1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức rõ tầm quan trọng của cơng tác tư pháp nói chung, cơng tác
xét xử nói riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam từ lâu đã ban hành nhiều chủ
trương, quyết sách quan trọng về vấn đề này như Nghị quyết Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1999),
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), Nghị quyết 08/NQ-TW ngày
2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX (2004). Đặc biệt gần đây, tại Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó đề ra nhiều
chủ trương, biện pháp tích cực về cải cách tư pháp, trong đó có cải cách về tổ
chức và hoạt động của Tòa án. Tồ án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm là một trong những đòi hỏi bức xúc hiện nay, là đòi hỏi tự
thân của nền công lý và dân chủ XHCN ở nước ta.
Hoạt động xét xử của Toà án thực chất là hoạt động áp dụng pháp luật.
Cho nên, muốn nâng cao chất lượng xét xử của Tồ án thì phải nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật ADPL nói chung và chất lượng áp dụng pháp luật
ADPL trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thơng đường bộ nói riêng. Việc áp dụng pháp luật ADPL đúng đắn,
sáng tạo, có hiệu quả khơng những là nhiệm vụ thường xuyên, chủ yếu, của
các cơ quan Tồ án mà cịn là trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của người
cán bộ Tồ án nói chung và người Thẩm phán nói riêng. Điều này có ý nghĩa
quyết định nâng cao số lượng và chất lượng các bản án, khắc phục tình trạng
2
oan sai trong hoạt động xét xử của Toà án.
Hà Nam là một tỉnh nằm ở khu vực Đồng bằng Bắc bộ, nằm giáp danh
thủ đơ Hà Nội về phía Nam, có vị trí giao thơng thuận lợi, có nhiều điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội, tốc độ đơ thị hóa diễn ra nhanh chóng,
nhưng chính điều kiện địa lý, tự nhiên, dân số cũng tác động khơng nhỏ tới
tình hình tội phạm nói chung, và tình hình vi phạm trật tự an tồn giao thơng
đường bộ nói riêng nói riêng.
Mạng lưới giao thơng của Hà Nam phát triển sớm và khá hoàn chỉnh.
Trên địa bàn tỉnh có quốc lộ 1A –- tuyến đường giao thơng Bắc –- Nam xuyên
suốt cả nước và các tuyến đường giao thông quan trọng khác như quốc lộ 21,
quốc lộ 21B, quốc lộ 38. Hà Nam tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều khu
cơng nghiệp, có cả những khu cơng nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, với số
lượng người và xe cơ giới tham gia giao thông rất lớn. Điều này, đã dẫn đến số
lượng người vi phạm luật giao thông đường bộ và tai nạn giao thông trên các
tuyến đường bộ thuộc địa bàn các huyện và thành phố ở tỉnh Hà Nam tăng
nhanh dẫn đến số lượng các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thơng đường bộ do Tịa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Hà Nam xét xử cũng
tăng nhanh trong thời gian gần đây. Việc Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Hà
Nam đã xét xử các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ đặc biệt là đưa ra xét xử lưu động tại nhiều địa bàn các xã, phường
trên địa bàn các huyện thành phố đã góp phần khơng nhỏ vào công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục các tầng lớp nhân dân thực hiện đúng các quy định
của pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ. Trong công tác xét xử, Tòa án
nhân dân cấp huyện ở Hà Nam đã xét xử các vụ án không những đảm bảo về
số lượng mà còn đảm bảo cả chất lượng. Hầu hết các bản án đều được áp
dụng đúng pháp luật, dân chủ, khách quan, thấu tình đạt lý, đúng thời hạn luật
định, có tác dụng tuyên truyền giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân
dân. Trong những năm qua, việc áp dụng pháp luật ADPL trong hoạt động xét
3
xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng
đường bộ của Tịa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Hà Nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể, đáp ứng yêu cầu về đấu tranh phịng chống tội phạm góp
phần vào việc ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn ở các huyện,
thành phố trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc ADPL để ra các bản án, quyết
định của Tòa án các cấp ở tỉnh Hà Nam vẫn cịn có những sai sót nhất định, tuy
số lượng án bị hủy, sửa không nhiều, nhưng lại ảnh hưởng đến uy tín của ngành
Tịa án, tác động tiêu cực đến lịng tin của nhân dân vào cơng lý, ảnh hưởng đến
việc đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ nói riêng.
Trước tình hình đó ngành Tịa án nhân dân tỉnh Hà Nam đã nhận thức
đúng tầm quan trọng của áp dụng pháp luật ADPL trong hoạt động xét xử,
chú trọng phát huy những kết quả đã đạt được, quyết tâm khắc phục những
tồn tại, để nâng cao vị thế của ngành, đã và đang là yêu cầu cấp bách và lâu
dài của ngành Tồ án nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nam nói
riêng trong q trình thực hiện cải cách tư pháp.
