Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Phát huy nguồn lực con người trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh tuyên quang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.93 KB, 112 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người ln giữ vị trí trung tâm, là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa,
văn minh nhân loại và là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã
hội. Điều đó đã được khẳng định trong lịch sử phát triển xã hội loài người.
Ở Việt Nam, ngay từ Đại hội lần thứ III năm 1960, Đảng ta đã khẳng
định: “Con người là vốn quý nhất” [7, tr.77], Đại hội IV năm 1976, Đảng ta
đưa ra luận điểm về “Con người mới - con người làm chủ tập thể” [18, tr.64].
Đường lối đổi mới đất nước bắt đầu từ Đại hội VI (1986) khẳng định vai trò
quan trọng của NLCN và nhân cách con người XHCN trong sự phát triển kinh
tế - xã hội, đặc biệt là từ Đại hội VII Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ
vai trò động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội là con người. Chính con
người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định hiệu quả của việc
khai thác nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Từ đó đến nay Đảng ta
luôn coi con người là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời
là mục tiêu của CNXH.
Nguồn lực con người được khẳng định là có vai trò to lớn và ý nghĩa
quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như quá trình xây
dựng NTM nói riêng. Vấn đề then chốt để tạo được động lực chính là có chủ
trương, chính sách đúng đắn nhằm phát huy và khơi dậy mọi khả năng tích
cực, năng động, sáng tạo của nguồn lực con người, đồng thời hướng tính tích
cực, năng động và sáng tạo đi đúng quy luật, nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh xã hội dân chủ công bằng, văn minh.
Nông thôn là một bộ phận của mỗi quốc gia và chiếm vị trí quan trọng,
có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định và phát triển bền vững của cả nền kinh tế - xã
hội. Phát triển nơng thơn tồn diện là cơ sở vững chắc để phát triển đất nước.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm đầu tư cho khu vực nông thôn.


2


Việt Nam là một nước nơng nghiệp cịn chậm phát triển, đời sống nhân
dân còn thấp, với gần 70% dân số sinh sống ở nơng thơn. Do đó vấn đề phát
triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một vấn đề cấp bách. Q trình xây
dựng NTM nhằm mục đích xây dựng nền nông nghiệp phát triển hiện đại, bộ
mặt nông thôn thay đổi theo hướng văn minh, đời sống nhân dân được nâng
cao về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đi lên XHCN là nhiệm vụ
cực kỳ quan trọng, nhưng đồng thời cũng rất khó khăn phức tạp.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
“Thực hiện chương trình xây dựng NTM nhằm xây dựng các làng, xã, ấp, bản
có cuộc sống no ấm, văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân
cư đơ thị hóa. Phát huy dân chủ, xây dựng nếp sống văn hóa, bài trừ các tệ
nạn xã hội ở nông thôn” [15, tr.195-196]. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đại
biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ Bảy (khóa X) của Đảng ra Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm
2008 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, xác định mục tiêu xây dựng
nông thôn mới là: “xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ,
cơng bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”.
Tuyên Quang là tỉnh miền núi có trên 86% dân số sống ở nơng thơn,
trong nhiều năm qua, tỉnh đã quan tâm đến phát triển nơng nghiệp, nơng thơn
với nhiều chương trình, dự án đã được đầu tư như: Dự án Đa dạng hoá thu
nhập nơng thơn; Chương trình 134, 135; Chương trình nước sạch và vệ sinh
môi trường nông thôn; nâng cao năng lực hệ thống khuyến nơng từ tỉnh đến cơ
sở; Chương trình xuất khẩu lao động, tạo việc làm cho khu vực nông thôn,...
Bộ mặt nông thôn bước đầu thay đổi: Sản xuất nông nghiệp đã đảm bảo an
ninh lương thực, giá trị sản xuất nơng nghiệp tăng bình qn 8,1%/năm (giai
đoạn 2005 - 2010); tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 22,63% (năm 2012); kết cấu hạ
tầng được đầu tư xây dựng, điển hình là chương trình bê tơng hố đường giao



3
thơng nơng thơn; kiên cố hố kênh mương, trường học...; đời sống văn hoá,
tinh thần của nhân dân được chăm lo; cán bộ xã được đào tạo nâng cao năng
lực; an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội nông thôn được giữ vững [56].
Mặc dù vậy, nông thôn Tuyên Quang vẫn còn nhiều mặt hạn chế: các xã
chưa có quy hoạch phát triển đồng bộ; hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng
được yêu cầu đời sống của nhân dân cũng như phát triển sản xuất theo hướng
hàng hoá; phần lớn lao động chưa qua đào tạo, thiếu việc làm có thu nhập ổn
định; y tế xã nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu chăm sóc sức khoẻ ban
đầu cho người dân; cơ sở văn hố, thơng tin, giáo dục cịn hạn chế nhất là ở
các xã vùng cao, vùng sâu; vệ sinh môi trường nông thôn chưa được chú
trọng để bảo vệ sức khoẻ con người. Chính vì vậy Tun Quang cịn là một
tỉnh nghèo, có điểm xuất phát thấp, trình độ dân trí cịn hạn chế, đời sống
nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở nông thôn, miền núi. Do đó
yêu cầu phát huy mọi nguồn lực, đặc biệt là NLCN trong quá trình xây dựng
NTM trên địa bàn tỉnh càng trở nên bức thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Vì vậy tơi chọn đề tài: "Phát huy nguồn lực con người trong xây
dựng nông thôn mới ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay" làm đề tài luận văn, qua
đó nhằm góp phần nhỏ bé làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của địi hỏi trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và
văn hóa tinh thần của nhân loại đều do nguồn lực con người quyết định. Do
tầm quan trọng đặc biệt của nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế xã hội, nó địi hỏi phải phân tích một cách khoa học về giá trị lớn lao và ý
nghĩa quyết định của nguồn lực con người. Chính vì vậy đã có khơng ít tài liệu,
cơng trình khoa học trong nước và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề con người,
NLCN, vai trò NLCN trong phát triển kinh tế - xã hội, trong xây dựng NTM.
Ở nước ta, nhất là từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, khi bắt tay vào
sự nghiệp đổi mới, chúng ta càng nhận ra vai trò đặc biệt của nguồn lực con



