Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Vấn đề phát triển nguồn lực giảng viên trẻ ở đại học thái nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.5 KB, 122 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện tồn cầu hóa và sự bùng nổ tri thức hiện nay, hệ thống
giáo dục của tất cả các quốc gia trên thế giới bị đặt vào tình trạng cần đổi mới
không ngừng. Thêm nữa, nền kinh tế tri thức với đặc trưng cốt yếu quyết định
sự thành bại của tất cả các quốc gia, dân tộc, đã làm cho tất cả các quốc gia
đặt chiến lược con người lên mục tiêu hàng đầu, trong đó tâm điểm là coi
trọng đổi mới giáo dục và đào tạo, coi đây là chiến lược sống cịn trong q
trình phát triển của mình.
Trong bối cảnh của thế giới, Việt Nam khơng nằm ngồi xu thế phải đổi
mới hệ thống giáo dục đại học và cao đẳng, đặc biệt là vấn đề phát triển đội
ngũ giảng viên. Thấy rõ tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên, đặc biệt là
giảng viên trẻ - đòn bẩy nâng cao đối với chất lượng giáo dục đại học, Đảng
và Nhà nước ta đã luôn coi trọng đội ngũ giảng viên, đội ngũ những người
làm cơng tác quản lí giáo dục và khẳng định đây là lực lượng nòng cốt quyết
định việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến lược giáo dục, xây dựng
đất nước, lực lượng này góp phần quyết định vào thành cơng của sự nghiệp
đổi mới giáo dục hiện nay. Vì vậy, Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung
Ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ một trong năm giải pháp cần tập trung làm tốt
để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII là xây dựng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục một cách tồn diện. Để cụ thể hố chủ
trương trên, Chính phủ đã xây dựng chương trình hành động trong đó có
nhiệm vụ “Điều chỉnh nội dung của chương trình mục tiêu quốc gia về giáo
dục - đào tạo theo hướng tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lí giáo dục - đào tạo và dạy nghề”. Tiếp đó, ngày 15/6/2004, Ban Bí thư Trưng
Ương Đảng đã ban hành chỉ thị số 40-CT/TW về xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Theo tinh thần đó, ngày
11/01/2005 tại Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản



2
lí giáo dục giai đoạn 2004-2010”, trong đó có đội ngũ giáo viên của các
trường đại học, cao đẳng. Đặc biệt, Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02
tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và tồn diện giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đề ra 6 mục tiêu cơ bản, trong đó có
một mục tiêu quan trọng: Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo
dục đại học đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp,
có trình độ chun mơn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến; bảo
đảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên của cả hệ thống giáo dục đại học không quá 20.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đơng Bắc của Tổ quốc,
tỉnh Thái Ngun được Chính phủ coi là trung tâm văn hố và kinh tế của các
dân tộc Việt Bắc, nằm sát vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là tỉnh có tiềm
năng kinh tế đa dạng và phong phú. Đặc biệt, Thái Nguyên là một trong
những trung tâm đào tạo lớn thứ ba trên toàn quốc, bao gồm Đại học Thái
Nguyên với 9 trường trực thuộc và các đơn vị thành viên.
Đại học Thái Nguyên được thành lập theo Nghị định số 31/CP ngày
04/4/1994 của Chính phủ trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại các trường đại học
trên địa bàn thành phố Thái Nguyên. Đại học Thái Nguyên trở thành đại học
vùng đa ngành, đa lĩnh vực có quy mơ lớn nhất cả nước góp phần đưa vùng
trung du miền núi phía Bắc phát triển cùng với tiến trình phát triển chung của
đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời, góp phần đưa
giáo dục đại học nước ta tiến kịp và hội nhập với giáo dục đại học thế giới.
Khơng nằm ngồi xu thế chung của giáo dục nước nhà, trong những
năm qua Đại học Thái Ngun đã có nhiều chương trình, biện pháp nhằm
nâng cao số lượng cũng như chất lượng đội ngũ giảng viên toàn đại học.
Nhận thấy rõ đội ngũ giảng viên là nhân tố quan trọng của sự phát triển
giáo dục đại học, đặc biệt là đội ngũ giảng viên trẻ. Trong giai đoạn hiện nay,
đội ngũ giảng viên trẻ chiếm một tỉ lệ đáng kể và có đóng góp to lớn trong

tồn Đại học Thái Ngun. Thơng qua các hoạt động giảng dạy, giáo dục và


3
các hoạt động trong và ngoài trường, đội ngũ giảng viên của Đại học Thái
Nguyên nói chung và đội ngũ giảng viên trẻ nói riêng đã thể hiện được vai trò
là người trực tiếp thực hiện các mục tiêu phát triển giáo dục đại học trong hệ
thống giáo dục quốc dân, góp phần xây dựng thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên một trong những nhược điểm của Đại học Thái Nguyên là
đội ngũ giảng viên trẻ chưa mạnh về chuyên môn, gặp nhiều khó khăn trong
cơng tác, hẫng hụt lực lượng, khơng có động lực lôi cuốn trong nhiệm vụ dạy
học; việc quản lí, sử dụng đội ngũ giảng viên trẻ thiếu quy hoạch và khơng
nhất qn dẫn đến tình trạng chắp vá và thiếu đồng bộ, không đáp ứng với
nhu cầu đổi mới cả về số lượng và trình độ.
Phương hướng chung của Đại học Thái Nguyên từ nay đến năm 2015
là “Tiếp tục phát huy mọi nguồn lực xây dựng Đại học Thái Nguyên thành đại
học trọng điểm; trung tâm đào tạo, nghiên cứu chất lượng cao của vùng
trung du, miền núi phía Bắc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa”, tiến tới thực hiện thắng lợi “Đề án quy hoạch phát triển
Đại học Thái Nguyên thành đại học trọng điểm; trung tâm đào tạo, khoa học
của vùng đến năm 2020” đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, đồng thời góp phần làm
thành công công cuộc cải cách giáo dục của nuớc nhà, Đại học Thái
Nguyên cần phải tiến hành cải cách đồng bộ, trong đó phát triển đội ngũ
giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên trẻ là nhiệm vụ hàng đầu và có ý
nghĩa quyết định. Vì vậy, nghiên cứu vạch ra những cơ sở khoa học và thực
tiễn cho sự phát triển nguồn lực giảng viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên hiện
nay là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Với ý

nghĩa đó tơi xin chọn đề tài: “Vấn đề phát triển nguồn lực giảng viên trẻ
ở Đại học Thái Nguyên hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ nghành Triết
học của mình.


