo tồn DSVH, đó là:

+ Bảo tồn nguyên vẹn: Bảo tồn nguyên vẹn văn hoá vật thể ở dạng
“tĩnh” là vận dụng thành quả khoa học kỹ thuật, công nghệ cao, hiện đại, đảm
bảo giữ nguyên trạng hiện vật như sự vốn có của nó về kích thước, hình dáng,
màu sắc, đường nét. Khi cần khơi phục nguyên các di sản văn hoá vật thể cần
sử dụng một số phương tiện kỹ thuật: Đồ hoạ, công nghệ 3D theo không gian
ba chiều, chụp ảnh, quay băng, ghi hình, xác định trọng lượng, chất liệu của
DSVH vật thể. Sau khi được bảo tồn nguyên dạng phải so sánh đối chiếu với
di sản nguyên gốc đã được lưu trữ để không làm biến dạng DSVH vật thể.
Bảo tồn nguyên vẹn DSVH phi vật thể ở dạng “tĩnh” là tiến hành điều tra,
sưu tầm, thu thập các dạng thức văn hố phi vật thể như nó hiện có theo quy


20
trình khoa học, nghiêm túc, chặt chẽ, lưu giữ DSVH phi vật thể trong sách vở,
mơ tả chúng bằng hình ảnh, âm thanh qua các băng đĩa, chụp ảnh…. Tất cả các
hiện tượng văn hố này có thể lưu trữ trong các viện bảo tàng, các kho tư liệu.
+ Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng động): Bảo tồn
“động” là bảo tồn các hiện tượng văn hoá trên cơ sở kế thừa. Các di sản văn
hoá vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ gìn những đường nét cơ bản của
di tích, cố gắng phục chế lại nguyên gốc di sản văn hoá vật thể bằng nhiều
hình thức kỹ thuật cơng nghệ hiện đại. Đối với di sản văn hoá phi vật thể, bảo
tồn “động” trên cơ sở kế thừa là bảo tồn các hiện tượng văn hố trong chính
đời sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng là môi trường sản sinh, nơi giữ gìn,
bảo vệ và làm phong phú, phát huy văn hố phi vật thể trong đời sống cộng
đồng theo thời gian.
Văn hố phi vật thể ln tiềm ẩn trong trí nhớ và tâm thức của con
người và chúng ta vẫn gọi họ là những nghệ nhân - những “báu vật nhân văn
sống”. Do đó, bảo tồn và phát huy giá trị văn hố phi vật thể cịn đồng nghĩa
với việc chăm sóc, bảo vệ “báu vật nhân văn sống”. Đó là việc xã hội thừa
nhận tài năng của các nghệ nhân, tôn vinh giá trị của họ, tạo điều kiện thuận

lợi để họ sống lâu, sống khoẻ, phát huy tốt nhất khả năng của họ trong quá
trình bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Cần phải phục hồi các
giá trị văn hoá phi vật thể một cách khách quan, sáng suốt, tin cậy chứ không
chủ quan tuỳ ý. Tất cả những giá trị văn hoá phi vật thể phải được kiểm chứng
qua nhiều phương pháp nghiên cứu có tính chất chun mơn cao, có giá trị
chứng thực, thuyết phục thông qua các dự án, điều tra, sưu tầm, bảo quản,
biên dịch và xuất bản các dấu tích DSVH phi vật thể.
- Quan niệm phát huy DSVH
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Phát huy là làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt
toả tác dụng và tiếp tục nảy nở từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp”. Nói rõ hơn, phát huy là khai thác, sử dụng sản