Xuất phát từ góc độ lý luận và thực tiễn trên đây, tác giả luận văn đã lựa
chọn đề tài "Áp dụng pháp luật Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các
vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ
của Tồ án nhân dânTòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Hà Nam" làm luận
văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật ADPL nói chung và áp dụng pháp luật ADPL trong
xét xử của Tịa án nhân dân nói riêng ln là vấn đề thời sự, có ý nghĩa về mặt
lý luận và thực tiễn, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Đặc biệt từ
khi đổi mới đất nước, đẩy mạnh cơng cuộc cải cách tư pháp thì các cơng trình,
bài viết về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, về áp dụng pháp luật
ADPL ngày càng tăng lên. Những cơng trình, bài viết đó đã góp phần làm
4
sáng tỏ mối liên hệ chặt chẽ giữa lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn áp
dụng pháp luật, do đó đã góp phần nâng cao chất lượng cơng tác xét xử của
ngành Toà án.
Về luận án, luận văn có các cơng trình như:
- Luận án tiến sỹ của tác giả Lê Xuân Thân: Áp dụng pháp luật ADPL
trong hoạt động xét xử của Toà án Việt Nam hiện nay - năm 2004.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Tạ Văn Hồ: Áp dụng pháp luật ADPL trong
xét xử án hình sự đối với các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam hiện nay - năm
2006.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Mạnh Toàn: Áp dụng pháp luật
ADPL trong hoạt động xét xử án hình sự của Toà án nhân dânTAND tỉnh
Thái Nguyên - năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Giàng Thị Bình: Áp dụng pháp luật ADPL
trong hoạt động xét xử án hình sự của Tồ án nhân dânTAND tỉnh Lào Cai - năm
2009...
Về bài viết có các bài như:
- Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài: “Bàn về áp dụng pháp luật ADPL trong
cơng tác xét xử” - Tạp chí Toà án số tháng 5/2005.
- Tác giả Chu Thị Vân Trang với bài: “Vai trị sáng tạo của Tồ án trong
thực tiễn áp dụng pháp luật ADPL hình sự” - Tạp chí nghiên cứu lập pháp số
27/9/2007.
Những cơng trình bài viết trên đây với nhiều góc độ khác nhau, các tác
giả đã hệ thống hoá lý luận áp dụng pháp luật ADPL nói chung, áp dụng pháp
luật ADPL trong xét xử các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thơng đường bộ nói riêng và đã đưa ra nhiều giải pháp có giá trị thực
tiễn để nâng cao chất lượng xét xử của ngành Toà án. Mặc dù, khơng thể phủ
nhận những đóng góp về lý luận và thực tiễn của những cơng trình, bài viết
liên quan đến đề tài cần nghiên cứu, song nhìn chung, chưa có cơng trình, bài
5
viết nào đề cập một cách hệ thống, đầy đủ, sâu sắc về vấn đề mà tác giả luận
văn lựa chọn với các đặc thù về dân cư, về tội phạm... Trên địa bàn tỉnh Hà
Nam, cho đến nay chưa có cơng trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu về vấn
đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ lý luận áp dụng pháp luật ADPL và
việc vận dụng trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nam.
Trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp để bảo đảm áp dụng
pháp luật ADPL trong xét xử của Tòa án nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ
- Nêu và phân tích lý luận áp dụng pháp luật ADPL như khái niệm áp
dụng pháp luật, đặc điểm áp dụng pháp luật, sự vận dụng các khái niệm này
trong áp dụng pháp luật ADPL khi xét xử vụ án án sơ thẩm các các vụ án vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
- Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật ADPL trong xét xử sơ thẩm các
vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ của
Tịa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nam, từ đó đánh giá ưu điểm, tồn tại, rút ra
nguyên nhân dẫn đến các bản án quyết định không đúng pháp luật.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật
ADPL trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thơng đường bộ của Tịa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nam nói riêng
và tồn ngành Tồ án nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc áp dụng pháp luật
ADPL trong xét xử sơ thẩm sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thơng đường bộ của Tịa án nhân dân cấp huyện ở Hà
6
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật ADPL trong xét
xử án sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thơng đường bộ của Tịa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nam.