4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập với kinh tế thế giới, cơ hội việc làm
và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị truờng, những vấn đề cấp thiết đã
và đang đặt ra với đội ngũ lao động nuớc ta. Trước tình hình đó, việc nâng cao
chất lượng dạy và học tại các trường đại học hiện nay đuợc đặt ra với cả
người học và người dạy. Thực trạng quản lý đào tạo và chất lượng giảng viên
của nước ta hiện còn bộc lộ nhiều yếu kém, xu thế tồn cầu hố và hội nhập
quốc tế đang địi hỏi giáo dục Việt Nam phải nhanh chóng đổi mới và tích cực
phát huy vai trị của đội ngũ giảng viên trẻ để đảm bảo và ngày càng góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục. Vì thế vấn đề này đã cuốn hút nhiều nguời
quan tâm, nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và đem lại những kết quả
đáng trân trọng.
Trong đó đáng chú ý là các cơng trình đã được công bố sau:
Sylvia Chong, 2009, “Chất lượng đại học: đảm bảo chất lượng bắt đầu
là sự chuẩn bị chương trình của giảng viên” Int.J. Management in Education,
Vol.3, No.3/4, 2009, bài viết nói lên chất lượng giảng dạy của giảng viên là
nhân tố quan trọng đầu tiên (của mỗi quốc gia) trong q trình đào tạo. Sự
thành cơng trong giáo dục của Singapore trong giáo dục đào tạo là tuỳ thuộc
vào chất lượng của giảng viên. Những giảng viên có đủ năng lực và giảng dạy
có hiệu quả sẽ xây dựng hệ thống giáo dục ngày càng vững mạnh. Đây là
bước đầu tiên trong công việc đảm bảo chất lượng.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Thư (2006), “Một số quan điểm và mơ hình về
giảng dạy hiệu quả ở bậc đại học”, Kỷ yếu hội thảo đảm bảo chất lượng trong
đổi mới giáo dục đại học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí

Minh, trong bài viết này tác giả đã nêu chất lượng giảng viên là một trong
những yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng học tập của sinh viên,
việc nâng cao trình độ giảng viên và cải tiến chất lượng giảng dạy là điều tất
yếu nâng cao kết quả học tập của sinh viên. Trong bài viết này tác giả cũng
đưa ra ba biện pháp và quy trình giảng dạy mà người giảng viên cần thiết phải


5
thực hiện: phương pháp phù hợp với đối tượng giảng dạy thông qua việc kết
hợp và ứng dụng kiến thức nền của sinh viên vào quá trình học tập; phương
pháp giảng dạy phù hợp với nội dung giảng dạy thông qua việc kết hợp và
ứng dụng kiến thức nền về nội dung mơn học trong q trình học tập; phương
pháp giảng dạy phù hợp với bối cảnh giảng dạy thông qua việc kết hợp và
ứng dụng kiến thức nền về sinh viên với nội dung mơn học.
Nhóm tác gỉa dịch thuật sưu tầm và biên dịch tài liệu có nhan đề “Hướng
dẫn dạy và học trong giảng dạy đại học” từ nguyên bản tiếng Anh có tiêu đề
“Guide to Teaching and Learning in Higer Education” tại Website có địa chỉ
do các tác giả: Pai Obanya, Juma Shabani,
Peter Okebukola với sự giúp đỡ của Văn phòng UNESCO vùng Châu Phi,
trong tài liệu này đề cập đến tầm quan trọng của đổi mới giáo dục Việt Nam
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo những người lao động có trình
độ phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung đáp ứng nhu cầu
phát triển cho chính hệ thống giáo dục. Việc đổi mới có đạt kết quả như mong
muốn hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực dạy học của đội ngũ giảng
viên trong các trường đại học. Điều đáng tiếc là khơng ít người trong số các
giảng viên đại học không được trang bị những kiến thức và kỹ năng dạy học ở
bậc đại học. Điều đó đã hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của việc dạy học.
Phạm Thành Nghị (2000), “Quản lý chất lượng giáo dục đại học”, Nhà
xuất bản Quốc gia Hà Nội, trong tài liệu này tác giả đưa ra các khái niệm về
chất lượng và chất lượng giáo dục đại học các chỉ số thực hiện, chuẩn mực

chất lượng trong giáo dục đại học, một số hình thức đánh giá trong giáo dục
đại học. Ngoài ra trong tài liệu này tác giả cũng đề cập tới vai trị của cán bộ
giảng dạy trong q trình đảm bảo chất lượng, cho rằng quá trình đào tạo ở
các cơ sở giáo dục đại học nước ta đã lạc hậu, giảng viên vẫn là nguồn cung
cấp thơng tin chính cho sinh viên.
Lê Đức Ngọc (2005), Giáo dục đại học phương pháp dạy và học, Nhà
xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, trong tài liệu này tác giả đã nêu lên chất


6
lượng đào tạo đại học, cơ sở khoa học cho việc đổi mới giáo dục đại học.
Ngoài ra, trong tài liệu này còn chỉ ra sự khác biệt giữa dạy và học lấy giảng
viên làm trung tâm và lấy sinh viên làm trung tâm. Tác giả đã đưa ra hai vấn
đề góp phần nâng cao chất lượng dạy học, vai trò giảng viên đại học trong
việc dạy và học trong thời đại cơng nghệ thơng tin.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Tình (2010), Tính tích cực giảng dạy của giảng viên
đại học (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, trong tài liệu
này tác giả đã chỉ ra vai trò của giảng viên đại học, đồng thời nêu lên vai trị
của tính tích cực giảng dạy của giảng viên đại học trong việc nâng cao hiệu
quả, chất lượng đào tạo đại học.
Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Quý Thanh (2007), Giáo dục đại học, một số
thành tố của chất lượng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, trong tài liệu
này nhóm các tác giả nêu lên vấn đề đứng trước những yêu cầu phát triển mới
trong bối cảnh từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế hậu công nghiệp (kinh
tế tri thức) thì giáo dục Việt Nam cần phải chú trọng hơn nữa việc nâng cao chất
lượng. Nhóm các tác giả đã nghiên cứu các thành tố dẫn đến chất lượng như việc
cải tiến thi đại học, sinh viên đánh giá giảng viên, hoạt động học tập của sinh viên,
học vị khoa học của giảng viên…Thơng qua đó phương pháp giảng dạy là một
trong những thành tố đảm bảo chất lượng trong giáo dục đại học.
Luận văn thạc sỹ Triết học: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
của tác giả Lê Văn Phục, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh năm 2010. Luận văn đã làm rõ khái niệm, tiêu chí và vai trị của
nguồn nhân lực chất lượng cao và yêu cầu của quá trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đặt ra đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên tác giả mới chỉ
ra những thành tựu, hạn chế, những vấn đề đặt ra, những giải pháp trong quá
trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở thành phố Đà Nẵng.
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng u
cầu sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay của tác giả
Phạm Văn Tân, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí


7
Minh năm 2011, trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, luận văn đã đưa ra những giải
pháp để đẩy mạnh quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trí thức ở
tỉnh Lâm Đồng hiện nay của tác giả Phạm Văn Biển, bảo vệ tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2011. Luận văn đã làm rõ
những khái niệm về phát triển nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực trí
thức đồng thời chỉ ra vai trị của phát triển nguồn nhân lực trí thức đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực trí thức ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Luận văn thạc sĩ Triết học: Phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao
trong q trình hội nhập quốc tế ở Hải Phịng, của tác giả Đỗ Hoa Cương,
bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2011.
Luận văn đã chỉ ra tầm quan trọng, yêu cầu đặt ra của việc phát huy nguồn
nhân lực chất lượng cao trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam, đồng
thời trên cơ sở phân tích thực trạng phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Hải Phòng hiện nay tác giả đã đưa ra đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm

phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao trong q trình hội nhập quốc tế ở
Hải Phịng hịên nay.
Ngồi ra cịn rất nhiều bài báo bàn về vấn đề này, cụ thể như:
Chất lượng giáo dục đại học đang có bước chuyển mạnh của tác giả Anh
Tú, đăng trên báo Giáo dục và thời đại, thứ năm ngày 17/10/2013. Tiêu đề bài
báo cũng là nhận định của các đại biểu quốc tế tham dự Hội thảo Quốc tế và
Hội thảo bàn tròn của mạng lưới đảm bảo chất lượng ASEAN do Cục khảo thí
và kiểm định chất lượng khai mạc ngày 16/10 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Giảng viên trẻ - đòn bẩy nâng cao chất lượng giáo dục đại học của tác
giả Hiếu Nguyễn, đăng trên , ngày 28/12/2013,
bài báo đã khẳng định giảng viên trẻ là nguồn lực vô cùng quan trọng trong
các trường đại học, cao đẳng. Song tác giả cũng chỉ ra những khó khăn trong
giai đoạn đầu tiên mới bước vào nghề của đội ngũ giảng viên trẻ, do đó để


8
phát triển nguồn lực giảng viên trẻ thì ngồi sự quan tâm giúp đỡ của nhà
trường và lãnh đạo, giảng viên trẻ rất cần một môi trường năng động để hoạt
động và phấn đấu.
Đổi mới quản lí giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay của tiến sĩ
Nguyễn Khắc Bình, đăng trên Tạp chí giáo dục số 300 (kì 2 - 12/2012), trang
3, tác giả đã đưa ra một số nhận thức về kết quả đổi mới giáo dục Việt Nam
sau 2 năm thực hiện Nghị quyết 50/2010/NQ-QH12 của Quốc hội và định
hướng tiếp tục đổi mới quản lí giáo dục đại học trong thời gian tới, trong đó
nhấn mạnh quan điểm đổi mới đào tạo, bồi dưỡng và chính sách phát triển đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục.
Xây dựng và hồn thiện mơi trường giáo dục của Phó giáo sư. Tiến sĩ
Phạm Hồng Quang, đăng trên Tạp chí giáo dục số 278 (kì 2 - 1/2012), trang 2,
bài báo đã đưa ra mơ hình trường Đại học hiện đại phải gồm 9 yêu cầu cơ bản
nhằm truyền cảm hứng cho mọi thành viên, tạo ra một môi trường gồm các

giảng viên cùng nhau nghiên cứu đưa ra các chương trình, nội dung, lĩnh vực
cần nghiên cứu.
Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên đại học của Tiến sĩ. Đinh Thị
Minh Tuyết, đăng trên Tạp chí giáo dục số 250 (kì 2 - 11/2010), trang 3, bài
báo chỉ ra vai trò quan trọng của đội ngũ giảng viên và thực trạng thiếu hụt số
lượng giảng viên dẫn đến chất lượng giảng dạy chưa đạt yêu cầu của đội ngũ
giảng viên ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó tác giả khẳng định sự cần thiết
phải xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên đại học trong giai đoạn hiện
nay là một tất yếu.
Cơ hội, thách thức đối với giáo dục đại học nước ta hiện nay và yêu cầu
dân chủ hoá nhà trường của Tiến sĩ Đồng Văn Quân, đăng trên Tạp chí giáo
dục số 251 (kì 1 - 12/2010), trang 3, bài báo khẳng định trong nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dân chủ là một yếu tố quan trọng. Để đổi
mới thành công giáo dục đại học đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố - hiện đại
hoá đất nước, cần xây dựng và thực hiện dân chủ rộng rãi trong các trường đại
học, phát huy sức sáng tạo và quyền làm chủ của mỗi cá nhân trong trường