4
người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, đã có nhiều cuộc hội thảo
khoa học, nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu. Với những công trình tiêu
biểu như: Đề tài KX - 07 - 13 “Về một số động lực phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay”, do GS Lê Hữu Tầng chủ nhiệm; “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” do PGS. TS Bùi Đình Thanh chủ nhiệm.
“Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”
của hai tác giả Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
- 1996. Các tác giả bước đầu giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân
lực trong nền kinh tế đổi mới và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở
khía cạnh giáo dục của một số nước trên thế giới, đồng thời nêu lên chính
sách phát triển nguồn nhân lực ở khía cạnh phát triển giáo dục ở Việt Nam.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, nơng thơn cũng đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu tập trung ở vấn đề phát triển CNH, HĐH nông nghiệp, nơng thơn, thực hiện
chính sách xã hội ở nơng thơn, vai trị của nơng nghiệp, nơng thơn; xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm... Đáng chú ý là các cơng trình:
GS Nguyễn Điền, “Cơng nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thơn các nước
châu Á và Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
PGS. PTS Nguyễn Đức Bách, “Những lợi ích kinh tế - xã hội tác động
đến lịng tin của nơng dân vào con đường XHCN”, Tạp chí Nghiên cứu lý
luận, số 2, 1992.
Điển hình hơn là chương trình khoa học cấp nhà nước KX-08 "Phát
triển kinh tế - xã hội ở nông thôn”, gồm 12 đề tài nhánh đã tập trung nghiên
cứu một cách toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn và xây dựng nông thôn Việt
Nam theo định hướng xã hội.
Phạm Minh Hạc (Chủ biên),“Vấn đề con người trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tác giả làm
rõ quan điểm của Đảng về vấn đề con người, vai trò của nhân tố con người
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.



5
PGS.TS Hồng Đình Cúc, “Vấn đề con người trong học thuyết Mác và
phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học số 8 - 2008.
Hồ Sĩ Quý (chủ biên), “Con người và phát triển con người trong quan
niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tác
giả tập trung trình bày và làm rõ quan niệm về con người và phát triển con
người của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Đặng Xuân Kỳ, “Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất
con người ”, Tạp chí Triết học, số 10, 2002, tác giả luận giải quan điểm của
Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người, trên cơ sở đó làm rõ quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề con người.
PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt, “Xây dựng con người và phát triển con
người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 6, 2008, tác giả đề cập đến quan
điểm của Đảng ta về con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người,
đồng thời phân tích những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con
người trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
PTS Nguyễn Văn Trung (Chủ biên), Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở
nơng thơn để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng thơn, nơng nghiệp nước ta,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
PGS.TS Vũ Văn Phúc (Chủ biên), Xây dựng nông thôn mới - những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012.
Tác phẩm tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan
trung ương, các địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng nông thôn mới,
tập trung luận giải những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về xây
dựng nông thôn mới; thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.
Tô Xuân Dân (chủ biên), Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng, Xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam: Tầm nhìn mới, tổ chức quản lý mới, bước đi mới,



6
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2013. Nghiên cứu đã cung cấp cho chúng ta
những kiến thức cơ bản về nông nghiệp, nông dân, nông thôn mới ở Việt Nam
trên một số khía cạnh: tầm nhìn, bước đi, mơ hình tổ chức, nguồn lực và một
số kĩ năng cần thiết đối với cán bộ quản lí nơng thơn mới ở cơ sở.
Nguyễn Hồng Chuyên, “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục
vụ xây dựng nông thôn mới”, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2013. Cuốn sách này
giới thiệu một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới. Trình bày chủ
trương, đường lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà nước về thực
hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nơng thơn mới. Phân tích lý luận vấn đề
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nơng thơn mới.
Đồn Văn Khái, Luận án Tiến sỹ Triết học, “Nguồn lực con người
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2000). Tác giả luận
chứng một cách có hệ thống vị trí, vai trị và đặc điểm của nguồn lực con
người với tính cách là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định của sự nghiệp
CNH, HĐH; đồng thời làm rõ một số hướng cơ bản nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả khai thác, sử dụng và phát huy nguồn lực con người ở nước ta.
Lê Quang Hoàn, Luận án Tiến sỹ Triết học, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người với việc phát huy nhân tố con người trong cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay” (2001). Tác giả đi sâu làm rõ quan điểm Hồ Chí
Minh về con người và vai trị của nhân tố con người, từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm phát huy nhân tố con người trong thực hiện CNH, HĐH…
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vai trị nguồn lực con
người trong q trình lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, nhưng
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện đầy đủ vai trị vị
trí của nguồn lực con người trong xây dựng nông thôn mới nhằm phát huy có
hiệu quả nguồn lực con người. Vì vậy tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề
này với lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải cơ sở lý luận và

thực tiễn cho việc phát huy nguồn lực con người trong xây dựng nông thôn
mới ở tỉnh Tuyên Quang.