21
phẩm nào đó một cách có hiệu quả. Trước hết, phát huy là sử dụng giá trị tinh
thần của di sản văn hố trong cơng tác tun truyền giáo dục tư tưởng, tình
cảm, phát triển hồn thiện nhân cách con người. Về phương diện khác, công
việc này xuất phát từ nhu cầu thực tế, con người mong muốn sản phẩm của
mình tạo ra phải được nhiều người tiêu dùng biết đến, đem lại lợi ích kinh tế.
Phát huy DSVH là một hoạt động có tính liên ngành, có tiêu chí chung
và mục đích là phục vụ cho sự tiến bộ xã hội, cho việc giữ gìn phát triển
truyền thống văn hố dân tộc góp phần vào phát triển ngành Du lịch, giáo dục
truyền thống cho thế hệ sau. Cách thức phát huy của mỗi di sản ở mỗi thời
điểm khác nhau, điều đó phụ thuộc vào văn hố của mỗi vùng, nhận thức của
mỗi người. Tất cả những hoạt động này đều phải dựa vào các giá trị sẵn có
của di sản, từ đó làm tơn vinh vẻ đẹp và phát triển các giá trị văn hố đó. Một
trong những hình thức chủ đạo của phát huy là quảng bá hình ảnh di sản trên mọi
phương tiện nhằm thu hút khách đến tham quan, đầu tư. Từ đó, giúp việc phục
hồi tối đa các giá trị văn hoá truyền thống, tạo cơ hội giao lưu các nền văn hố,
góp phần hiểu biết lẫn nhau, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp và sự phát triển

kinh tế -xã hội của mỗi bên. Mặt khác, phát huy giá trị DSVH còn là một lợi thế
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, phát huy tiềm
năng DSVH sẽ đem lại lợi ích kinh tế vơ cùng to lớn từ lượng khách du lịch:
Trung Quốc - một đất nước có nhiều di sản bậc nhất Thế giới đã biết cách khai
thác đầu tư tài sản quý giá đó cho phát triển ngành du lịch và đem lại lợi nhuận
khổng lồ, khác với Trung Quốc, Sinhgapo lại khai thác nền văn hoá đa dân tộc
nhằm tạo thành từng khu di sản: Trung tâm Malay, tại trung tâm Malay ngoài
việc khám phá nền văn hoá của người Hồi giáo qua lối kiến trúc, du khách cịn
được thưởng thức các món ăn địa phương, thưởng thức âm nhạc truyền thống
của các vùng quê, thử nghiệm trực tiếp các làng nghề.
Lập luận trên cho thấy vai trò của DSVH trong sự phát triển kinh tế, nó
là nguồn tài ngun vơ hạn sản xuất ra hàng hố dịch vụ du lịch. Từ đó kích


22
thích tiêu dùng, tạo ra những sản phẩm mang tính đặc trưng làm thoả mãn nhu
cầu của khách du lịch đem lại lợi ích kinh tế, đồng thời làm tốt công tác bảo
tồn di sản. Việc phát huy tốt giá trị di sản còn mang lại một giá trị hiểu biết về
văn hoá truyền thống, tác động trực tiếp tới việc giáo dục tinh thần, tư tưởng,
điều này vô cùng quan trọng. Thông qua hiểu biết về giá trị di sản, có tác
động trực tiếp về giáo dục truyền thống, vun đắp tình cảm cho mỗi cá nhân và
cộng đồng.
Bảo tồn và phát huy luôn gắn liền với nhau như một cặp phạm trù trong
xây dựng và phát triển văn hoá. Văn hoá thể hiện sức sống của dân tộc, được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nếu chỉ bảo tồn không thôi mà không
đem ra sử dụng thì khơng phát huy được giá trị ẩn chứa trong di sản, thời gian
sẽ làm cho di sản bị biến dạng và giá trị của di sản cũng sẽ phai nhạt dần, đến
một lúc nào đó sẽ chìm vào qn lãng. Chỉ khi giá trị di sản được đem ra sử
dụng - phát huy thì mới tạo ra được cơ sở, căn cứ để bảo tồn. Do đó, phát huy
sẽ tạo ra hướng tiếp cận mới làm cho giá trị di sản khơng những khơng bị lãng