9
cũng như quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học về các sản
phẩm đào tạo và nghiên cứu khoa học của mình trước tồn xã hội.
Hai thứ “giết chết” động cơ làm việc của giảng viên của Tiến sĩ Trần
Thị Bích Liễu, đăng trên , ngày 18/6/2013 chỉ ra
quyền lực và sự thiếu minh bạch tài chính là những yếu tố giết chết động cơ
làm việc của giảng viên ở trường đại học.
Giảng viên trẻ từ chối làm thầy của tác giả Nguyễn Trọng Bình, đăng
trên vietnamnet.vn ngày 16/5/2013, bài báo đã chỉ ra những nguyên nhân
khiến giảng viên trẻ từ bỏ ước mơ làm thầy của mình như bị lãnh đạo thiếu
quan tâm, thậm chí xem thường, hay việc thu nhập không đủ sống của giảng
viên trẻ khiến giảng viên trẻ bị dao động. Từ đó tác giả kết luận rằng hãy hiểu

và quan tâm giảng viên trẻ bởi vấn đề này về lâu dài nếu chúng ta khơng tìm
phương án khắc phục sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc đổi mới và phát
triển bền vững của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá mà giáo dục được
xem là một trong những khâu quan trọng nhất.
Khó tuyển, khó giữ giảng viên trẻ của tác giả Yến Anh, đăng trên Giáo
dục - Khoa học, Chủ nhật ngày 20/11/2011, bài báo đã chỉ ra nghịch lí đang
diễn ra hiện nay trong các trường đại học là yêu cầu đòi hỏi cao đối với giảng
viên trẻ song thu nhập lại thấp, đồng thời phải chịu áp lực liên tục nâng cao
trình độ dẫn đến hiện tượng “chảy máu” giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ,
có trình độ chun mơn cao.
Tất cả các cơng trình khoa học trên phản ánh dưới nhiều góc độ khác
nhau đến phát triển nguồn lực giảng viên trẻ, song phát triển nguồn lực giảng
viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên thì chưa có đề tài nào trực tiếp bàn đến. Do
vậy, hướng nghiên cứu này vẫn cần phải tiếp tục đi sâu làm rõ cơ sở khoa học,
những yêu cầu đặt ra và những phương hướng để phát triển nguồn lực giảng
viên trẻ nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục của cả nước nói chung và
của Thái Nguyên nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng việc phát triển nguồn lực giảng


10
viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển nguồn lực giảng viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Luận văn làm rõ các khái niệm nguồn lực, nguồn lực giảng viên trẻ,
phát triển nguồn lực giảng viên trẻ. Đồng thời nêu rõ tầm quan trọng và
những nhân tố tác động đến sự phát triển nguồn lực giảng viên trẻ trong giáo

dục đại học hiện nay.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển
nguồn lực giảng viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực giảng viên
trẻ ở Đại học Thái Nguyên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nguồn lực giảng viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nguồn lực giảng viên trẻ ở Đại học Thái
Nguyên hiện nay, độ tuổi từ 22 đến 35.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nuớc Việt Nam liên quan đến phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra, tác
giả cũng kế thừa có chọn lọc những thành quả của các cơng trình nghiên cứu
của các nhà khoa học về một số vấn đề liên quan đến nội dung của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp, lịch sử và logic, đối chiếu so sánh, xử lý các số liệu thống kê…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa quan điểm của Đảng ta và các nhà khoa học về
nguồn lực giảng viên và nguồn lực giảng viên trẻ.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển có hiệu quả
nguồn lực giảng viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên giai đoạn hiện nay.


11
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn lực giảng

viên trẻ, bổ sung thêm những cơ sở khoa học có thể dùng để tham khảo trong
việc hoạch định chính sách liên quan đến vấn đề phát triển nguồn lực giảng
viên trẻ ở Đại học Thái Nguyên.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
và học tập liên quan đến nguồn lực giảng viên trẻ trong các trường, các cơ
quan chức năng ở Thái Nguyên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


12
Chương 1
NGUỒN LỰC GIẢNG VIÊN TRẺ - VAI TRÒ VÀ YÊU CẦU
CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC GIẢNG VIÊN TRẺ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. NGUỒN LỰC GIẢNG VIÊN TRẺ

1.1.1. Quan niệm về nguồn lực, nguồn lực giảng viên trẻ, phát triển
nguồn lực giảng viên trẻ
* Khái niệm về nguồn lực
Để hiểu rõ hơn về khái niệm nguồn lực giảng viên trẻ, cần tìm hiểu
một số khái niệm liên quan sau:
“Nguồn lực” hiểu theo nghĩa chung nhất là tổng hợp toàn bộ các yếu tố,
quá trình (vật chất, tinh thần) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, khái niệm nguồn lực đã bao
hàm trong mình khơng chỉ năng lực, sức mạnh đã qua, hiện có; mà cả những
năng lực, sức mạnh dưới dạng tiềm năng. Đồng thời nó cũng vạch ra khơng
chỉ yếu tố cội nguồn sản sinh, nuôi dưỡng, bồi đắp các năng lực, sức mạnh
này; mà còn thể hiện cả về mặt số lượng và chất lượng ngày càng tăng lên của

chúng. Duới dạng tổng quát, hiện nay chúng ta có các nguồn lực tham gia
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội như: nguồn vốn, nguồn đất đai,
nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ, nguồn nhân
lực. Trong các nguồn lực đó thì nguồn nhân lực đóng vai trị quan trọng nhất
trong phát triển kinh tế - xã hội. Bởi lẽ, cùng với thời gian và sự khai thác
thiếu khoa học của con người thì các nguồn lực khác có thể bị cạn kiệt nhưng
nguồn nhân lực thì ngược lại khơng những khơng bị cạn kiệt mà còn ngày
càng phát triển nếu được phát triển đúng mức. Khi nền kinh tế thế giới đang
dần chuyển sang nền kinh tế tri thức và q trình tồn cầu hố đang diễn ra
hết sức nhanh chóng thì vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với phát
triển kinh tế lại càng rõ nét hơn.


13
* Khái niệm về nguồn nhân lực
Cho dù có tên gọi khác nhau, nguồn lực con người hay nguồn nhân lực
thì giữa chúng vẫn có cùng một nghĩa. Hiện nay, khi nói về khái niệm nguồn
nhân lực (nguồn lực con người) thì có nhiều quan niệm khác nhau:
Tổ chức Ngân hàng thế giới (Worl Bank) cho rằng: Nguồn nhân lực
được hiểu là toàn bộ tiềm năng về vốn người bao gồm: thể lực, trí lực, tâm lực
mà mỗi cá nhân sở hữu. Tổ chức Liên hiệp quốc (UNESCO) thì cho rằng:
“Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và
tính sáng tạo của con người có mối quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân
và đất nước” [49, tr.08].
Trong chương trình đề tài cấp nhà nước KX - 07: “Con người Việt Nam mục tiêu động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, các tác giả đã cho rằng:
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng của một nước hay một địa
phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác
nhau) sẵn sàng tham gia vào cơng việc nào đó, tức là những người
lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp
ứng được yêu cầu của chuyển đồi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ

cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa [21, tr.269].
Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người được
hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [16, tr.328].
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII cũng khẳng định: “Nguồn lực con người là lao động có trí tuệ cao,
tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát
huy bởi một nền giáo dục tiên tiến, gắn liền với nền khoa học, công nghệ hiện
đại” [11, tr.09].
Tác giả Đoàn Văn Khái cho rằng: “Nguồn lực con người là khái niệm
dùng chỉ dân số, cơ cấu và nhất là chất lượng con người với tất cả các đặc
điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [22, tr.62].


