Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Nhận thức của đảng cộng sản việt nam về lợi ích trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.26 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận Mác - Lênin khẳng định mọi hoạt động sống, lao động sản
xuất, nỗ lực và đấu tranh của con người đều liên hệ tới lợi ích. Lợi ích là nhân
tố căn bản quy định tính tích cực hay tiêu cực cả con người và xã hội. Lợi ích
là bộ phận trong chu trình chuyển hóa những u cầu khách quan của đời
sống con người và xã hội thông qua nhận thức, trở thành thành nhu cầu, từ đó
trở thành động cơ bên trong thúc đẩy thái độ, hành vi của con người và hoạt
động của xã hội nhằm cải tạo đời sống con người và xã hội. Trong xã hội có
giai cấp thì giải quyết vấn đề lợi ích, quan hệ lợi ích và xác lập thang giá trị về
vấn đề lợi ích là đặc trưng phản ánh bản chất của các giai cấp khác nhau và
của các chế độ xã hội khác nhau, cũng như quy luật vận động của xã hội trong
từng thời đại.
Để phát huy được tính tích cực hóa của tác động lợi ích với con người
và xã hội và đạt tới mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự phát triển kinh tế, còn
tỳ thuộc đáng kể vào bản chất của chế độ chính trị cũng như nhận thức và vận
dụng của lực lượng lãnh đạo xã hội về vị trí, vai trị và cách thức giải quyết
vấn đề lợi ích.
Đảng ta đã quán triệt bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, lấy thực tiễn xã hội Việt Nam làm cơ sở cho việc phát triển nhận
thức lý luận và vận dụng sáng tạo vấn đề lợi ích đã góp phần xây dung khối
đại đồn kết dân tộc, phát huy tính tích cực của con người và xã hội, đem lại
những thành quả to lớn trong công cuộc cứu nước, giữ nước trong thế kỷ XX
của nước ta.Việc thực hiện các nguyên tắc về giải quyết vấn đề lợi ích đã giúp
nhân dân ta phát huy sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong
cuộc chiến tranh chống xâm lược, đồng thời phát huy cao độ chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, vượt qua muôn vàn thử thách ác liệt, hy sinh để chiến thắng
kẻ thù xâm lược, viết nên những trang sử oai hùng nhất của dân tộc. Đó cịn là



2
những bài học kinh nghiệm vô giá cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
ngày nay.
Xuất phát từ tình hình thực tế khủng hoảng kinh tế-xã hội của đất
nước vào thập niên 80 của thế kỷ trước; xuất phát từ những khuyết điểm, sai
lầm trong lãnh đạo kinh tế của Đảng về thực hiện chế độ tập trung quan lieu,
bao cấp, sai lầm trong giải quyết vấn đề lợi ích của Đảng trong lãnh đạo xây
dựng nhà nước quản lý xã hội chưa đúng, đủ vai trò, nhiệm vụ của Nhà
nước,.v.v. và xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của lý luận Mác Lênin, đứng trước xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới cũng như
tác động của “cải cách, mở cửa” hay “cải tổ” đang diễn ra ở một số nước
XHCN, đòi hỏi chúng ta “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy”. Trong
đó có phát triển nhận thức lý luận về vấn đề lợi ích. Đó là đòi hỏi bức thiết
của đất nước và cũng là đặc tính của cách mạng, là bản chất sâu xa của chủ
nghĩa Mác - Lênin, là xu thế tất yếu của thời đại. Đảng ta tiếp tục phát triển
nhận thức lý luận về vấn đề lợi ích vừa để phát triển sản xuất, hoàn thiện quan
hệ sản xuất phù hợp, vừa hợp lòng dân, đáp ứng nhu cầu nâng cao đời sống
của nhân dân và hướng tới xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, thực trạng của đất nước với nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng
trong công cuộc đổi mới cũng cho thấy, trong nhận thức và giải quyết vấn đề
lợi ích của Đảng cũng có những hạn chế khơng nhỏ ảnh hưởng tới quá trình
thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH ở nước ta hiện nay. Về đời
sống của nhân dân trong thời kỳ đổi mới đã được nâng lên rõ rệt nhưng hệ lụy
của kinh tế thị trường cũng gây ra sự phân hóa tầng lớp xã hội ngày càng sâu
sắc, ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của một bộ phận nhân dân lao động với
vai trò của Đảng trong sự nghiệp cách mạng; Về xây dựng NNPQ XHCN và
phát huy tính tích cực hóa cá nhân và xã hội cũng xuất hiện nhiều hạn chế vì
những hạn chế trong giải quyết vấn đề lợi ích của Nhà nước. Nghị quyết ĐH
XI (2011) khẳng định: "Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm



3
trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi,
gây bức xúc xã hội" và "tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, và tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân
hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp,
nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe
dọa sự ổn định, phát triển của đất nước" [20, tr.173]. Đặc biệt, trong thời kỳ
Việt Nam hội nhập quốc tế thì nhận thức lợi ích của Đảng quyết định rất
lớn tới đường lối lãnh đãnh đạo của Đảng nhằm đảm bảo phát triển bền
vững của đất nước và tránh được các nguy cơ “đổi màu” trong thời kỳ đổi
mới, nguy cơ các tập đoàn tài phiệt hàng đầu thế giới và các nước đế quốc
xâm phạm các lợi ích cốt lõi của QGDT.
Đã có khơng ít những bài báo khoa học, những cuốn sách và nhiều đề
tài đề cập tới vấn đề lợi ích cũng như đề cập tới quá trình phát triển nhận thức
lý luận của Đảng về lợi ích. Tuy nhiên, phần lớn các cơng trình nghiên cứu đó
đều tập trung vào lợi ích kinh tế, cịn vai trị của các loại lợi ích và quan hệ lợi
ích khác với vai trị là động lực của sự phát triển xã hội theo quan điểm lý
luận Mác - Lênin thì chưa được nghiên cứu bao nhiêu.
Ngoài ra, cùng với việc nghiên cứu hệ thống lợi ích, cần thiết nhìn nhận
khoa học, đầy đủ và khẳng định giá trị của việc phát triển nhận thức lý luận về
lợi ích của Đảng đối với xây dựng Đảng và Đất nước, từ đó rút ra những vấn
đề lý luận về giải quyết vấn đề lợi ích của Đảng cũng như những bài học kinh
nghiệm quý báu trong công cuộc Đổi mới. Từ đó vạch ra dự báo và cơ chế
giải quyết vấn đề lợi ích để có thể khơi dậy tính tích cực của từng cá nhân, xã
hội và tránh nguy cơ chệch hướng XHCN của đất nước. Bởi vì tác động vào
lợi ích có thể tạo nên động lực thúc đẩy xây dựng theo hướng tiến bộ, tích cực
và cũng có thể có tác dụng kìm hãm, thậm chí phá hoại sự vận động theo

hướng tiến bộ.