qn mà cịn được lan rộng và giữ được bản sắc vốn có của mình. Bảo tồn là
cơ sở cho sự sáng tạo, phát huy và ngược lại phát huy giúp cho giá trị di sản
văn hố được bảo tồn, toả sáng hơn. Vì vậy, cần xây dựng mối quan hệ hài
hoà giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá là một hoạt động khoa học,
địi hỏi phải có kiến thức chuyên môn, sự phối hợp liên ngành và tuân thủ
nghiêm ngặt những nguyên tắc cao nhất của bảo tồn là giữ được tính nguyên
gốc của di sản với những điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội của từng thời kỳ.
Trên cơ sở đó khi giải quyết mối quan hệ của bảo tồn và phát huy giá trị của
di sản phải có sự hiểu biết về thuộc tính của di sản và giá trị chứa đựng bên
trong của di sản. Đồng thời, đánh giá một cách toàn diện và nhận diện đâu là
yếu tố gốc, đâu là yếu tố ngoại sinh, yếu tố nội sinh…từ đó lựa chọn hình
thức bảo tồn và phát huy cho phù hợp với từng loại hình DSVH. Trường hợp


23
nào cần ưu tiên cho bảo tồn, trường hợp nào cần ưu tiên cho phát huy, hoặc là
bảo tồn gắn với phát huy.
1.1.4. Vai trị của di sản văn hố
DSVH là tài sản văn hoá của thế hệ trước để lại, là “tài sản vô giá, gắn
kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là cơ sở để sáng tạo
những giá trị mới và giao lưu văn hố” [36, tr.63]. Vì vậy, DSVH có vai trò
rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, nó được xem như một
nguồn lực để phát triển nền kinh tế xã hội đất nước. DSVH Việt Nam là kết
tinh trí tuệ, tình cảm từ ngàn đời của các thế hệ cha ông. Trải qua bao biến cố,
thăng trầm của lịch sử nhưng đến ngày nay đất nước Việt Nam vẫn giữ được
một kho tàng DSVH vô cùng phong phú và đa dạng. Nhờ kho tàng di sản ấy,
thế hệ hơm nay và mai sau có sự hiểu biết về truyền thống lịch sử hào hùng,
văn hoá dân tộc, đó là hành trang cho thế hệ trẻ Việt Nam vững bước vào
tương lai. DSVH Việt Nam phản ánh tinh thần, truyền thống, tình cảm, bản

lĩnh, trách nhiệm và cách ứng xử của con người Việt Nam trước biến cố của
thiên nhiên và lịch sử.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH ngày nay việc giúp cho thế hệ trẻ nhận
biết được vai trò, chức năng của DSVH là một việc làm hết sức cần thiết.
DSVH có những vai trị cụ thể như sau:
- DSVH là bộ phận quan trọng của văn hố, DSVH tạo nên mơi trường
văn hố của các cộng đồng
Văn hố là mơi trường thứ hai sau thiên nhiên ni sống con người.
Lồi người tồn tại và phát triển nhờ hai hệ sinh thái có quan hệ biện chứng
với nhau: Đó là sinh thái tự nhiên (tự nhiên) và sinh thái Văn hố (sinh thái
nhân tạo). Trong mơi trường sinh thái văn hố, DSVH chiếm một vị trí đáng
kể so với những sản phẩm, giá trị văn hoá mới được sáng tạo ra trong hiện tại.
Di sản văn hoá (vật thể và phi vật thể) được xác định là bộ phận quan trọng
cấu thành môi trường sống của con người. Di sản văn hoá là loại tài sản quý


24
giá không thể tái sinh và không thể thay thế. Mơi trường văn hố chính là sinh
thái văn hố được trừu tượng hoá khi tách các yếu tố, các giá trị văn hố ra
khỏi những cá nhân, những nhóm cộng đồng cụ thể trong đó các DSVH phi
vật thể và DSVH vật thể là những yếu tố cơ bản.
Quan trọng hơn DSVH giúp cho con người có được năng lực mang bản
chất người để phát triển trên nền tảng văn hố mà mình đã sáng tạo ra. Con
người chính là sự tích hợp của DSVH trong quá khứ và sự sáng tạo văn hố
mới trong hiện tại. DSVH có vai trị bảo tồn và góp phần bảo vệ sự sống của
con người. Trong mục tiêu phát triển bền vững, con người được coi là trung
tâm của quá trình phát triển. Và như thế, di sản văn hoá phải được gắn với con
người và cộng đồng cư dân địa phương (với tư cách là chủ thể sáng tạo văn
hoá và chủ sở hữu tài sản văn hoá), coi việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hố
lành mạnh của đơng đảo công chúng trong xã hội là mục tiêu hoạt động.