14
Theo TS. Nguyễn Thanh:
Nguồn nhân lực, nguồn lực con người là tổng thể các chỉ số phát
triển con người mà con người có được nhờ sự trợ giúp của cộng
đồng xã hội và sự nỗ lực của bản thân, là tổng thể số lượng dân và
chất lượng con người, là tổng thể sức mạnh thể lực, trí lực, kinh
nghiệm sống, nhân cách, đạo đức, lý tưởng, chất lượng văn hóa,
năng lực chun mơn và tính năng động trong cơng việc mà bản
thân con người và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động
sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội [39, tr.75].
Có thể thấy rằng, do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên đã xuất hiện
những quan niệm khác nhau về “nguồn nhân lực”. Tuy nhiên, dù là quan niệm
khác nhau song giữa các quan niệm này cũng có điểm thống nhất đó là: Hầu
hết các tác giả đều xem xét nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng và
năng lực của con người được huy động vào quá trình lao động, sản xuất và
phát triển của mỗi quốc gia.

Như vậy, có thể hiểu: Nguồn nhân lực là khái niệm chỉ sự thống nhất
giữa số lượng dân số, cơ cấu dân số của một quốc gia, dân tộc với tất cả
những năng lực thực tế, tác phong lao động, phẩm chất đạo đức đã, đang và
sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội.
Với quan niệm trên, nguồn nhân lực được tạo bởi ba yếu tố cơ bản: số
lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực.
Số lượng nguồn nhân lực: là toàn bộ lực lượng lao động và khả năng cung
cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Số
lượng nguồn lực được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính,
sự phân bố dân cư theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. Số lượng nguồn
nhân lực đóng vai trị quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ở nước ta, số lượng nguồn nhân lực hay toàn bộ lực lượng lao động xã
hội bao gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động,


15
khơng kể đến trạng thái có hoặc khơng có việc làm.
Chất lượng nguồn nhân lực: là tổng hợp những phẩm chất, năng lực,
sức mạnh của người lao động tham gia vào quá trình lao động phát triển kinh
tế - xã hội. Nó được tạo nên bởi những yếu tố cơ bản như thể lực, trí tuệ, đạo
đức, nhân cách, lối sống, năng lực và thẩm mỹ của người lao động, trong đó
thể lực trí tuệ, đạo đức, năng lực là những yếu tố quan trọng nhất. Chất lượng
nguồn nhân lực có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu nguồn nhân lực: theo Đại từ điển Tiếng Việt “Cơ cấu” là cách
tổ chức, sắp xếp các thành phần, bộ phận quan trọng trong nội bộ nhằm thực
hiện một chức năng chung: cơ cấu kinh tế, cơ cấu tổ chức cơ quan [50,
tr.464]. Với ý nghĩa đó, cơ cấu nguồn nhân lực gồm các cơ cấu chủ yếu như:
cơ cấu nghành nghề được đào tạo, cơ cấu giới tính; cơ cấu độ tuổi, cơ cấu
theo đơn vị hành chính...

Cơ cấu ngành nghề đào tạo được quy định chủ yếu bởi cơ cấu đào tạo
lao động và cơ cấu kinh tế. Đó là một tỷ lệ nhất định những lao động đã qua
đào tạo; trung cấp, cao đẳng, đại học, trên đại học. Cơ cấu phân theo các lĩnh
vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
Cơ cấu chất lượng nguồn nhân lực: đó là tỷ lệ của nhân lực chất lượng
cao, nhân lực có chất lượng trung bình giữa các thành phần kinh tế. Cơ cấu
này đảm bảo cho từng thành phần kinh tế phát triển ổn định, đồng đều, tạo
nên sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu giới tính của nguồn nhân lực, tức là tỷ lệ lao động nam và lao
động nữ, đảm bảo hoạt động của các nghành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với lao
động nam và lao động nữ làm việc ở những ngành, lĩnh vực đó đạt kết quả cao.
Cơ cấu độ tuổi của nguồn nhân lực là tỷ lệ hợp lý giữa các nhóm lao
động tuổi cao, tuổi trung bình và tuổi thấp, đảm bảo cho nhân lực phát triển
đồng đều, liên tục, vững chắc, có sự kế thừa, không xảy ra hụt hẫng, đảm bảo
giải quyết tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hiện tại và trong tương lai.
Như vậy ta thấy, do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên đã có nhiều


16
quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cho dù có quan niệm
khác nhau, song giữa các quan niệm này cũng có điểm chính thống nhất đó là:
hầu hết các tác giả đều xem nguồn nhân lực là tổng thể những tiềm năng và
năng lực của con người được huy động vào trong quá trình lao động sản xuất
và phát triển của một quốc gia hay một địa phương.
Dựa trên những quan niệm nêu trên và gắn với góc độ nghiên cứu của
đề tài, theo chúng tơi có thể hiểu rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng
lao động xã hội của một quốc gia, một địa phương với những năng lực thể
chất, tinh thần, trình độ tri thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm
chất đạo đức, tác phong lao động...đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần thúc đẩy sự phát triển của quá trình phát

triển kinh tế - xã hội.
* Khái niệm về nguồn lực giảng viên trẻ
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu một số khái niệm liên quan:
- Khái niệm giảng viên
Khi bản về khái niệm giảng viên cũng có quan điểm khác nhau:
Theo F.EWeinert, W.Schrader & A.Helmke trên cơ sở nghiên cứu của
mình đã đưa ra 3 đặc điểm của người giáo viên bậc thầy đó là:
- Là một người có sự hiểu biết phong phú, rõ ràng trên lĩnh vực dạy học.
- Sự hiểu biết này tạo ra cho họ khả năng giải quyết các nhiệm vụ và giải
quyết được các vấn đề trong giờ học. Trên cơ sở hiểu biết ưu việt của mình, giáo
viên có khả năng giảng dạy tốt, hiệu quả, biến hóa, linh hoạt và thành công.
- Việc tiếp thu kỹ năng thuần thục địi hỏi có một sự đào tạo chun mơn,
u cầu nhiều thời gian và không thể bù đắp bằng các nỗ lực ngắn hạn được
[42, tr.42].
Để thành công trong hoạt động giảng dạy thì người giáo viên bậc thầy
phải có những năng lực gì? Theo nghiên cứu của tác giả để việc giảng dạy có
kết quả thì cần phân tích những đặc điểm quan trọng của việc giảng dạy để
tạo ra ảnh hưởng đối với việc học đó là: Phương pháp hướng dẫn; cá thể hóa;