4
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề về giải quyết quan hệ lợi ích và q
trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng về vấn đề lợi ích là vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cấp bách trong công tác xây dựng Đảng và nâng cao chất
lượng, hiệu quả lãnh đạo đất nước của Đảng thực hiện xây dựng xã hội định
hướng XHCN thành công, xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu:
“Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về lợi ích trong thời kỳ đổi mới”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề lợi ích và phát triển nhận thức lý
luận của Đảng trong thời kỳ đổi mới đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều
nhà lãnh đạo, quản lý, của giới lý luận trong và ngoài nước. do vậy, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này được cơng bố.
Nhóm đề tài nghiên cứu về lợi ích:
“Nhu cầu, lợi ích, giá trị”, A.G.Z. Dravamyslov, Nxb Sự thật, M.1986.
Tác phẩm đã trình bày quan niệm về lợi ích dưới góc độ lý luận Mác-Lênin,
chỉ ra đặc trưng của lợi ích, con đường hình thành, vận động và tác động của
lợi ích. Nhưng bên cạnh những đóng góp khoa học rất to lớn của tác giả thì
vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, như quan niệm của ơng cho rằng lợi ích là q
trình cải tạo thực tiễn và đời sống nhằm đáp ứng nhu cầu của con người; quan
niệm của ơng về lợi ích là xuất phát từ mục đích trong khi đó tác giả luận văn
khẳng định lợi ích xuất phát từ yêu cầu sống của thực tại khách quan đối với chủ
thể; quan niệm của ơng về con đường hình thành lợi ích là mục đích, nhu cầu, lợi
ích, động lực.
“Triết học xã hội” (tập 2), A.G. Xpi-rkin, Nxb Tuyên Huấn, Hà Nội,
1989. Tác giả A.G. Xpi-rkin có bàn về nội dung “Tiến bộ lịch sử và những
vấn đề toàn cầu của thời đại”. Đây là tác phẩm với hàm lượng tri thức khoa
học cao nhằm luận chứng cho chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, cơng trình

đã nghiên cứu sâu sắc về tiến bộ xã hội và luận giải các quan hệ lợi ích xã hội
trong xây dựng xã hội XHCN. trong cơng trình này, tác giả đã đồng nhất lợi
ích với động lực phát triển, tác giả luận văn chưa đồng ý với quan điểm này,


5
vì bản thân động lực cũng được phân chia động lực phát triển với phản động
lực, lợi ích cũng có tác động hai chiều tích cực với tiêu cực.
“Con người trong quản lý xã hội”, V.G.Afanaxep, tập 1, Trần Đại
dịch, Nxb KHXH, HN, 1979. Tác phẩm này đã chỉ ra vị trí, vai trị của lợi ích
với con người và xã hội, cũng như cơ chế quan hệ lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể và lợi ích xã hội.
“Lợi ích với tư cách là động lực phát triển xã hội”, Luận án PTS triết
học Nguyễn Linh Khiếu, 1996. Tác giả luận án đã đưa ra hệ thống khái niệm
chặt chẽ (về nhu cầu, lợi ích, động lực), phân tích mang tính hệ thống, chun
sâu về con đường hình thành lợi ích và cũng như cơ chế tác động tích cực hóa
con người và xã hội của lợi ích.
Ngồi ra, trong những năm gần đây, nhiều tác giả đã đề cập đến vấn
đề lợi ích dưới những góc độ khác nhau: Khổng Dỗn Lợi, “Lý tưởng và lợi
ích đời thường” [44, tr.8, 12]; Phạm Văn Luận, “Vấn đề lợi ích - động lực to
lớn thúc đẩy tính tích cực hoạt động của quân nhân” [45, tr.28]; Nguyễn Linh
Khiếu, “Mối quan hệ lợi ích chung và lợi ích riêng trong sự phát triển của xã
hội ta hiện nay” [28]; Nguyễn Linh Khiếu, “Mối quan hệ lợi ích vật chất và
lợi ích tinh thần trong sự phát triển của xã hội ta hiện nay” [29]; Nguyễn Linh
Khiếu, “Mối quan hệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong sự phát triển của
xã hội ta hiện nay” [30]; Lê Hữu Tầng (chủ biên), “Về động lực của phát triển
kinh tế-xã hội” [78]; Hồ Văn Thông, “Mấy vấn đề nhu cầu và lợi ích”, [84].
Nhóm đề tài liên quan đến q trình phát triển nhận thức lý luận
của ĐCS Việt Nam trong thời kỳ đổi mới:
Đổi mới tư duy và công cuộc Đổi mới ở Việt Nam, Nguyễn Duy Quý,

Nxb Khoa học xã hội, HN, 2009. Tác phẩm làm rõ bản chất của tư duy mà ta
muốn đổi mới và muốn làm được điều này phải lấy thực tiễn làm cơ sở nghiên
cứu và là thước đo đánh giá. Đổi mới tư duy là một cơ hội để tìm hiểu sâu
hơn bản chất và trình độ tư duy của chúng ta phát triển đến đâu? Nó có đáp
ứng yêu cầu mới của thực tiễn khơng? Nó cần thay đổi hay khơng và thay đổi


6
như thế nào. Tác phẩm đã phân tích rất cụ thể thực tiễn Việt Nam hiện nay
nhằm chỉ ra những yêu cầu đổi mới tư duy ở Việt Nam hiện nay trên cả hai
bình diện quản lý và vĩ mơ.
Q trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Tô Huy Rứa,
Nxb CTQG, HN, 2011. Cuốn sách đã đưa ra quan niệm, tính cấp thiết và vai trò
của đổi mới tư duy lý luận và các nguyên tắc đổi mới tư duy lý luận của Đảng.
Trong đó, tác giả đã lược khảo các văn kiện, quan điểm của Đảng để chỉ ra các
nội dung đổi mới tư duy lý luận của Đảng về lợi ích trong thời kỳ Đổi mới.
Liên quan tới nội dung nghiên cứu về phát triển nhận thức lý luận của Đảng
cịn có nhiều bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu và sách như: Đổi mới tư duy lý
luận của Đảng ta, Nguyễn Đức Tài, Nxb CTQG, HN, 2005. Tư duy lý luận với sự
nghiệp đổi mới, Trần Nhâm, Nxb CTQG, HN, 2004. Tiếp tục đổi mới tư duy lý
luận: một đòi hỏi bức xúc hiện nay, Phạm Như Cương, Nxb Hà Nội, HN, 2004.
Ở những góc độ khác nhau, các cơng trình nêu trên đã đưa ra quan niệm
về lợi ích; vai trị của vấn đề lợi ích đối với con người, xã hội; phát triển nhận
thức lý luận của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới dưới nhiều góc độ, lĩnh vực khác
nhau; định hướng sự phát triển lý luận của Đảng ta trong công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ
CNXH khoa học về sự phát triển lý luận của Đảng về lợi ích. Vì vậy, đề tài
nghiên cứu luận văn mong muốn góp phần giải quyết một vấn đề cấp bách
của lý luận và thực tiễn; đề tài nghiên cứu khơng trùng lặp với các cơng trình
khoa học đã được cơng bố trong thời gian qua.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ quá trình phát triển nhận thức lý luận của ĐCS Việt Nam về vấn
đề lợi ích và thực hiện lợi ích trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ thực chất quan niệm lợi ích, nhận thức lý luận của
ĐCS Việt Nam qua một số văn kiện của Đảng.