7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng phát huy NLCN trong quá trình
xây dựng NTM ở Tuyên Quang thời gian qua, luận văn chỉ ra những thành
tựu đạt được và những hạn chế tồn tại, qua đó đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy có hiệu quả hơn nữa NLCN trong xây dựng NTM ở tỉnh
Tuyên Quang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Làm rõ quan điểm mácxít, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về con người, NLCN, vai trò của nguồn lực con
người trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về xây dựng NTM.
- Đánh giá thực trạng việc phát huy NLCN trong xây dựng NTM ở
Tuyên Quang những năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả NLCN
trong xây dựng NTM ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc phát huy nguồn lực con người trong xây
dựng nông thôn mới
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ việc phát huy nguồn lực con người trong xây
dựng nông thôn mới ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên

cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
Là cơng trình nghiên cứu triết học, luận văn dựa trên cơ sở lý luận và


8
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, đường lối của Đảng ta về vấn đề con người, nguồn lực con người,
về vai trò của nguồn lực con người trong phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn, đặc biệt vấn đề xây dựng nông thôn mới.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn tình hình xây dựng nơng
thơn mới ở tỉnh Tuyên Quang (thành tựu đạt được, hạn chế cần khắc phục), từ
thực tế điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và nguồn lực con người Tuyên
Quang, có kế thừa một số kết quả thu được của các cơng trình khoa học khác
có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các
phương pháp phân tích - tổng hợp, kết hợp lôgic với lịch sử, đi từ trừu tượng
đến cụ thể. Ngoài ra luận văn sử dụng phương pháp thu thập thơng tin trên cơ
sở thống kê, phân tích, xử lý số liệu theo phương pháp hệ thống.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng ta về con người, nguồn lực con người và vai trò NLCN trong
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có hiệu
quả NLCN trong xây dựng NTM ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
để làm tư liệu tham khảo trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh

tế - chính trị, văn hóa - xã hội của tỉnh, qua đó nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của NLCN trong xây dựng NTM ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung


9
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
VIỆC PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI

1.1.1. Quan niệm mácxít về con người
1.1.1.1. Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người
Kế thừa tư tưởng triết học về con người trong lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo ra bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người,
về bản chất con người, về quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, về
vị trí, vai trị của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại, về sự
nghiệp giải phóng con người.
Trước hết, theo triết học Mác sự tồn tại của con người không phải là
trừu tượng, chung chung mà là sự tồn tại một cách hiện thực. C.Mác đã viết:
Hoàn toàn trái với triết học cổ điển Đức là triết học từ trên trời đi
xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không
xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ,
trong tưởng tượng… để từ đó mà đi tới con người bằng xương bằng
thịt; không chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động,
hiện thực và chính cũng là xuất phát từ q trình đời sống hiện thực
của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng

và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy [27, tr.37-38].
Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người, C.Mác đã đi đến xác
định tiền đề đầu tiên của mọi tồn tại của con người và do đó là tiền đề của lịch
sử, đó là:
Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”.


10
Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức
uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi
lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những
nhu cầu đó, sản xuất ra đời sống vật chất [27, tr.40].
Như vậy, theo quan niệm của triết học Mác, tính hiện thực của con người,
bản chất của con người được thể hiện trước hết ở chỗ con người tồn tại khách
quan trong hoạt động thực tiễn của nó. Sự tồn tại của con người là tồn tại hiện
thực, hiển nhiên, cảm tính chứ khơng phải cái gì đó mang tính trừu tượng. “Con
người khơng phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở bên ngồi thế giới,
con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội” [26, tr.569].
Thứ hai, về bản chất và nguồn gốc của con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen không phủ nhận mặt tự nhiên và mặt sinh học của nó mà các ơng
thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất, sản phẩm của sự tiến hóa
lâu dài của giới sinh vật như tiến hóa luận của Đácuyn đã khẳng định.
Ph.Ăngghen cho rằng: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà
ra, cũng đã quyết định việc, con người khơng bao giờ thốt ly khỏi những đặc
tính của con vật” [29, tr.146]. Giống với mọi động vật, con người là một bộ
phận của giới tự nhiên, tìm thức ăn, nước uống từ tự nhiên, phải “đấu tranh”
để tồn tại, phải ăn uống, sinh con đẻ cái.
C.Mác và Ph.Ăngghen coi điều kiện quyết định hình thành con người là
lao động. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao
động mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là lồi vật” [29, tr.673] và “Lao động

là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến
một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo
ra bản thân con người” [29, tr.641]. Phân tích vai trị của lao động sản xuất
đối với con người, C.Mác viết:
Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tơn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu


11
tự phân biệt với súc vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình… Sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời
sống vật chất của mình [27, tr.29].
Để nhấn mạnh tính phổ biến của yếu tố xã hội trong con người C.Mác
viết: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội” [27, tr.11]. Khi nói: “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội”; thì hiểu “những quan hệ xã
hội” đó thể hiện trong hoạt động cụ thể của con người. Khơng có con người
trừu tượng, mà chỉ có những con người đang sống, hoạt động trong một xã
hội nhất định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện nhất định.
Thứ ba, C.Mác và Ph.Ăngghen xem xét con người với tư cách là thực
thể sinh học - tâm lý - xã hội.
Cái xã hội và cái sinh học tồn tại thống nhất không thể tách rời trong
con người. Khi phân biệt con người về mặt sinh học ta đi vào cấp độ tồn tại
của những quy luật cơ thể của con người. Về phương diện này, con người
biểu hiện là kẻ đại diện cho hình thức vận động sinh học của vật chất. Khi
phân tích con người về bản chất sinh học của nó, chúng ta bắt đầu từ cấp độ
hình thái học và sinh lý học, tiếp theo là từ cấu trúc tâm - sinh lý và tinh thần
của con người.