17
giờ học có máy tính hỗ trợ; các hệ thống giáo viên phụ đạo; việc học đạt mục
tiêu; các bài tập về nhà; các phương tiện thông tin hướng dẫn; củng cố; hướng
dẫn sửa sai [42, tr.42].
Mặt khác, giáo viên bậc thầy cũng cần phải có kỹ năng thành thạo, trong
đó các thành phần nhận thức trung tâm của các kỹ năng đó là: Sự hiểu biết
gắn với việc quản lý lớp học; sự hiểu biết phương pháp dạy học; sự hiểu biết
chun mơn; thảo luận và giải thích [42, tr.42]. Từ đó các tác giả đã khẳng
định: Người giáo viên bậc thầy giỏi là một người được đào tạo tốt; có kỹ thuật
phát vấn khéo léo và có kỳ vọng cao về thành tích; tiến hành một giờ học có

kế hoạch chu đáo và được tổ chức chặt chẽ; có hành vi phù hợp với các nhiệm
vụ; nhấn mạnh việc dạy học có mục đích; có giúp đỡ hướng dẫn và tạo ra sự
phản hồi có tác động chuẩn đốn [42, tr.42].
Tác giả cịn nhấn mạnh người giáo viên giỏi là người thể hiện hành động sư
phạm được đặc trưng bởi chất lượng khác nhau hướng vào việc định hướng, điều
khiển và hỗ trợ các học sinh theo mục tiêu và phải đạt được 5 mục tiêu cơ bản
sau: 1/ Sự tăng thêm thành tích trung bình của các lớp; 2/ Tăng thêm thành tích
trong việc giải quyết vấn đề; 3/ Giảm bớt sự khác nhau về thành tích giữa các
học sinh của một lớp; 4/ Sự thay đổi về niềm tin học tập; 5/ Hình ảnh của bản
thân về năng lực cá nhân trong lĩnh vực môn học [42, tr.42].
Theo tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Nghị: Giảng viên là một cán bộ khoa
học, nắm vững các phương pháp khoa học về giảng dạy và giáo dục, biết sử
dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy, thường xuyên rèn
luyện để nâng cao trình độ, nghiệp vụ của mình, tham gia tích cực vào cơng
tác nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội [42, tr.42].
Từ đó có thể thấy: Giảng viên đại học là chủ thể của hoạt động sư phạm
trong lĩnh vực giáo dục đại học, có khả năng giảng dạy, giáo dục, nghiên cứu
và phổ biến khoa học, tổ chức các hoạt động sư phạm và tự bồi dưỡng, để
góp phần đào tạo các chuyên gia trong các lĩnh vực cho đất nước.
Như vậy, khác với giáo viên phổ thông, bên cạnh việc thực hiện các chức


18
năng giảng dạy, giáo dục và tổ chức các hoạt động sư phạm như giáo viên phổ
thơng, thì giảng viên đại học còn phải thực hiện chức năng nghiên cứu khoa
học và phổ biến khoa học (nghiên cứu khoa học phục vụ cho giảng dạy và
giảng dạy để chuyển giao kết quả nghiên cứu). Vì vậy, đối với giáo viên phổ
thông, giảng dạy nhằm cung cấp cho học sinh nền học vấn phổ thơng là chính
và trên cơ sở đó hướng nghiệp dạy nghề cho họ. Còn giảng viên đại học giảng
dạy mang tính chất chuyên sâu, theo hệ thống tri thức của một ngành khoa

học nhất định. Đào tạo nghiệp vụ nghề cho các chuyên gia trong các lĩnh vực
khác nhau của đất nước. Điều đó phần nào quy định quỹ thời gian trên lớp của
giảng viên đại học khác với giáo viên phổ thông. Thường giáo viên phổ thông
quỹ thời gian lên lớp nhiều hơn so với giảng viên đại học. Hơn nữa, do đặc
điểm đối tượng tác động của giảng viên đại học và giáo viên phổ thông khác
nhau, nên phong cách giảng dạy và phương thức hành vi ứng xử của họ cũng
mang những dấu ấn khác nhau. Ở đại học, giảng viên giảng dạy mang tính
chất hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu là chính, để hình thành tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo.
- Khái niệm về giảng viên trẻ
Từ quan niệm về giảng viên đại học đã nêu trên, có thể nêu khái quát
quan niệm về giảng viên trẻ như sau:
Giảng viên trẻ được coi là đội ngũ kế cận, tương lai của một trường đại
học, cao đẳng, là người mới vào nghề, đang trong độ tuổi thanh niên tràn đầy
nhiệt huyết, tinh thần nghề nghiệp. Giảng viên trẻ làm việc ở trường đại học phải
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cao hơn so với các nhà giáo ở bậc học khác không chỉ
do mơi trường, hay đối tượng dạy học mà cịn do chính u cầu tự thân người
giảng viên - có khả năng độc lập nghiên cứu và ứng dụng khoa học.
Giảng viên trẻ là những trí thức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đại
học. Trình độ học vấn thấp nhất là đại học và trong tương lai không xa trình
độ tối thiểu sẽ được nâng lên ở bậc cao hơn: thạc sỹ. Giảng viên trẻ là giảng
viên ở độ tuổi từ 22 đến 35, tốt nghiệp các trường Đại học trong nước hoặc