7
- Nghiên cứu các yếu tố quy định sự phát triển nhận thức lý luận của
ĐCS Việt Nam về vấn đề lợi ích.
- Hệ thống hóa các quan điểm của ĐCS Việt Nam về vấn đề lợi ích
trong cơng cuộc đổi mới, chỉ ra những thành tựu tiêu biểu, những vấn đề có
tính quy luật trong việc thực hiện lợi ích trên thực tiễn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: quá trình phát triển nhận thức lý luận của ĐCS
Việt Nam về vấn đề lợi ích trong cơng cuộc đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu: Phát triển nhận thức lý luận của đảng về vấn đề
lợi ích là một vấn đề lớn, phức tạp lại ln vận động và phát triển. Vì vậy, tác
giả xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu và đi sâu vào nội dung cụ thể là vấn
đề lợi ích trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận của ĐCS Việt Nam
qua một số văn kiện Đảng.
Thời gian khảo cứu là từ năm 1986 tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của ĐCS
Việt Nam được thể hiện trong văn kiện các Đại hội và các Nghị Quyết Trung
ương từ 1986 đến nay về vai trị, vị trí của vấn đề lợi ích. Các bài nói, viết của các

đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng việc vận dụng những quan điểm phương
pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, trong đó, đặc biệt chú ý các phương pháp lịch sử và lơgíc, phương nghiên
cứu hệ thống, phương pháp thống kê kinh tế - xã hội...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Đề tài có thể đóng góp những nét mới:


8
Khái quát lợi ích là một phạm trù chính trị - xã hội, và sự phát triển
nhận thức lý luận của Đảng về lợi ích trong sự nghiệp đổi mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sâu sắc thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn về quá trình phát triển nhận thức lý luận của ĐCS Việt Nam
về vấn đề lợi ích trong cơng cuộc Đổi mới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu,
giảng dạy, học tập trong các học viện, trường đại học và những người quan
tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án dự kiến gồm 2 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
NHẬN THỨC VỀ LỢI ÍCH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN

1.1. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ LỢI ÍCH

1.1.1. Các phạm trù liên hệ với lợi ích
Lợi ích ln là vấn đề liên quan đến sự sống cịn của con người và xã
hội. Vì vậy vấn đề lợi ích đã được nhiều học giả nghiên cứu từ rất sớm với
các giác độ triết học, chính trị-xã hội. Tuy nhiên, do lập trường giai cấp khác
nhau và trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau thì người ta lại có
những quan điểm khác nhau và những phương thức giải quyết khác nhau về
lợi ích.
Các triết gia trước C.Mác đã bàn nhiều về vấn đề lợi ích, nhưng do
điều kiện lịch sử, bị chi phối nhiều bởi hạn chế của lập trường giai cấp, cho
nên về cơ bản, lợi ích và đời sống của người lao động bị đẩy xuống hàng thứ
yếu, thậm chí chỉ ngang hàng với công cụ, phương tiện, hoặc phạm trù lợi ích
bị miệt thị, đối lập lợi ích với đạo đức, v.v.. thậm chí có những tư tưởng cịn
reo rắc trong đầu óc nhân dân tư tưởng bằng lịng với cái nghèo, yên lòng với
thân phận và địa vị của mình, thủ tiêu đấu tranh địi cơng bằng về lợi ích, và vì
thế con người bị mất đi vị thế là chủ thể sáng tạo trong các quá trình lịch sử.
Với quan niệm “khơng chỉ giải thích thế giới mà cái quan trọng hơn là
cải tạo thế giới” vì mục đích giải phóng và phát triển con người và xã hội
trong đời sống hiện thực, C.Mác đã đem tới cho triết học một sinh khí mới về
vấn đề con người và xã hội, vấn đề lợi ích của con người và xã hội.
Trong mối liên hệ biện chứng, phạm trù lợi ích hình thành và phát triển
ln liên hệ mật thiết với các phạm trù mục đích, phạm trù nhu cầu và phạm
trù động lực hành động. Để nhận thức được về lợi ích cần thiết nhận thức các
phạm trù đó. Nhận thức về các phạm trù liên hệ với phạm trù lợi ích khơng
những quyết định tới nhận thức về nguồn gốc, con đường hình thành của lợi


10
ích mà nó cịn quy định nội hàm của phạm trù lợi ích và cơ chế tác động của

phạm trù lợi ích.
1.1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mục đích
Về phạm trù mục đích, cuộc sống luôn đặt ra cho con người và xã hội
một trong những vấn đề cơ bản và có tác động lớn tới đời sống của con người
và xã hội là nhận thức và xác định mục đích sống, định hướng sống.
Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, con người là chủ thể của
mọi tiến trình lịch sử. Hoạt động của con người đều nhằm theo đuổi những
mục đích nhất định. Chính bằng hoạt động ấy mà con người vừa duy trì sự
tồn tại và phát triển của bản thân vừa tạo ra sự vận động của lịch sử, của xã
hội. Mục đích sống của con người và xã hội xuất phát từ yêu cầu cải tạo thực
tại khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu sống - tồn tại và phát triển của con
người và xã hội. Quan điểm này đã bác bỏ quan niệm mục đích sống-tồn tại
của con người là do ý niệm tuyệt đối hay do đấng siêu nhiên tạo ra và áp đặt
cho con người.
Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính chất đối lập của nó với
quan điểm của thuyết mục đích luận về mục đích sống của con người. Mục
đích luận (teleology) là một học thuyết triết học, cho rằng mọi vật trong tự
nhiên đều có một “mục đích cuối cùng”. Giá trị của học thuyết mục đích luận
là là đề cao hạnh phúc của lồi người, họ tìm đến ngun tắc “hạnh phúc tối
đa” bằng cách vắng mặt tối đa những đau khổ, những khối cảm phong phúc
mà quy mơ được xác định về mặt chất lượng, sau đó được xác định thông qua
những so sánh về mặt số lượng. Nhưng hạn chế của họ là đã duy tâm trong
xác định nguồn gốc của mục đích sống - tồn tại của con người, xã hội và cách
thức loại trừ đau khổ là do cảm xúc, ý thức quyết định; như họ cho rằng sự
vật tồn tại vì lợi ích của sự vật khác, mục đích tồn tại của con người là vì một
cái gì khác bản thân (như quan niệm về mối liên hệ của ý niệm với ý niệm
tuyệt đối, ý niệm với đời sống con người, hay cho rằng con người có định


11

mệnh). Về vấn đề này, C.Mác đã chỉ rõ con người có năng lực tự phát triển và
cách thức của năng lực ấy là từ lao động, hành động của con người nhằm cải
tạo thực tại vì mục đích sống - tồn tại của mình. Mục đích luận đề cao mục
đích bên trong: sự vật tồn tại với mục đích hồn thiện bản thể (như là tìm
kiếm hạnh phúc là vì đạt được hạnh phúc, khơng phải vì lý do nào khác),
nhưng không phải thông qua con đường cải tạo xã hội quyết định mà yếu tố
quyết định là cảm giác và ý thức, vì vậy họ dễ sa vào chủ nghĩa duy tâm, cụ
thể là “chủ nghĩa hoan lạc tâm lý” đối lập với cách thức dùng hoạt động sống
để cải tạo thực tại khách quan, hay như quan niệm của đạo phật về tuyệt đối
hóa cách xóa bỏ vơ minh bằng ý thức.
Mục đích thúc đẩy con người hành động. Khả năng định trước, đặt ra
mục đích trước và hoạt động nhằm đạt mục đích ấy chỉ có ở con người. “Mục
đích thực chất là hình ảnh về một kết quả mong muốn nào đó mà con người
hướng sự hoạt động của mình đạt tới nhằm có cái thỏa mãn những địi hỏi
nhất định trong q trình tồn tại và phát triển của mình” [31, tr.31].
Với tính cách là hình ảnh về một cái gì đó chưa đạt tới, thì mục đích
ln là một hiện tượng thuộc về ý thức của chủ thể. Và theo quan điểm chủ
nghĩa duy vật biện chứng thì mục ý thức chẳng qua cũng là sự phản ánh của
thế giới khách quan vào đầu óc con người, C.Mác khẳng định rằng “Ý niệm
chẳng qua chỉ là vật chất được chuyển vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi trong đó” [46, tr.28]. Như vậy nếu khơng có thực tại khách quan
nhất định thì cũng khơng thể có mục đích nhất định trong hoạt động của con
người để thoả mãn các nhu cầu sống.
Do mục đích có yếu tố chủ quan, nó là sản phẩm của ý thức nên mục đích
của chủ thể nhất định cũng phụ thuộc vào năng lực nhận thức của chủ thể, mục
đích của chủ thể tác động mật thiết tới nhận thức và biểu hiện của nhu cầu và lợi
ích của chủ thể. Trong khi đó, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng về con đường
nhận thức thì nhận thức đi từ khơng đến có, từ có ít đến có nhiều, từ chưa hồn