Lịch sử hình thành con người đã làm sáng tỏ sự kết hợp cơ sở sinh học
và cơ sở xã hội trong con người. Trên cơ sở đó, thơng qua hoạt động lao động,
hình thái tâm lý và lĩnh vực xã hội của con người hình thành, phát triển. Kết
quả là con người - thể thống nhất sinh học - xã hội đã hình thành.
Thứ tư, được xem xét với tư cách là nhân cách. Nhân cách hiểu theo nghĩa
rộng là tài và đức, là năng lực thể chất và tinh thần riêng của mỗi con người, đó
là sản phẩm của tất cả cái tự nhiên, cái xã hội và cái tôi ở bản thân mỗi người.


12
Mỗi cá nhân do có vị trí xã hội khác nhau mà có nhân cách khác nhau.
Nhân cách hình thành trong q trình hoạt động giao tiếp. Nói cách
khác, q trình hình thành nhân cách là quá trình xã hội hóa cá nhân. Q
trình xã hội hóa địi hỏi cá nhân phải tích cực thực sự, thể hiện trong việc phải
thường xuyên điều chỉnh hành động, hành vi, cử chỉ của mình. Đến lượt nó,
q trình này địi hỏi phát triển năng lực tự đánh giá, tự ý thức. Tự ý thức và
tự đánh giá là cốt lõi của nhân cách.
Thứ năm, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh vị trí, vai trò của con người
trong lịch sử. Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen có thể thấy con
người khơng chỉ là chủ thể của lao động sản xuất mà con người còn là chủ thể
hoạt động lịch sử, là kẻ sáng tạo ra lịch sử một cách có ý thức. Con người làm
nên lịch sử của chính mình, do đó, lịch sử là lịch sử của con người, do con
người và vì con người. Con người vừa là chủ thể của hoàn cảnh vừa là chủ thể
của mọi biến đổi hoàn cảnh. Bằng hoạt động thực tiễn năng động, sáng tạo, con
người làm thay đổi bộ mặt tự nhiên và cả bộ mặt xã hội của mình.
Với quan niệm đó, các nhà sáng lập triết học Mác khẳng định, con
người là tiền đề thường xuyên của lịch sử, vừa là sản phẩm, vừa là kết quả
thường xuyên của lịch sử.
Thứ sáu, sự nghiệp giải phóng con người, các nhà sáng lập triết học
Mác kết luận: “Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu khơng

giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt” [29, tr.406]. Theo đó, có thể nói cốt lõi
trong học thuyết Mác về con người là tư tưởng về con người, giải phóng con
người, giải phóng nhân loại.
Từ việc phân tích những biểu hiện thực tiễn của sự tha hóa bản chất con
người trong xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen kết luận:
Chỉ khi con người hiện thực là một công dân của nhà nước, một cá
nhân trong cuộc sống, trong lao động, trong quan hệ cá nhân; khi
con người nhận thức được mình, tổ chức được “những lực lượng


13
của bản thân” thành lực lượng xã hội - nghĩa là đưa con người về
với bản chất đích thực của con người thì sự nghiệp giải phóng con
người mới hồn thiện [26, tr.557-558].
Việc C.Mác và Ph.Ăngghen giải đáp các vấn đề con người khơng chỉ
nhằm mục đích xây dựng lý luận triết học về vấn đề con người, hơn thế nữa cịn
nhằm mục đích giải phóng con người. Giải phóng con người là lý tưởng cao cả
của chủ nghĩa Mác.
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng trung tâm trong luận điểm về cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tư tưởng về con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi con người là mục
tiêu, phương tiện và động lực của cách mạng. Vận dụng tư tưởng chủ nghĩa
Mác về con người vào hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã lý giải vấn đề con
người một cách gần gũi, dễ hiểu phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện với
mọi người Việt Nam.
Hồ Chí Minh định nghĩa về chữ người như sau: “Chữ người nghĩa hẹp
là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng
nữa là cả loài người” [36, tr.644]. Với định nghĩa này, bản chất con người là
có tính xã hội, là con người xã hội, là thành viên của cộng đồng xã hội. Cộng
đồng đó trong quan niệm của lịch sử dân tộc là nhà - làng - nước. Ở đây,

Người chỉ ra cụ thể hơn, rộng hơn là gia đình, họ tộc, làng xóm, dân tộc, đất
nước, nhân loại. Chỉ có trong quan hệ cộng đồng đó, trong hoạt động thực tiễn
cộng đồng thì mới có ngơn ngữ, tư duy, giao tiếp, quan niệm…, chế tạo ra
công cụ lao động và thực sự trở thành người để phân biệt với động vật. Từ đó
hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc chân chính động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Quan niệm về con người của Hồ Chí Minh vừa thể hiện rõ tính chất giai
cấp, tính chất lịch sử của khái niệm đó, vừa hướng vào những giá trị chung của
con người: tự do, bình đẳng, hạnh phúc để hướng tới chân, thiện, mỹ, đạt tới lý