19
ngoài nước, đủ điều kiện để được tuyển chọn làm nghề giảng dạy trong các
trường đại học. Có thâm niên giảng dạy dưới 10 năm, bao gồm cả các giảng
viên trong biên chế chính thức và các giảng viên hợp đồng hoặc đang trong
giai đoạn thử việc.
Giảng viên trẻ là thế hệ của những người trẻ tuổi, là sản phẩm đích thực

của thời đại mà họ đang sống chứ khơng phải thuần túy chỉ là sản phẩm đào
tạo, bồi dưỡng của thế hệ “già”. Vì vậy họ là lớp người vô cùng năng động,
không bị động mà luôn luôn chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang
cho tương lai của bản thân mình và của quốc gia - dân tộc. Họ là những người
giàu lòng yêu nước, biết xử lý hài hịa lợi ích của bản thân trong lợi ích
chung của tập thể, cộng đồng, có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị
vững vàng, có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi , có
văn hóa và sống tình nghĩa, có sức khỏe thể chất và tinh thần lành mạnh,
giàu nhiệt huyết sáng tạo và tinh thần lành mạnh. Tuy nhiên giảng viên trẻ
còn hạn chế về kinh nghiệm trong giảng dạy nên cũng gặp nhiều khó khăn
trong cách truyền thụ tri thức.
* Quan niệm về phát triển nguồn lực giảng viên trẻ ở Đại học
Để tìm hiểu khái niệm phát triển nguồn lực giảng viên trẻ cần làm rõ
khái niệm “phát triển”; “phát triển nguồn nhân lực”.
Theo đại từ điển Tiếng Việt, “phát triển” là vận động, tiến triển theo
chiều hướng tăng lên: phát triển kinh tế, văn hóa, khơng ngừng phát triển sản
xuất’’ [50, tr.1321].
Giáo trình triết học Mác - Lênin cho rằng: “Phát triển là phạm trù triết
học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn” [20, tr.227]. Như
vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì phát triển là sự thay đổi
theo hướng đi lên cả về lượng và về chất của sự vật.
Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố hàng đầu đối với phát triển
kinh tế - xã hội. Nói đến phát triển nguồn nhân lực người ta đồng thời chú ý


20
đến các yếu tố phát triển số lượng, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực,
trong đó chất lượng được đặc biệt quan tâm. Lý luận và thực tiễn đều khẳng
định giáo dục - đào tạo là yếu tố cơ bản nhất để tạo nên chất lượng nguồn

nhân lực, vì vậy chất lượng nguồn nhân lực đã trở thành mục tiêu hàng đầu
của sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Phát triển nguồn nhân lực gồm:
- Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện
- Tự học, tự nghiên cứu
- Tuyển dụng, bố trí, đáng giá, đãi ngộ
- Kế hoạch hóa nguồn nhân lực
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực
- Sử dụng nguồn nhân lực
- Môi trường phát triển nguồn nhân lực
Khi bàn về vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa, Giáo sư Phạm Minh Hạc cho rằng:
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là tăng giá trị con
người, trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể
lực..., làm cho con người trở thành những người lao động có những
năng lực và phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to
lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước [16, tr.285].
Ở đây, phát triển nguồn nhân lực là hoạt động nhằm tạo ra nhân lực
với số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân: đó là
việc nâng cao sức khỏe, trí tuệ, đạo đức, năng lực chuyên môn, tay nghề, kĩ
năng thực hành để nâng cao năng suất lao động, thu nhập và cải thiện chất
lượng cuộc sống.
Trong cuốn “Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực con người ở Việt nam”
của TS. Nguyễn Hữu Dũng do Nhà xuất bản Lao động - xã hội phát hành
năm 2003, cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực được coi là quá trình làm


21

biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội” [11]. Đó là tổng thể
các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và
nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Với quan
niệm con người là động lực đồng thời là mục tiêu của sự phát triển thì phát
triển nguồn nhân lực khơng chỉ có mục đích làm gia tăng về thu nhập của cải
vật chất mà là mở rộng và nâng cao khả năng lựa chọn của con người đối với
môi trường xung quanh; tạo cho họ có cơ hội tiếp cận với điều kiện và mơi
trường sống tốt hơn, đồng thời qua đó tăng cường năng lực và tiềm năng của
con người phù hợp hơn với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Theo tác giả, quá trình phát triển nguồn nhân lực gồm phát triển về thể
lực, trí lực, khả năng nhận thức, tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động
xã hội và sức sáng tạo của con người.
Như vậy, mặc dù với nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về
phát triển nguồn nhân lực, song có thể hiểu: Phát triển nguồn nhân lực của
một quốc gia (vùng lãnh thổ) là quá trình tạo ra sự tăng trưởng về số lượng
và chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời tạo lập một cơ cấu nguồn nhân lực
hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng chúng để đáp ứng ngày càng tốt hơn
sự phát triển bền vững của đất nước.
Như vậy, nội dung phát triển nguồn lực giảng viên trẻ bao gồm phát
triển nguồn nhân lực về mặt số lượng, phát triển nguồn nhân lực về mặt chất
lượng, cơ cấu hợp lý và nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực
giảng viên trẻ.
Như vậy để phát triển nguồn lực giảng viên trẻ cần:
- Đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, bao gồm nhiều nội dung từ việc tăng
cường thể lực, phát triển thể chất, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
nghề nghiệp đến việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sức
sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, khả năng tham gia các hoạt động tư vấn



22
và phản biện xã hội, kinh nghiệm, kỹ năng của nguồn lực giảng viên trẻ.
- Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nguồn lực giảng viên trẻ hợp
lí, tạo động lực cho giảng viên trẻ phấn đấu vươn lên.
- Xây dựng cơ cấu nguồn lực giảng viên trẻ để cơ cấu đó hợp lý, cân
đối tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực, các khu vực,
địa phương, vùng miền.
- Phát triển nguồn lực giảng viên trẻ còn bao hàm yếu tố nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn lực giảng viên trẻ cả về số lượng, chất lượng và thời
gian sử dụng.
- Xây dựng môi trường làm việc khoa học, lành mạnh, dân chủ tạo
tinh thần thoải mái, phấn khởi để nguồn lực giảng viên trẻ nỗ lực hết mình.
Phát triển nguồn lực giảng viên trẻ nói chung và phát triển nguồn nhân
lực tri thức nói riêng đang trở thành yêu cầu thường xuyên, cấp thiết của
cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
1.1.2. Vai trò của nguồn lực giảng viên trẻ trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay
Để thấy hết được vai trò của giảng viên trẻ, trước hết chúng ta cần
hiểu được vai trò của trường đại học trong bối cảnh hiện nay
Vị thế, vai trò trường đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học
- Trường Đại học trong hội nhập quốc tế và xu thế tồn cầu hố
+ Theo sự biến đổi định hướng mà UNESCO dự đốn, vai trị nhà
trường Đại học hiện đại cần đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
(1) Là một trung tâm đào tạo chất lượng cao.
(2) Chủ yếu tiếp nhận những người có năng lực trí tuệ, có khả năng
tham gia vào các chương trình của nhà trường, quan tâm đến những vấn đề
công bằng xã hội.
(3) Một trung tâm nghiên cứu, sáng tạo, phổ biến tri thức, tích cực đưa
ra các phát minh cơng nghệ để ứng dụng vào cuộc sống.