12
thiện đến hồn thiện dần, vậy nên mục đích cũng có sự biến đổi và các cấp độ của
nó. Mục đích là cơ sở hình thành và phân loại nhu cầu.
1.1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về nhu cầu
Nhu cầu là một hiện tượng xã hội phổ biến và cũng là một phạm trù
của triết học. “Nhu cầu là những đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của
các nhóm xã hội khác nhau hay của tồn bộ xã hội muốn có điều kiện nhất
định để tồn tại và phát triển” [78, tr.31].
Các cá thể trong giới sinh vật tồn tại bao giờ cũng gắn với nhu cầu nhất
định của chúng. Nhu cầu bắt nguồn từ nguyên lý của tồn tại vì mình và vì cái
khác của nó trong mọi sự vật hiện tượng - sự tồn tại trong tác động và chuyển
hoá của sự vật này với sự vật khác trong môi trường như là một quan hệ, một
q trình cần có nhau. Nhu cầu như một thuộc tính của giới sinh vật, đặc biệt
là ở lồi người. Với con người, nhu cầu ln luôn được nảy sinh, mở rộng và
ngày càng được nâng cao.
Nhu cầu của con người mang bản chất xã hội, ngay cả những nhu cầu
mang tính bản năng của con người cũng đó được xã hội hóa. Nhu cầu ln
nảy sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, của nền sản xuất vật
chất của xã hội. Sản xuất vật chất Nhu cầu là sự phản ánh những điều kiện vật
chất của xã hội, nó được nảy sinh và thỏa mãn trên những điều kiện vật chất
ấy. Việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng suy cho cùng
nó phụ thuộc vào tính chất của nền sản xuất xã hội.
Khi phân tích vai trị của nhu cầu trong sự phát triển của sản xuất,
C.Mác đã khẳng định rằng “khơng có nhu cầu thì khơng có sản xuất” [55,
tr.637], mặc dù chính sản xuất cũng là một nguồn gốc làm nảy sinh nhu cầu.
Vì vậy, khác với những người Đức cùng với thời mình, C.Mác bắt đầu nghiên
cứu lịch sử bằng việc xác định những tiền đề của mọi lịch sử. Và theo C.Mác:
“hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những
nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, và đó là một hành vi
lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng



13
nghìn năm về trước, người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm
duy trì đời sống con người ” [55, tr.286-287]. Như vậy, nhu cầu sống còn
(nhu cầu ăn, mặc, ở, v.v.) là những nhu cầu không thể thiếu được của con
người. Hoạt động sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu đó là một hành vi lịch sử
đầu tiên của con người.
Theo C.Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hồ của những quan hệ xã hội” [48, tr.91], tức là con người luôn tồn tại với tư
cách là một thành tố trong mối liên hệ hữu cơ nội tại với toàn bộ xã hội. Đây
cũng chính là mối quan hệ có tính chất quyết định sự tồn tại và phát triển của
từng cá nhân và cả xã hội lồi người. Vì vậy, bản thân con người là một hệ
thống mở, nó tồn tại bằng cách gắn bó hữu cơ và ln phụ thuộc vào thế giới
bên ngồi - một thế giới ln vận động và phát triển. Vậy nên hệ thống con
người tồn tại một cách vừa hồn thiện vừa khơng hồn thiện. Do tính chất này
mà nó ln trong trạng thái động. Một mặt nó ln vươn tới sự cân bằng hồn
thiện, mặt khác nó lại ln rơi vào trạng thái mất cân bằng, chưa hoàn thiện.
Trạng thái mâu thuẫn cố hữu như thế là biện chứng trong tồn tại và phát triển
của sinh giới. Trạng thái này, khi thì biểu hiện ra là sự thiếu hụt, khi lại biểu
hiện ra là sự ứ thừa một cái gì đó nơi bản thân con người trong quan hệ với
thế giới bên ngồi. Chính trạng thái mất cân bằng này của con người và hoàn
cảnh sinh sống khách quan đã làm nảy sinh những nhu cầu cụ thể của họ. Và
quá trình hoạt độnh thoả mãn những nhu cầu ấy khơng phải cái gì khác mà chính
là q trình giải quyết mâu thuẫn giữa con người và điều kiện sinh sống.
Thật vậy, nhu cầu là trạng thái đòi hỏi đáp ứng sinh tồn và phát triển,
như một thuộc tính khách quan, về những điều kiện và nhân tố ở bên ngoài
mỗi con người và trong sự tương tác giữa hai mặt đó. Theo Hêghen, nhu cầu
là cái trung gian giữa ước muốn của con người đối với sở hữu, và đối với người
khác trong gia đình và trong nhà nước. Nhu cầu xuất hiện khi những điều kiện

và nhân tố trong tự nhiên và trong xã hội có khả năng thoả mãn được những đòi
hỏi của cuộc sống sinh tồn và phát triển của con người, những cộng đồng người


14
lịch sử. Và do vậy, nhu cầu là một kiểu quan hệ xã hội thực tế, khách quan giữa
người với người, dựa trên nền tảng quan hệ kinh tế.
Nhu cầu của con người là một phạm trù có tính chất lịch sử cụ thể
nhưng lại tồn tại vĩnh viễn với đời sống, hoạt động của con người. Đặc
điểm của nhu cầu có tính chất chu kỳ (khi một nhu cầu được thỏa mãn thì
khơng có nghĩa nó sẽ mất đi, mà có thể lăp lại ở mức cao hơn.
Nhu cầu và hoạt động thực hiện nhu cầu, sáng tạo những nhu cầu
mới. Nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người chính là bản
chất xã hội và nhân văn của con người. Có thể với ý nghĩa đó mà Hêghen cho
rằng con người là một thực thể nhu cầu. Điều đó có nghĩa là con người được
cấu tạo bởi các nhu cầu. Con người còn tồn tại thì cịn nhu cầu và các hoạt
động thực hiện các nhu cầu. Nhu cầu vừa là cơ năng, vừa là động lực, vừa là
mục đích hoạt động con người. Khi con người khơng cịn khả năng đáp ứng
được nhu cầu sinh tồn thì con người phải chết, hoặc khi con người khơng có
khả năng đáp ứng được nhu cầu xã hội thì con người sẽ bị đào thải, tức là
“chết” về mặt xã hội. Chống lại nhu cầu tồn tại khách quan của con người thì
cũng sẽ bị quy luật của nhu cầu trừng phạt. còn nếu hạn chế nhu cầu hoặc đơn
giản hoá nhu cầu như trong lý thuyết tơn giáo thì sẽ rất hạ chế đối với sự phát
triển của xã hội, đó là chưa kể mặt tiêu cực có thể nảy sinh.
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, xã hội càng phát triển, trình
độ phát triển của con người ngày càng cao thì sự thoả mãn nhu cầu của con
người ngày càng phụ thuộc vào các mối quan hệ xã hội. Cùng với sự phát
triển của xã hội và sự phát triển của bản thân con người mà đến một lúc nào
đó, ở hồn cảnh nhất định, rõ ràng hoạt động thoả mãn nhu cầu của con người
khơng cịn mang tính trực tiếp nữa. Để thoả mãn nhu cầu nhất định, các chủ

thể nhu cầu buộc phải thực hiện các quan hệ xã hội khác nhằm đạt được các
đối tượng cụ thể. Thật vậy, sự tồn tại của nhu cầu vừa mang tính khả năng
tiềm ẩn vừa mang tính hiện thực. Khi nhận thức được nhu cầu, con người có
ham muốn, có động cơ về hành động.