14
tưởng nhân bản, nhân đạo của con người. Vì vậy khái niệm con người theo Hồ
Chí Minh được hiểu một cách bao trùm lên các khái niệm riêng như quần
chúng, nhân dân, đồng bào…nhưng đó khơng phải là con người trừu tượng mà
là con người cụ thể, cảm tính, hiện thực đang sống, tồn tại.
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống
nhất về thể lực, tâm lực, trí lực và hoạt động.
Hồ Chí Minh khẳng định con người mang bản chất xã hội - lịch sử, vừa
là sản phẩm, đồng thời là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất
tinh thần trong xã hội; con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát
triển xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: Con người ta muốn sống thì phải có ăn,
mặc, ở, đi lại, muốn vậy thì phải lao động. Tất cả của cải vật chất trong xã hội
đều do những người lao động làm ra. Muốn lao động sản xuất thì con người
phải liên kết với nhau trong tập thể, cộng đồng.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
như sau: Con người là một chỉnh thể thống nhất về thể lực, tâm lực, trí lực và
hoạt động, mang bản chất xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ
các giá trị vật chất tinh thần trong xã hội.
Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố thúc đẩy xã hội
phát triển, quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng, vì vậy người ln

khẳng định vai trị và sức mạnh của nguồn lực con người. Hồ Chí Minh nói:
“Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân” [39,
tr.276]. “Chúng ta phải quý trọng con người, nhất là cơng nhân, vì cơng nhân
là vốn q nhất của xã hội” [40, tr.373]. “Phải biết quý trọng sức người vì sức
người là vốn quý nhất của ta” [41, tr.313]. Như vậy có thể thấy đối với Hồ
Chí Minh có dân là có tất cả, mọi việc muốn thực hiện được phải bắt đầu từ
vốn con người, nếu xem khinh việc sử dụng vốn con người sẽ là một sai lầm
to lớn, rất có hại, có quan hệ đến việc thành hay bại của cách mạng.
1.1.1.3. Quan điểm của Đảng ta về nguồn lực con người
Trong quá trình thực tiễn của cách mạng Việt Nam, nhận thức rõ vị trí,


15
vai trò to lớn của NLCN, dưới sự soi sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, NLCN, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn đặt vấn đề con người, phát huy
NLCN vào vị trí trung tâm, coi đó là điều kiện quyết định của mọi thắng lợi,
điều đó ln được thể hiện và khẳng định trong các kỳ Đại hội của Đảng,
Đảng ta nhận định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con
người Việt Nam; rằng nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh
của dân tộc Việt Nam.
Đại hội lần thứ III năm 1960, Đảng ta đã khẳng định: “Con người là
vốn quý nhất” [7, tr.77]; Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đưa ra luận điểm về
“Con người mới - con người làm chủ tập thể” [18, tr.64]; ĐH VI của Đảng
diễn ra vào tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới tồn
diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội đã khẳng định vai trò quan trọng của “nhân tố con người” trong toàn
bộ sự phát triển kinh tế - xã hội: “phát huy yếu tố con người và lấy việc phục
vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” [8, tr.86]. Đó là một
bước ngoặt về chất trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển con người bằng

cách mở rộng cơ hội phát triển cho các cá nhân và cộng đồng xã hội, tạo ra
một môi trường khuyến khích tính chủ động sáng tạo của họ trong các hoạt
động kinh tế - xã hội.
Tinh thần này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII của Đảng năm
1991: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm cơng bằng, bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các yêu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội” [10, tr.13]. Đại hội cũng đã chú trọng đến chất lượng của NLCN khi
chỉ rõ, phải coi trọng “đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội


16
ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Đặc biệt coi
trọng đội ngũ cơng nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà
quản lý giỏi và những nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao” [10, tr.15-16].
Có thể nói đây là bộ phận tinh túy nhất của nguồn lực con người.
Đại hội VIII Đảng đã khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [12, tr.85]. Đại
hội VII của Đảng đã coi trọng nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất
trong phát triển. Nhưng phải đến Đại hội VIII thuật ngữ “nguồn lực con
người” mới chính thức được sử dụng, đồng thời trở thành một trong những
định hướng lớn của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Như
vậy, NLCN được xem như nguồn động lực chủ yếu, có ý nghĩa quyết định để
phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có
hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày càng cao mới đáp ứng được u cầu của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Trung ương 2 và Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)
đều nhấn mạnh đến những phẩm chất cơ bản của con người mới mà chúng
ta cần xây dựng để phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là những con người phát triển toàn diện cả
về đức và tài, phát triển về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, có khả năng
lao động giỏi, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều
cần nhấn mạnh là chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa đến giáo dục lý
tưởng chính trị, đạo đức, phẩm chất và nâng cao tính cơng dân cho đội ngũ
lao động mới, tạo điều kiện để họ thực hiện đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm công dân với chế độ xã hội chủ nghĩa, trước nhân dân, dân tộc
và thời đại. Cần kế thừa và phát huy những giá trị tích cực và tiến bộ của
con người Việt Nam trong truyền thống lịch sử của dân tộc, đồng thời, phê
phán những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng
và phát triển con người. Trong đó Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) một


17
lần nữa khẳng định:
Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trị quyết định, đặc biệt
đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cịn
hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, tay nghề
thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát
huy bởi nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học hiện
đại [13, tr.11].
Chiến lược xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước liên quan chặt chẽ với nhau. Nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định việc sử dụng các nguồn lực khác. Đại hội IX Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định: “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố” [14, tr.201]. Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX) đã khẳng định quyết
tâm của Đảng ta về việc triển khai thực hiện quan điểm phát triển giáo dục,
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Một trong những vấn đề cấp
bách hiện nay là nâng cao giáo dục toàn diện và chú trọng hiệu quả kinh tế xã hội của giáo dục và đào tạo.