Các DSVH thức tỉnh ý thức bảo vệ môi trường của con người, trước hết
là bảo vệ chính nó - di sản văn hố đó. Các DSVH gắn với mơi trường và bao
quanh con người nên bảo vệ, giữ gìn DSVH chính là bảo vệ chính cuộc sống,
mơi trường sống của chính chúng ta. Nhà nhân học hiện đại người Đức ông
J.Steward cho rằng: “Những nền văn hoá ở trong những mơi trường tương tự
sẽ có xu hướng phát triển theo những quá trình giống nhau và sẽ tạo nên
những đáp trả tương tự đối với những cách thức của môi trường”. Ơng gọi:
“những đặc điểm văn hố đó kết hợp chặt chẽ với những phong tục là hạt
nhân văn hoá” [74, tr.5].
- DSVH là cơ sở để giáo dục truyền thống, là cơ sở để lựa chọn giá trị
mới, động lực tinh thần của xã hội
DSVH là yếu tố cơ bản tạo nên truyền thống. Truyền thống là cái cũ tạo
thành nề nếp được truyền lại và được tiếp nối trong hiện tại, nó bao gồm cái
cũ đang được phát huy truyền thống trong hiện tại. Phát huy truyền thống là
sự kế tục truyền thống làm cho truyền thống mang tính liên tục, khơng bị đứt


25
đoạn. Cịn bản sắc dân tộc là đặc tính dân tộc, là cốt cách dân tộc được biểu
hiện ở hệ giá trị dân tộc, được cả cộng đồng lựa chọn, chấp nhận trên nền bối
cảnh lịch sử hiện tại, được đem vận hành trong đời sống cộng đồng.
Bản sắc dân tộc Việt Nam theo quan niệm của Đảng ta là những giá
trị bền vững, tốt đẹp, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp hơn bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân, gia đình, làng
xã, tổ quốc, lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức
cần cù, sáng tạo trong lao động và sản xuất, sự tinh tế trong ứng xử,
giản dị trong lối sống [36, tr.56].
DSVH dân tộc luôn chứa đựng những giá trị văn hoá của dân tộc trong

quá khứ, làm cơ sở tạo nên những giá trị mới, làm cho bản sắc dân tộc luôn
được khẳng định và trường tồn cùng dân tộc. Đối với mỗi dân tộc nếu DSVH
bị chối bỏ thì bản sắc của nền văn hố cũng khơng cịn. Bản sắc văn hố được
ví như một cái màng lọc để lựa chọn những yếu tố mới được sáng tạo ra. Cái
nào phù hợp, có giá trị, tiến bộ được lựa chọn và tiếp tục phát triển, cái nào lỗi
thời, lạc hậu, không phù hợp sẽ bị loại bỏ.
Mặt khác DSVH còn là tiền đề, là cơ sở cho sự sáng tạo cái mới. Nếu
khơng có cái cũ thì khơng có cái mới. Cái mới chỉ ra đời trên cơ sở kế thừa và
phát triển cái cũ. Hơn nữa DSVH cịn là “ngun liệu”, “vật liệu” cho sự tích
luỹ văn hố qua sự tích luỹ từ q khứ. DSVH cịn là đối tượng của sự tiếp
thu và tiếp biến. Mỗi lần cái mới xuất hiện phủ định biện chứng cái cũ là một
lần khẳng định sự tiến bộ của văn hố. Trong mối quan hệ nhân quả đó, vai
trị của DSVH hết sức to lớn: Khơng có DSVH thì khơng có cái mới, khơng
có cái mới thì khơng có sự phát triển.
- DSVH là một bộ phận hợp thành nền tảng tinh thần xã hội, góp phần
định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước


×