15
1.1.2. Quan niệm về lợi ích là một phạm trù chính trị - xã hội
Sự tồn tại của nhu cầu vừa mang tính khả năng tiềm ẩn vừa mang tính
hiện thực. Khi nhận thức được nhu cầu, con người có ham muốn, có động cơ
về hành động đó thoả mãn những nhu cầu ấy. Cái thoả mãn những nhu cầu ấy,
đối với chủ thể hành động, là lợi ích. Tuy nhiên, không phải nhu cầu nào cũng
làm nảy sinh lợi ích. Chỉ những nhu cầu tất yếu, những nhu cầu cấp bách mà
những nhu cầu ấy đang ở trong tình trạng có nguy cơ khơng thể thoả mãn
được mới làm nảy sinh quan hệ lợi ích. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, không
phải khi nhu cầu chưa được thỏa mãn, hoặc khi lợi ích xuất hiện thì cái nhu
cầu làm nảy sinh ra nó sẽ khơng cịn có ý nghĩa gì và biến mất. Thực ra, nó
chỉ “chìm xuống” phía sau và luôn tồn tại với tư cách là động lực căn bản của
chủ thể. Có thể nêu quan hệ nhu cầu ở trạng thái ban đầu là: Chủ thể nhu cầu
với đối tượng thoả mãn nhu cầu. Nối giữa chủ thể nhu cầu và đối tượng thoả
mãn nhu cầu là hoạt động thoả mãn nhu cầu. Còn quan hệ nhu cầu ở trạng
thái làm nảy sinh quan hệ lợi ích là: Chủ thể nhu cầu với Lợi ích-đối tượng
thoả mãn nhu cầu. Lợi ích là mắt khâu đặc biệt quan trọng trong hoạt động
thoả mãn nhu cầu cũng như trong cơ chế dẫn dắt con người trong hoạt động
lịch sử. C.Mácviết, “Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu
để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, và
đó là hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng
như hàng nghìn năm về trước, người ta thực hiện hàng ngày hàng giờ, chỉ
nhằm để duy trì đời sống của con người”, “Tất cả những gì mà con người đấu
tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ”.

Lợi ích với ý nghĩa là một phạm trù chính trị - xã hội dùng để chỉ
những thực tại khách quan, là cái đã, đang thỏa mãn những nhu cầu cấp thiết của
con người và xã hội trong đời sống xã hội nhất định. Lợi ích có tương tác mật thiết
với mục đích, nhu cầu, động lực của chủ thể lợi ích. Trong xã hội có giai cấp, quan
hệ lợi ích ln gắn với bản chất giai cấp nhất định và quy định bản chất các tổ chức
chính trị và nhà nước cũng như chi phối quy luật vận động xã hội.


16
Nội hàm khái niệm lợi ích được biểu hiện như sau:
Thực tại khách quan ở khái niệm lợi ích được đề cập là toàn bộ những
sự vật-hiện tượng tồn tại khách quan với ý thức của chủ thể lợi ích, là sản
phẩm do hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội của chủ thể lợi ích nhằm đáp
ứng nhu cầu của chủ thể lợi ích.
Phạm trù lợi ích chỉ tồn tại khi nó được đặt trong sự tồn tại của quan hệ
lợi ích (ở khía cạnh này, lợi ích là kết quả cải tạo tự nhiên và xã hội của con
người, thông qua giải quyết các quan hệ lợi ích), nếu khơng thì nó chỉ là tác
dụng, cái có ích. Vậy nên cần phân biệt rõ ràng lợi ích với tác dụng, tránh
việc đồng nhất hai phạm trù này, bỏi lợi ích và tác dụng dễ bị đánh tráo khái
niệm nhằm phục vụ mục đích chính trị, nó sẽ tạo ra “trần lợi ích ảo”.
Lợi ích là kết quả hoạt động con người đạt được theo mục đích của chủ
thể lợi ích, là cái thỏa mãn nhu cầu và nó cũng có sự tác động ngược lại tới
mục đích và nhu cầu. Lợi ích là cơ sở để điều chỉnh, biến đổi mục đích và
nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu có thể tạo ra động lực cho chủ thể lợi ích,
nhưng lợi ích tạo ra động lực chủ yếu và có tác động tới chủ thể mạnh hơn rất
nhiều so với động lực do nhu cầu tạo ra. Lợi ích là “khâu xun xuốt” q
trình hình thành và tác động của các quy luật xã hội (nói chung). Theo Mác:
“sự cố định của lợi ích thơng qua sự phân cơng lao động và những quan hệ
giai cấp cịn hiển nhiên hơn rất nhiều so với sự cố định của những “dục vọng”
và của những “tư tưởng”” [48, tr.368].

Cần phân biệt nhu cầu với lợi ích. Từ nhu cầu đến hành vi nhằm đạt
được những mục đích nhất định trong hoạt động của con người để thoả mãn
các nhu cầu là một q trình mâu thuẫn, chuyển hố từ nhu cầu thành lợi ích,
động cơ, động lực. Vậy, lợi ích gắn bó hết sức chặt chẽ với nhu cầu. chính sự
gắn bó hết sức chặt chẽ này đã khiến một số tác giả đồng nhất chúng với
nhau. Tuy nhiên, cũng có một số tác giả lại coi nhu cầu và lợi ích là những
hồn cảnh khác nhau. Số thứ ba, nhằm tránh hai thái cực trên đây, coi lợi ích
là nhu cầu đã được nhận thức. Theo quan niệm Mác xít thì đây là những khái


17
niệm đồng loại, gần nhau, nhưng không giống nhau. C.Mácđã chỉ ra rằng,
luật pháp là sự thể hiện những lợi ích chung và nhu cầu chung, bắt nguồn từ
một phương thức sản xuất nhất định… Các thuật ngữ “nhu cầu” và “lợi ích”
được dùng với vai trị hoạt động giống nhau, nhưng rõ ràng chúng không phải
là đồng nhất. C.Mác và Ăngghen chỉ rõ: lợi ích, đó là cái móc nối các thành
viên của xã hội công dân lại với nhau. Lợi ích là cái kích thích hành vi của
con người, là động lực để phát triển sản xuất, tăng cường các hoạt động của
các giai cấp, thúc đẩy cuộc đấu tranh giai cấp, là động lực phát triển toàn xã
hội; lợi ích có tính khách quan, là phạm trù có tính chất chủ thể xác định…
Một số đặc điểm và thuộc tính đó của lợi ích, trong phạm vi nhất định nào đó
thì nó cũng là cái vốn có của nhu cầu. Điều này khiến cho lợi ích và nhu cầu
trở thành những phạm trù cùng loại. Và rõ ràng, muốn tìm hiểu rõ về lợi ích,
thì cần xuất phát từ nhu cầu, nhu cầu quyết định cái đối với chủ thể là lợi ích.
Do đó nó là cơ sở của lợi ích; cịn lợi ích, ngược lại, xuất phát từ nhu cầu, dựa
trên nhu cầu, là sự thể hiện của nhu cầu.
Lợi ích ln gắn với chủ thể nhất định và xuất phát từ thực tại khách
quan của chủ thể đó, khơng có lợi ích chung chung khơng có lợi ích xuất phát
từ “ý niệm tuyệt đối” hay từ lực lượng siêu nhiên nào cả. Lợi ích ln gắn với
chủ thể nhất định. Lợi ích khơng phải xuất phát từ “ý niệm” hay “ý niệm