Đến Đại hội X, với mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn liền với kinh tế tri thức. Để thực hiện được mục tiêu này phải “phát triển
nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành”. Đây là
lần đầu tiên thuật ngữ “nguồn nhân lực chất lượng cao” [15, tr.96] được sử
dụng trong Văn kiện Đảng, nó thể hiện được bước phát triển mới trong nhận
thức của Đảng ta, đồng thời phù hợp với xu thế của thời đại.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản và định hướng lớn về chiến lược
con người, trong Đại hội lần thứ XI, Đảng ta chọn 1 trong 3 khâu đột phá để
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là: “phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào
việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ


18
phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”
[17, tr.106]. Đặt yêu cầu gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn lực con người với
phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ là một nội dung mới, thể hiện
tính hướng đích của phát triển nguồn lực con người.
Đại hội XI cũng xác định rõ:
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lí giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao
động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn [17, tr.130].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định:
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ

thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ
của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng
dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng
u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức
khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc
tế chân chính [17, tr.76 -77].
Ở mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, quan điểm của Đảng về nguồn lực
con người được bổ sung, hoàn thiện dần cho phù hợp với yêu cầu mới. Trong
tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước, Đảng đã nhận thức ngày càng đầy đủ và đúng đắn hơn về


19
vai trò của nguồn lực con người cũng như tầm quan trọng của việc phát huy
nguồn lực này với tính cách là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, là sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
1.1.1.4. Quan niệm về nguồn lực con người
Ngày nay, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhiều quốc gia
trên thế giới đã đặc biệt coi trọng phát triển NLCN. Con người được xem
không đơn thuần là một khoản chi phí sản xuất, mà là nguồn lực có ý nghĩa
then chốt. Những bài học điển hình của Nhật Bản và “các con rồng” châu Á
trong quá trình phấn đấu trở thành những nước giàu mạnh trên thế giới là
những minh chứng xác thực về vai trị quyết định nổi bật của NLCN trong q
trình CNH, HĐH và phát triển đất nước. Chính con người làm nên những điều
kỳ diệu, tạo nên những thành tựu từ nhỏ đến lớn, những bước tiến nhảy vọt
trong lợi dụng và chinh phục thiên nhiên để phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ
cho yêu cầu đời sống khơng ngừng tăng lên của chính mình. Điều đó lại một
lần nữa khẳng định, con người là nguồn lực quyết định của mọi quá trình phát
triển, đồng thời con người cũng chính là mục tiêu của tiến bộ xã hội.

Để hiểu rõ được khái niệm NLCN, trước hết ta phải làm rõ khái niệm
nguồn lực. Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có tài liệu nào chính thức định
nghĩa khái niệm “nguồn lực”. Qua tìm hiểu các cách tiếp cận khác nhau về
nguồn lực, có thể thấy rằng, dưới dạng tổng quát, khái niệm “nguồn lực” được
hiểu là toàn bộ các yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ có khả năng
tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc
đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Nghĩa là, khái niệm
nguồn lực có phạm vi bao qt rộng, nó hàm chứa khơng chỉ những yếu tố đã
và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà cả những yếu tố mới ở dạng sức
mạnh tiềm năng; nó khơng chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu,
nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh; nó phản ánh khơng chỉ số
lượng mà cịn cả chất lượng các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến đổi khơng


20
ngừng của các yếu tố đó.
Việc phân loại nguồn lực tuỳ thuộc vào cách xác định các tiêu chí và ở
việc xem xét chúng trong các quan hệ nhất định. Chẳng hạn, theo tiêu chí khái
quát nhất, nguồn lực được phân thành: nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh
thần; theo quan hệ bên trong - bên ngoài, và mỗi quốc gia với tư cách là một
sự vật, thì có nguồn lực bên trong (con người, vốn trong nước, cơ sở vật chất kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý...) và nguồn lực bên ngồi (sự trợ
giúp của nước ngoài, của các tổ chức quốc tế như vốn, công nghệ, thị trường,
kinh nghiệm quản lý, ...); theo quan hệ chủ thể - khách thể, thì có nguồn lực
chủ quan (con người) và nguồn lực khách quan (tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý, vốn trong nước và nước ngồi...); theo quan hệ rộng - hẹp, thì những
yếu tố tạo nên một nguồn lực nào đó lại trở thành những nguồn lực của chính
nguồn lực đó, thí dụ: giáo dục cũng là một nguồn lực góp phần tạo nên nguồn
lực con người, hay trí tuệ cũng được coi là một nguồn lực trong NLCN; theo
quan hệ nhân - quả, thì tất cả những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát
triển xã hội đều được coi là nguồn lực. Như vậy, các tiêu chí để phân loại

nguồn lực rất đa dạng, do đó các nguồn lực cũng rất phong phú, trong đó con
người được coi là một nguồn lực. Các nguồn lực này có vai trị tác động
khơng như nhau trong tồn bộ q trình phát triển đất nước. Xét đến cùng,
nguồn lực lâu bền nhất và quan trọng nhất trong sự phát triển của mọi quốc
gia chỉ có thể là nguồn lực con người. Vì thế mà ở nhiều quốc gia, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đều hướng vào phát triển NLCN, chuyển đối tượng
khai thác vào chính bản thân con người.
Khái niệm “nguồn lực con người” được sử dụng từ những năm 70 ở
nhiều nước phương Tây và một số nước châu Á, và giờ đây khá thịnh hành
trên thế giới dựa trên quan niệm mới về vai trị, vị trí con người trong sự phát
triển. Ở nước ta, khái niệm này được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu
thập niên 90 đến nay. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này chưa có tài liệu nào
chính thức đưa ra định nghĩa về khái niệm “NLCN”, mặc dù các bài viết về