(4) Một trung tâm bồi dưỡng cập nhật hố, hồn thiện tri thức về trình
độ nghề nghiệp cho những người đã tốt nghiệp một cách thường xuyên và có


23
nề nếp.
(5) Một trung tâm học tập có chất lượng, hiệu quả, dựa vào đó những
người tốt nghiệp có ý chí học tập suốt đời, có ý thức trách nhiệm vận dụng
kiến thức đã học phục vụ cho sự phát triển xã hội.
(6) Một trung tâm tham gia giải quyết một cách khoa học những vấn
đề của địa phương, khu vực và thế giới.
(7) Một trung tâm tư vấn khoa học cho các cấp chính quyền và các cơ
quan nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn, đáng tin cậy.
(8) Một cộng đồng gắn bó với những nguyên tắc của tự do Đại học,
tham gia tích cực vào xây dựng văn hố hồ bình.
(9) Một cộng đồng trong đó có sự hợp tác giữa công nghiệp, dịch vụ
cho sự phát triển kỹ thuật đất nước và khu vực được khuyến khích và bảo vệ
tích cực.
(10) Một nhà trường thích ứng với những nhịp điệu của cuộc sống
hiện đại với những nét riêng biệt của từng vùng và của từng nước.
Vai trò của nhà trường Đại học trong nền giáo dục hiện đại với những
yêu cầu đặt ra trên đây, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hệ thống tổ chức và
quy trình đào tạo. Nó địi hỏi các trường Đại học phải nhanh nhạy chuyển từ
đào tạo diện hẹp sang đào tạo diện rộng để phục vụ sự phát triển kinh tế - xã
hội; thích nghi và đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, các
trường Đại học cần bám sát thực tiễn, nhu cầu xã hội và tính đặc thù của các
địa phương để triển khai công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học ứng dụng
nhằm đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Từ cuối năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ

150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nền kinh tế Việt Nam đang
hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với nhiều cơ hội và
thách thức. Trên thực tế, giáo dục Việt Nam cũng đang chuyển mình theo
hướng hội nhập. Khái niệm “đổi mới” đang trở thành tâm điểm của hình ảnh


24
Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn ở các hoạt động giáo dục của các
trường Đại học, các trung tâm đào tạo khu vực và thế giới, nhằm tạo ra một
“thị trường mở” cho sự liên doanh, liên kết, mở lớp đào tạo, trường đào tạo
100% vốn nước ngoài. Đồng thời, nó cũng tạo cơ hội cho sinh viên Việt
Nam phát huy khả năng học tập và du học trong điều kiện tài chính cho
phép, đảm bảo. Bằng con đường hội nhập và đổi mới, cơ hội tiếp cận với
nền giáo dục tiên tiến, hiện đại của thế giới đã được khai thông, sự hợp tác
quốc tế được nâng cao và mở rộng nhằm hướng tới đẩy mạnh nhanh đến quá
trình hội nhập. Với phương châm hội nhập để phát triển và phát triển để tiến
tới hoà nhập, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những kiến thức, kinh nghiệm
tiên tiến của thế giới, giáo dục Việt Nam tất yếu phải lựa chọn những mẫu
hình thích hợp để từ một nền giáo dục còn nhiều non kém tiến tới hoàn thiện
hệ thống giáo dục quốc dân phát triển bền vững, từng bước xây dựng một
nền giáo dục Việt Nam tiên tiến, hiện đại, có ảnh hưởng đến tầm khu vực và
quốc tế, trên cơ sở một triết lý giáo dục bền vững, nhân văn và mang đậm
bản sắc dân tộc.
- Trường đại học với yêu cầu đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020
Bản chất của giáo dục đại học là kiến tạo tri thức và thực hành phổ
biến tri thức. Bất kỳ một hoạt động nào về giáo dục, đặc biệt là việc phát
triển đội ngũ giảng viên, các bước hoạch định nguồn nhân lực, các chiến
lược quản lý, xây dựng mơ hình, cơ cấu ngành đào tạo đều xem đấy là xuất
phát điểm cho mọi hệ thống các quy trình, các lộ trình phát triển dài hạn,

trung hạn hay ngắn hạn.
Chúng ta đang ở thế kỷ của xã hội thông tin, của tri thức hiện đại và
của nền kinh tế với những sản phẩm của nó tích hợp một hàm lượng chất
xám cao. Trong bối cảnh đó, chắc chắn phải xây dựng và phải có nền giáo
dục chất lượng, một hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại để có thể vượt qua
được các thách thức và biến chúng thành những cơ hội nhằm góp phần đưa


25
xã hội nhanh chóng nhập cuộc với các nước phát triển.
Hội nghị trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đã chỉ ra 9 nhiệm vụ và giải pháp cụ thể:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với
quá trình đổi mới giáo dục, trước hết là đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc tư duy
giáo dục.
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương
trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát
triển phẩm chất và năng lực người học.
- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp kiểm tra, thi và đánh giá
chất lượng giáo dục, đảm bảo trung thực, khách quan, chính xác, theo yêu
cầu phát triển năng lực, phẩm chất người học.
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, bảo đảm dân chủ, thống
nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục; coi
trọng quản lý chất lượng.
- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục đào tạo.
- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, tăng cường cơ sở vật chất, huy
động sự tham gia đóng góp của tồn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để

phát triển giáo dục.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, đặc
biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.
- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo
dục, đào tạo.
Như vậy, theo chúng tôi, đổi mới giáo dục đại học không chỉ phản ánh
sự thay đổi kỳ vọng của xã hội đối với giáo dục đại học mà còn là sự đáp
ứng với bối cảnh của thời đại; điều đó cũng đã dần dẫn đến sự thay đổi


×