tuyệt đối” như trong tư tưởng duy tâm của Hêghen, hay lợi ích thuộc về một
lực lượng nhất định trong xã hội có giai cấp. Vì lợi ích chính là những
phương thức, phương tiện tối ưu mà chủ thể lựa chọn nhằm đạt được các nhu
cầu của mình, mà mọi chủ thể cụ thể - cá nhân,tập thể, xã hội. Vì chủ thể
giành lấy chúng và sử dụng chúng tạo ra những điều kiện tốt nhất đó trực tiếp
thực hiện các nhu cầu cấp bách của bản thân. Trong ý nghĩa này, lợi ích hiện
diện là những cái đích cụ thể của những khâu trung gian tất yếu trong quá
trình hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu sống còn của con người khi những nhu
cầu ấy rơi vào hồn cảnh khơng thể trực tiếp thực hiện được. Ở một khả năng
khác, các chủ thể này chính là các chủ thể đang có những nhu cầu trước nguy cơ


18
có thể khơng thực hiện được. Lợi ích có sự thống nhất giữa thực tại khách quan
của chủ thể lợi ích với khả năng nhận thức lợi ích của chủ thể lơi ích.
Lợi ích có tính giai cấp: Trong xã hội có giai cấp, lợi ích khơng bao giờ là
đồng nhất, mà ln mang tính giai cấp. C.Mác đã phân tích một cách sâu sắc sự
tồn tại của các cá nhân và cho rằng, nó trước hết được phản ánh trong khuôn khổ
của mỗi giai cấp và mối quan hệ giữa những giai cấp đó với nhau trong một xã
hội nhất định. C.Mác viết: “toàn bộ sự phát triển lịch sử từ trước đến nay đã
chứng minh rằng những quan hệ cộng đồng mà những cá nhân của một giai cấp
tham gia trong đó, những quan hệ được quy định bởi những lợi ích chung của
họ”, mà theo C.Mác, “cá nhân” ở đây được hiểu “với tư cách là những thành
viên trong giai cấp” [46, tr.348-349]. Đấu tranh giai cấp, suy cho cùng, cũng
nhằm thoả mãn lợi ích giai cấp và của mỗi thành viên trong giai cấp ấy. Trong
các tác phẩm của mình, C.Mác và Ăngghen đã phân tích sự vận động của lợi ích
ln ln xẩy ra trong khuôn khổ giai cấp và giữa các giai cấp với nhau dựa trên
các cơ sở kinh tế - xã hội cụ thể, gắn với chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và
phân công lao động, đặc biệt là phụ thuộc vào các quan hệ giao tiếp. V.I. Lênin
cũng xác nhận rằng “cần tìm nguồn gốc của những hiện tượng xã hội trong

những quan hệ sản xuất, và phải quy những hiện tượng ấy vào lợi ích của những
giai cấp nhất định’’ [59, tr.670] và ơng cịn cảnh tỉnh: chừng nào người ta chưa
phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác, qua bất kỳ những câu
nói, những lời tuyên bố, và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tơn giáo,
chính trị xã hội, thì trước sau gì cũng là kẻ ngốc nghếch, bị người khác lừa bịp
mình về chính trị.
Lợi ích có tính lịch sử xã hội: thực chất, tính chất này chỉ là hệ quả của
hai tính chất trên, song nó lại có ý nghĩa quan trọng. Đó là quyền khơng thể
địi hỏi hưởng thụ cao hơn, thoả mãn nhu cầu cao hơn khả năng hiện thực có
được. Thật vậy, con người sáng tạo ra hoàn cảnh như thế nào thì hồn cảnh
cùng sáng tạo ra con người như thế ấy; mỗi chế độ xã hội có những hệ thống
nhu cầu riêng, cho nên cũng làm nảy sinh một hệ thống lợi ích riêng.


19
Tính chất lịch sử của nhu cầu và lợi ích không chỉ thể hiện ở sự phụ
thuộc vào điều kiện sản xuất vật chất của xã hội mà cịn có sự kế thừa, thậm
chí kế thừa một cách chậm chạp. C.Mác đưa ra tư tưởng cho rằng, những giai
đoạn và lợi ích khác nhau khơng bao giờ bị hồn tồn vượt qua mà chỉ lệ
thuộc vào lợi ích chiến thắng (tức là lợi ích của giai cấp thống trị) và vẫn tiếp
tục tồn tại lay lắt bên cạnh lợi ích đó trong hàng thế kỷ v. v.. Mặt khác, sự kế
thừa đó có tính tất yếu. Ngay cả lợi ích cá nhân, mặc dù những cá nhân luôn
luôn xuất phát từ bản thân mình, nhưng dĩ nhiên là xuất phát từ những cá nhân ở
trong khuôn khổ những điều kiện và quan hệ lịch sử nhất định, chứ không xuất
phát từ những cá nhân “thuần tuý” như những nhà tư tưởng vẫn hiểu.
Lợi ích với vai trị là động lực: Lợi ích vốn là cái tạo nên “động lực của
mọi động lực”. Mọi hoạt động của con người có mối liên hệ trực tiếp và chặt
chẽ với hai yếu tố: khả năng của con người và động lực kích thích. Cần tránh
đồng nhất hoàn toàn động lực xuất phát từ lợi ích, như ngay trong chu trình
hình thành lợi ích, khi chủ thể có mục đích và nhu cầu thì động lực đã xuất

hiện, nhưng các loại động lực lại có tác động khác nhau tới chủ thể.
Khái niệm động lực, động lực phát triển và phản động lực phát triển
vốn xuát phát từ triết học và các triết gia thường sử dụng đồng nhất khái niệm
động lực với động lực phát triển để đối lập với khái niệm phản động lực, phản
động lực phát triển.
Và các khái niệm về động lực thường phụ thuộc chặt chẽ với khái
niệm “nguồn gốc sự phát triển”. “Khi nói tới nguồn gốc hay động lực là
muốn nói tới vai trị của một yếu tố nào đó trong sự vận động phát triển
của sự vật, trong đó nguồn gốc là cái gây nên sự vận động và phát triển,
động lực là cái thúc đẩy sự phát triển ấy” [32, tr.14]; khái niệm động lực
của sự phát triển rộng hơn khái niệm nguồn gốc của sự phát triển; động lực
phát triển bao hàm cả nguồn gốc với tính cách hạt nhân lẫn các yếu tố khác
mà thơng qua đó tác dụng của nguồn gốc được tăng cường thêm, nếu
nguồn gốc là cái gây nên sự phát triển thì động lực là cái thúc đẩy, làm


20
tăng sự phát triển khi bản thân sự phát triển đó đã cú, đã nảy sinh. Nguồn
gốc sự phát triển do các yếu tố bên trong sự vật hiện tượng quyết định.
Vậy, có thể hiểu động lực là tất cả những cái đóng vai trị là ngun
nhân thúc đẩy sự vận động của một sự vật nào đó.
Trong mọi sự vận động của các sự vật-hiện tượng đều có hai xu
hướng vận động là sự tiến bộ, phát triển hoặc sự tiêu cực, phản phát triển,
vậy nên có thể hiểu động lực cũng có hai dạng, là động lực phát triển và
động lực phản phát triển, và chúng tồn tại khách quan, có quy luật vận
hành tương tác lẫn nhau. Vậy nên chủ thể động lực cần nhận thức đầy đủ,
toàn diện về động lực phát triển và động lực phản phát triển, tránh nhìn
nhận phiến diện một chiều, chỉ một loại động lực hoặc tuyệt đối hóa tác
động của một loại động lực.
Với đặc tính mối liên hệ phổ biến và phát triển của xã hội cũng như của