21
NLCN, về NNL, về tài nguyên con người, cũng không phải ít.
Tìm hiểu các nghiên cứu gần đây, tơi thấy quan niệm về nguồn lực con
người khá đa dạng, được đề cập đến từ những góc độ khác nhau. Trong lý
luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng
đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực
lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất
lao động và tiến bộ xã hội. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là lực
lượng lao động cơ bản của xã hội. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con
người được nhìn nhận như một phương tiện chủ yếu, bảo đảm tốc độ tăng
trưởng sản xuất và dịch vụ.
Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một loại vốn
(vốn người, “tư bản người”), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất
và kinh doanh. Với cách tiếp cận này, Ngân hàng Thế giới cho rằng, NLCN
được hiểu là toàn bộ vốn người (thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá

nhân sở hữu. Như vậy, NLCN ở đây được coi như một nguồn vốn bên cạnh các
loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, ...
Liên Hiệp Quốc cũng có cách tiếp cận tương tự khi cho rằng NLCN là
tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự
phát triển của đất nước. Quan niệm này xem xét nguồn lực con người chủ yếu
ở phương diện chất lượng con người và vai trị, sức mạnh của nó đối với sự
phát triển xã hội.
Ở nước ta, các nhà khoa học tham gia chương trình khoa học - cơng
nghệ cấp Nhà nước: “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội” mang mã số KX-07 do GS. TSKH Phạm Minh Hạc làm
chủ nhiệm, cho rằng NLCN được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao
gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất [20,
tr.328]. Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học - công nghệ
các tỉnh, thành phố phía Bắc, khi đề cập đến vấn đề tăng cường sự hợp tác


22
giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học - cơng nghệ và các cơ quan
Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong lời
phát biểu của mình, nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải cũng khẳng định:
“Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với
truyền thống của dân tộc ta” [25, tr.1].
Từ một số cách tiếp cận và với những nội dung nêu trên, có thể nói
rằng NLCN khơng chỉ là lực lượng lao động hay nguồn lao động mà là một
tập hợp các yếu tố. Dưới dạng tổng quát, tôi cho rằng “nguồn lực con người”
là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với
tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội. Với cách hiểu
như vậy, khái niệm “NLCN” có nội dung rộng lớn, nó bao gồm những mặt cơ
bản sau:
Thứ nhất, lịch sử loài người trước hết là lịch sử lao động sản xuất, vì

vậy khái niệm “NLCN” trước hết cũng được biểu hiện ra là người lao động, là
lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động), là
nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có trong tương lai gần). Từ
khía cạnh này, có thể hiểu rằng khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực con
người trước tiên là tạo việc làm và khai thác hợp lý nguồn lao động. Đồng
thời, khái niệm “NLCN” cũng phản ánh quy mô dân số thông qua số lượng
dân cư và tốc độ tăng dân số của một nước trong một thời kỳ nhất định.
Thứ hai, khái niệm “NLCN” phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ
cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong
các lĩnh vực và khu vực kinh tế, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ tuổi trong
lực lượng lao động, cơ cấu nguồn lao động dự trữ.... Cơ cấu dân cư và lao
động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh NLCN.
Thứ ba, khái niệm “NLCN” phản ánh chủ yếu phương diện chất lượng
dân số, đặc biệt là chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và trong
tương lai gần (dưới dạng tiềm năng), thể hiện qua hàng loạt yếu tố. Đó là: sức


23
khoẻ cơ thể và sức khoẻ tâm thần, mức sống, tuổi thọ, trình độ giáo dục và
đào tạo về văn hố và chun mơn nghề nghiệp, trình độ học vấn, trình độ
phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi, kỹ năng lao động,
văn hố lao động, các khía cạnh tâm lý, ý thức, đạo đức, tư tưởng, tình cảm,
tính cách, lối sống, v.v., trong đó trí lực, thể lực, đạo đức là những yếu tố quan
trọng nhất. Nghĩa là, nói đến nguồn lực con người là phải nói đến sức lao
động (thể lực và trí lực) của con người, nói đến chất lượng con người, bao
gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái
độ và phong cách làm việc.... Nói cách khác, đó là tồn bộ những năng lực và
phẩm chất sinh lý - tâm lý - xã hội của con người tạo nên nhân cách trong mỗi
cá nhân. Phát huy NLCN chính là ni dưỡng và khai thác có hiệu quả những
năng lực và phẩm chất đó.