đời sống con người luôn tồn tại nhiều loại động lực cùng chi phối và tác động
sự vận động của con người và xã hội. Các động lực khơng có vai trị ngang
nhau mà có động lực tác động chủ yếu - quyết định và có động lực thứ yếu.
Các động lực của sự vật - hiện tượng có mối liên hệ chặt chẽ và tạo ra mô
-men lực tác động lên xu hướng vận động của sự vật hiện tượng.
Bản chất nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi
con người, là sự thu nhận tri thức vào ý thức con người thông qua hoạt
động thực tiễn. Nhận thức lợi ích cũng bao hàm nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính (lý luận) về lợi ích. Tư duy lý luận về lợi ích là hình thức
cao nhất của tư duy về lợi ích, nó chính là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan, các quy luật nhận thức lợi ích và thực hiện lợi ích một cách
gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng các khái niệm, phạm
trù, quy luật, cơ chế tác động. Nhận thức lợi ích mà đề tài nghiên cứu
thuộc tư duy lý luận chính trị khoa học là tư duy lý luận chính trị mácxít.
Về thực chất, đó là tư duy biện chứng duy vật khoa học (cả trong tự nhiên
lẫn trong xã hội) về vấn đề lợi ích.


21
1.2. QUAN HỆ LỢI ÍCH VÀ CÁC CẶP LỢI ÍCH CƠ BẢN

1.2.1. Quan hệ lợi ích
Một cá nhân cụ thể - chủ thể của lợi ích đặc thù, là chủ thể của tồn bộ
những nhu cầu, có tính chất tổng hòa giữa những nhu cầu tất yếu tự nhiên và
những nhu cầu cá nhân hóa trong quan hệ xã hội do năng lực cụ thể của chủ
thể quyết định. Nhưng trong tồn tại xã hội, như C.Máctừng khẳng định, “bản
chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”, tức là sự tồn tại của cá
nhân luôn liên hệ mật thiết với các cá nhân khác và chịu sự tác động của xã
hội. Vậy nên trong mối liên hệ ấy, mỗi bên hoạt động theo đuổi những nhu
cầu của mình và đạt được sự thỏa mãn thơng qua quá trình liên hệ, tương tác

điều chỉnh nhu cầu của nhau và kết quả là quá trình trao đổi lợi ích hay là
quan hệ lợi ích, q trình đó hàm chứa nguyên lý phát triển và liên hệ (tính
đặc thù, tính động và tính phổ biến). Q trình đó chính là quan hệ lợi ích;
quan hệ lợi ích thuộc về phạm trù ý thức xã hội; đối tượng của quan hệ lợi ích
chính là giải quyết vấn đề lợi ích giữa các chủ thể lợi ích.
Thật vậy, trong q trình thực hiện hóa nhu cầu trong quan hệ xã hội sẽ
làm này sinh quan hệ lợi ích, quan hệ lợi ích tồn tại trước, trong khi và sau
khi có lợi ích. Trong xã hội, nếu khơng có quan hệ lợi ích thì sẽ khơng có khái
niệm lợi ích, bởi nếu khơng có quan hệ lợi ích thì nó khơng cịn là lợi ích nữa
mà chỉ là cái có lợi hay cái có tác dụng đối với chủ thể trong một hồn cảnh
nhất định.
Có quan điểm cho rằng, quan hệ lợi ích là mối quan hệ khách quan
giữa các chủ thể có cùng nhu cầu giống nhau và có cùng các đối tượng thỏa
mãn nhu cầu như nhau trong việc thực hiện nhu cầu ấy. Đúng là quan hệ lợi
ích chỉ nảy sinh trên cơ sở quan hệ nhu cầu, nhưng nhu cầu và lợi ích tồn tại
rất đa dạng và phong phú, ngồi tính phổ biến của lợi ích thì nhiều khi các
chủ thể lợi ích có quan hệ lợi ích mà không cùng nhu cầu hoặc đối tượng thỏa
mãn nhu cầu, nhưng lại có sự ràng buộc, chi phối giữa các chủ thể lợi ích có
các nhu cầu và lợi ích khác nhau ở khả năng, điều kiện tạo ra lợi ích của nhau
trong xã hội.


22
Quan hệ lợi ích vừa là hình thức biểu hiện các quan hệ xã hội, vừa là
khâu xuyên suốt quá trình hình thành và tác động của các quy luật xã hội.
Một mặt thơng qua quan hệ lợi ích, con người mưu cầu đời sống; mặt khác,
thông qua quan hệ lợi ích mà xu hướng phát triển khách quan của xã hội được
thực hiện.
Quan hệ lợi ích là cơ sở và tiêu chuẩn, thang giá trị và là biểu hiện của
đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội, và trong hiến định, quan hệ luật pháp. Vai

trò quan hệ lợi ích với tổ chức xã hội - như là một sự thống nhất giữa những
cá nhân-thành viên của xã hội, dựa trên cơ sở sự thống nhất lợi ích cơ bản.
Quan hệ lợi ích ln tồn tại cùng những quan hệ xã hội, vậy nên quan
hệ lợi ích cũng tồn tại đa dạng và phong phú trong chỉnh thể các quan hệ xã
hội. Có nghĩa là, trong xã hội, mỗi cá nhân - thành viên luôn theo đuổi những
mục đích của mình nhằm đạt được lợi ích của mình. Nếu khơng có quan hệ
lợi ích với những người khác thì cá nhân khơng thể thực hiện được thỏa mãn
tồn bộ phạm vi những mục đích của mình, vì thế, quan hệ lợi ích là phương
tiện để thực hiện lợi ích của cá nhân đặc thù. Thơng qua q trình thực hiện
quan hệ với những cá nhân khác trong xã hội, mục đích của cá nhân sẽ chịu
tác động điều chỉnh, chế áp hoặc kích thích. Từ đó, quan hệ lợi ích cũng tác
động sự điều chỉnh, trao đổi, chế áp hoặc kích thích nhu cầu cá nhân, và nhận
thức lợi ích đặc thù của cá nhân, bộ phận người có thể tác động hình thành lợi
ích mới của các các nhân, bộ phận khác trong xã hội. nghĩa là lợi ích đặc thù
của cá nhân đó mang tính chất phổ biến và không những thỏa mãn nhu cầu cá
nhân mà còn thỏa mãn nhu cầu của những người khác, đó là đặc tính xã hội,
sự tương hỗ của các chủ thể lợi ích. Tính đặc thù của mục đích cá nhân đem
lại sự phong phú, đa dạng và là nguyên liệu cho quan hệ xã hội chọn lọc,
thống nhất, giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa các mục đích đặc thù. Tính
đặc thù của lợi ích cá nhân được tính phổ biến trong quan hệ lợi ích hạn chế
lại, là thước đo duy nhất, qua đó mỗi cá nhân thúc đẩy sự thỏa mãn nhu cầu
của mình trong tính xã hội.


23
Tựu chung, qua giải quyết quan hệ lợi ích đó tạo sự thiết lập một hệ
thống của sự phụ thuộc lẫn nhau toàn diện, tác động đến sự điều chỉnh mục
đích, nhu cầu của cá nhân theo hai hướng tăng lên hoặc giảm đi, từ đó lợi ích
mà cá nhân đạt được có thể đem lại hạnh phúc cho cá nhân, sự đồng thuận
của xã hội (quan hệ lợi ích tác động đến nhận thức và khả năng hiện thực hóa

lợi ích). Và những lợi ích chính đáng của cá nhân với những cá nhân khác
trong xã hội luôn đan xen, tương hỗ chặt chẽ và lợi ích của cá nhân đặt cơ sở
nền móng cho sự sinh tồn và hạnh phúc của tất cả:
Lịch sử diễn ra theo cách mà kết quả cuối cùng luôn luôn thu được
từ những xung đột của nhiều ý chí riêng biệt, hơn nữa mỗi ý chí
trong số đó trở thành cái như nó hiện có lại chính nhờ rất nhiều
những điều kiện sống đặc biệt. Như vậy, có một số vơ tận những lực
giao nhau, mỗi nhóm vơ tân những hình bình hành, vì sự đan chéo
này mà xuất hiện một hợp lực-sự kiện lịch sử [38, tr.643].
Quan hệ lợi ích cũng thể hiện q trình hiện thực hóa lợi ích của chủ
thể lợi ích là bao hàm tính hợp lợi ích và sự tương tác giữa các lợi ích, hình
thành nên các cặp lợi ích cơ bản như: lợi ích chính đáng với lợi ích khơng
chính đáng; lợi ích vật chất với lơi ích tinh thần; lợi ích chung với lợi ích
riêng (bao hàm cả lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội); lợi ích cơ bản - cốt lõi
với lợi ích khác; lợi ích kinh tế với lợi ích chính trị. Q trình thực hiện hóa
quan hệ lợi ích là quá trình chủ thể nhận thức và xác định vị trí, vai trị của
từng loại lợi ích và đặt nó trong quan hệ với các lợi ích của các chủ thể khác
trong quan hệ xã hội chi phối, nhằm tăng cường khả năng, điều kiện hiện thực
hóa lợi lích một cách tối đa, tốt nhất.
Lịch sử càng phát triển thì quan hệ lợi ích và những mâu thuẫn của nó
càng thể hiện rõ ràng và thâm nhập sâu rộng vào mọi hiện tượng xã hội, lay
động đến tất cả các tầng lớp nhân dân lao động, họ nhận thức và hành động
cách mạng mang tính tự giác: có thể họ phá bỏ những quan hệ cũ đó lỗi thời,
phản động và thiết lập các quan hệ lợi ích mới; hoặc khi trong xã hội mới tiến
bộ thì họ phát huy tính tích cực hóa con người trong xây dựng xã hội mới.


24
Phương thức thực hiện quan hệ lợi ích thực chất là giải quyết mâu
thuẫn biện chứng trong quan hệ lợi ích của các chủ thể lợi ích. Trong đó, các

chủ thể lợi ích cần phân biệt giữa mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không
đối kháng, nhận thức điều kiện của xung đột lợi ích để dự báo và giải quyết
xung đột lợi ích. Giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích giữa các chủ thể
phụ thuộc vào sự tương quan năng lực và sự chủ động của các chủ thể lợi ích.
Tính phổ biến trong giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích giữa các chủ
thể là chủ thể lợi ích nào mạnh hơn sẽ quyết định tính chủ động.
Giải quyết mâu thuẫn biện chứng trong quan hệ lợi ích trực tiếp tác
động tới hình thành động lực phản phát triển và động lực phát triển. Các chủ
thể lợi ích cần thừa nhận sự tồn tại khách quan và song trùng của động lực
phát triển và động lực phản phát triển, coi đó là cơ sở dánh giá và giải quyết
mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn khơng đối kháng. Do tính hợp lợi ích nên
sự đan xen, ràng buộc về nhiều tầng, loại hình lợi ích trong tương tác giữa các
chủ thể lợi ích nên có những quan hệ lợi ích tạo ra động lực phát triển đối với
lợi ích này nhưng lại có tác động tạo nên phản động lực đối với lợi ích khác
của chủ thể, nên tất yếu chủ thể lợi ích phải có cách thức khai thác triệt để tác
động của động lực phát triển cũng như động lực phản phát triển nhằm đạt
được sự cân bằng trạng thái cũng như sự hài hịa lợi ích.
Quan hệ lợi ích có tác động trực tiếp, bản chất tới các phạm trù chính
trị-xã hội khác, như phạm trù quyền lực, phạm trù quyền lợi với phạm trù
nghĩa vụ, phạm trù công bằng với phạm trù bình đẳng, phạm trù pháp quyền
với phạm trù đạo đức.
1.2.2. Các mối liên hệ quan hệ lợi ích cơ bản
Q trình hiện thực hóa các lợi ích ln diễn ra trong sự kết hợp lợi ích
với nhau. Các quan hệ lợi ích mang tính khách quan, có tính quy luật và cũng
được biểu hiện hết sức phong phú và đa dạng. Việc nhận thức và thực hiện lợi
ích trong mối quan hệ lợi ích lại chủ yếu là do các nhân tố chủ quan của các
chủ thể lợi ích quyết định. Do đó kết hợp lợi ích có thể hợp quy luật hoặc trái


25

quy luật vận động xã hội, và dẫn đến khả năng tạo nên động lực phát triển
hoặc phản động lực phát triển.
Sự phân loại lợi ích tuỳ thuộc vào cách tiếp cận cũng như các tiêu chí
khác nhau. Luận văn chỉ xin trình bày một số quan hệ lợi ích cơ bản:
1.2.2.1. Mối liên hệ biện chứng giữa lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần
Con người là thể thống nhất hoàn chỉnh của các cấp độ sinh học (cơ
thể), tâm lý và xã hội được hình thành nên từ hai mặt tự nhiên và xã hội. Cái
xã hội và sinh học tồn tại thống nhất, không tách rời nhau trong con người,
trong tính trừu tượng hố thì chúng mới nói lên những cực trong các thuộc
tính và hành động đa dạng của con người. Do đó, để tồn tại và phát triển con
người phải thực hiện những nhu cầu vật chất và những nhu cầu tinh thần. Lợi
ích với tư cách là các phương thức, phương tiện hướng vào sự thoả mãn các
nhu cầu của con người trong xã hội. Vì vậy, lợi ích vật chất ln tất yếu gắn
kết biện chứng với lợi ích tinh thần trong sự hình thành và phát triển thống
nhất của con người.
Lợi ích vật chất là những lợi ích tồn tại dưới dạng vật chất và dùng để
đáp ứng các nhu cầu vật chất, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển đời sống
sinh học và xã hội của con người. Còn lợi ích tinh thần là những lợi ích tồn
tại khơng phải dạng vật chất và dùng để thoả mãn các nhu cầu tinh thần,
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển đời sống tinh thần của con người.
Với lợi ích tinh thần, cần thiết phân biệt cụ thể giữa lợi ích tinh thần
có tính chất cảm tính với lợi ích tinh thần có tính chất lý tính. Lợi ích cảm
tính với lợi ích lý tính tuy cùng là lợi ích tinh thần nhưng chúng có thể thống
nhất với nhau hoặc đối lập nhau. Lợi ích cảm tính có thể xuất hiện trước, làm
cơ sở cho lợi ích lý tính, lợi ích cảm tính có thể chuyển hóa thành.
Xét cho cùng, lợi ích đầu tiên và quyết định nhất của con người, cá
nhân và xã hội trước hết phải là hướng vào đảm bảo sự tồn tại cái cơ chất mà
trên cơ sở đó mặt tinh thần nảy nở và phát triển, đó chính là lợi ích vật chất.



×