Thứ tư, khái niệm “NLCN” cịn hàm chứa cả sự liên hệ, tác động lẫn
nhau giữa các yếu tố nội tại trong nó; sự ảnh hưởng qua lại giữa nguồn lực
con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, giữa nguồn NLCN
với các nguồn lực khác. Mặt khác, nó cũng nói lên sự biến đổi và xu hướng
của sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng lao động.
Thứ năm, khái niệm “NLCN” còn chỉ ra rằng con người được xem xét
với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một nguồn lực, cũng như các nguồn lực
khác, con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát
triển của một quốc gia, dân tộc. Song NLCN khác các nguồn lực khác ở chỗ,
có nó, các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực,
vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực. Mặt khác, nó khơng chỉ là chủ thể
quyết định sự vận động và phát triển xã hội, mà còn là khách thể của các quá
trình kinh tế - xã hội. Sức mạnh của NLCN biểu hiện qua sức mạnh của thể
lực, trí lực, niềm tin, ý chí... của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng không chỉ
trong thực tế mà còn ở dạng tiềm năng. Những nhân tố trên có quan hệ hữu cơ


24
và trong điều kiện ngày nay, trí lực có vai trị đặc biệt quan trọng. Vì vậy, cần
xem xét con người với tất cả hiện trạng, tiềm năng, đặc điểm và sức mạnh của
nó đối với sự phát triển xã hội.
Bên cạnh khái niệm “NLCN”, các khái niệm “NNL”, “ tài nguyên con
người” cũng đang được sử dụng rộng rãi. Theo các tác giả chương trình khoa
học - cơng nghệ cấp Nhà nước KX-07 thì đây là những khái niệm đều được
dịch từ cụm từ Human Resources, tuỳ cách dịch. Tuy nhiên, trong thực tế, khái
niệm “NNL” ngoài nghĩa rộng được hiểu như khái niệm “NLCN”, thường còn
được hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lao động (tổng số người đang có việc làm,
số người thất nghiệp và số lao động dự phịng), thậm chí có khi cịn được hiểu
là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động mà có khả năng lao

động). Cũng vậy, khái niệm “tài nguyên con người” còn được sử dụng với hàm
ý coi con người như một loại tài nguyên, một loại của cải quí giá và nhấn mạnh
khía cạnh khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn tài ngun này.
Tìm hiểu khái niệm “NLCN” khơng chỉ đơn thuần là tìm hiểu nội hàm
của một khái niệm. Quan niệm đúng về nguồn lực con người sẽ là cơ sở quan
trọng định hướng cho việc nuôi dưỡng, khơi dậy và phát huy tốt tiềm năng con
người, nhờ đó khai thác có hiệu quả các nguồn lực khác vì mục tiêu phát triển.
- Vấn đề phát huy nguồn lực con người (nguồn nhân lực)
Trước hết cần phân biệt khái niệm phát huy và phát triển NLCN
Theo Từ điển tiếng Việt thì phát huy được hiểu là làm cho tác dụng lan rộng
ra hoặc phát triển lên; còn phát triển là mở mang rộng rãi, làm cho tốt hơn lên.
Như vậy, phát triển NLCN được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho
con người, trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực...làm
cho con người trở thành những người lao động có những năng lực, phẩm chất
mới và cao, đáp ứng những yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội,
của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Để phát huy có hiệu quả NLCN, thì việc phát triển NLCN trong quá


25
trình đổi mới đất nước phải được tiến hành và được quản lý trên ba mặt chủ
yếu một cách đồng bộ: đào tạo, sử dụng và việc làm. Đại hội VIII của Đảng
đã chỉ ra: “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, tạo điều
kiện cho nhân dân, đặc biệt cho thanh niên có việc làm. Giải quyết tốt mối
quan hệ giữa đào tạo với sử dụng” [12, tr.16].
Có thể nói chất lượng phát triển con người là sự thay đổi về chất lượng
của NLCN, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, “là gia tăng
giá trị cho con người” (giá trị đạo đức, tinh thần, thể chất, vật chất...). Việc
phát huy NLCN trước hết phải chăm lo đầy đủ đến con người, phải đầu tư
phát triển NLCN nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân và cả

xã hội, từ đó tạo ra năng suất lao động cao. Nhà kinh tế người Mỹ Garibikơ
được giải thưởng Nôben kinh tế năm 1992 đã rút ra kết luận: Khơng có đầu tư
nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực.
Phát huy NLCN là sự biến đổi về số lượng và chất lượng NLCN được
biểu hiện qua các mặt cơ cấu, thể lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cần thiết
cho công việc; nhờ vậy mà phát triển được năng lực của họ, ổn định được
công việc làm ăn, nâng cao địa vị kinh tế - xã hội và cuối cùng là đóng góp
cho phát triển.
Thực chất, phát huy NLCN là quá trình tăng về số lượng và nâng cao
về chất lượng NLCN nhằm tạo ra quy mô và cơ cấu ngày càng phù hợp với
nhu cầu về nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng và
chất lượng ln gắn bó với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Về mặt số lượng là
tăng nguồn lao động (con người). Chất lượng bao gồm sức khoẻ, trình độ
chun mơn kỹ thuật và các phẩm chất cá nhân. Phát huy NLCN đáp ứng sự
nghiệp đổi mới đất nước bao gồm các lĩnh vực như nâng cao chất lượng dân
số, giáo dục, đào tạo, đảm bảo sức khoẻ, dạy nghề, tạo việc làm, quản lý và sử
dụng có hiệu quả NLCN, khơi dậy những khả năng về năng lực vật chất và
năng lực tinh thần của con người, hoàn thiện cả về đạo đức, tay nghề và tâm


×