- Về thời gian: Nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm
2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường pháp chế
XHCN, chính sách xử lý hình sự và cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết 48/NQ- TW và Nghị quyết 49/NQ- TW của Bộ Chính trị.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp diễn dịch, phương pháp logíc,
hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày một cách hệ thống và cụ thể hố thêm một số vấn đề
về lý luận áp dụng pháp luật ADPL trong công tác xét xử sơ thẩm các vụ án vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ của ngành Tồ
án nói chung và của Tòa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nam nói riêng.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm khắc
phục tình trạng án oan sai, nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật ADPL trong
công tác xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ của Tòa án nhân dân cấp huyện ở Hà Nam, góp phần tích
cực vào cải cách tổ chức và hoạt động của ngành Toà án theo yêu cầu cải cách tư
pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7
- Về mặt lý luận: những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm
sáng tỏ thêm lý luận về áp dụng pháp luật ADPL và làm phong phú cơ sở
khoa học áp dụng pháp luật ADPL trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ của Tịa án nhân
dân.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đối với Thẩm
phán, Thư ký trong ngành Tồ án, có thể nói, đây là tài liệu có giá trị để áp
dụng thống nhất pháp luật trong cơng tác xét xử, nâng cao trình độ chun
mơn nghiệp vụ. Đồng thời, luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu khoa học pháp lý và giảng dạy về kỹ năng xét xử cho Thẩm phán.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHƯƠNG TIỆN GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ CỦA TỒ ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở TỈNH HÀ NAM
1.1. LÝ LUẬN VỀKHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VÀ VIỆC VẬN DỤNG TRONG XÉT XỬ XỬ SƠ THẨM CÁC
VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THƠNG
ĐƯỜNG BỘ CỦA TỒ ÁN NHÂN DÂNTỊA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở TỈNH
HÀ NAM
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Theo lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, pháp luật xã hội chủ
nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung, thể hiện ý chí của giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được cơ
8
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự nhất định dưới các
hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong xã hội, pháp luật chiếm giữ vai trị vị trí đặc biệt quan trọng. Bình
diện chung nhất, pháp luật là phương tiện để thể chế hóa đường lối, chủ trương
của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được triển khai thực hiện có hiệu
quả; là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội; là phương tiện
để nhân dân phát huy, thực hiện quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp,
nghĩa vụ của công dân.
Pháp luật với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn tác
động và ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội, duy trì trật tự xã hội có lợi cho giai
cấp thống trị. Trong quan hệ với nhà nước, vai trị của pháp luật ln gắn liền
với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát huy được vai
trò của nhà nước trong việc thực hiện chức năng quản lý xã hội. Đối với bản
thân nhà nước, pháp luật vừa là cơ sở tổ chức, hoạt động vừa là sức mạnh của
quyền lực chính trị đồng thời nó cũng ràng buộc nhà nước, tránh cho nhà
nước khỏi tình trạng hoạt động tùy tiện, vi phạm quyền và tự do của cơng dân.
Q trình hình thành và phát triển của pháp luật nói chung và pháp luật xã hội
chủ nghĩa nói riêng, pháp luật ln có vai trị, giá trị xã hội to lớn mà không
một công cụ, phương tiện điều chỉnh nào có thể thay thế được.
Tuy nhiên, vai trị của pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy được hiệu
quả khi các quy định của pháp luật do nhà nước đặt ra được chính các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, các công dân thực hiện một cách chính xác, nghiêm
minh và tự giác. Do đó, vấn đề đặt ra là khơng phải chỉ có đủ các văn bản
pháp luật đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội, mà điều quan trọng hơn ở chỗ
pháp luật đó có được thực hiện khơng, những u cầu của pháp luật có trở
thành hiện thực khơng.
9
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động của con
người có tổ chức có chủ ý bao hàm những hành vi hợp pháp phù hợp với
những quy định, những yêu cầu của pháp luật. Thực hiện pháp luật là một
hiện tượng xã hội mang tính pháp lý, nó là hành vi của cá nhân con người
nhưng cũng có thể là hành động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội. Thực hiện pháp luật là hành vi xử sự của con người được tiến hành phù
hợp với các yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Hành vi xử sự của con
người trong hoạt động thực hiện pháp luật có hai tính chất là tính xã hội và
tính pháp lý.
Thực hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích tạo ra cơ sở
pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật, làm cho những quy
định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống.
Các quy phạm pháp luật được thể hiện trong hệ thống pháp luật với số
lượng rất lớn và nội dung rất phong phú, đa dạng nên hình thức thực hiện
pháp luật cũng rất khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện
pháp luật, khoa học pháp lý phân chia thực hiện pháp luật thành bốn hình thức
là tuân thủ pháp luật; chấp hành pháp luật; sử dụng pháp luật; ADPL.
Đa Trong phạm vi nội dung nghiên cứu của luận văn chúng tơi đi sâu vào
nghiên cứu hình thức ADPL.
Thực tế hiện nay cịn có nhiều quan niệm khác nhau về ADPL. Có quan
điểm cho rằng ADPL là khái niệm bao trùm trong đó có các hình thức thực
hiện pháp luật khác. Theo quan điểm này thì ADPL được thực hiện thông qua
tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật. Chúng tơi nhất trí
với đa số các nhà khoa học pháp lý hiện nay quan niệm: ADPL là hoạt động
mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua
những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được
nhà nước uỷ quyền, nhằm cá biệt hoá những QPPL vào các trường hợp cụ thể
10
đối với cá nhân, tổ chức cụ thể. Hay nói cách khác, ADPL là hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó nhà nước thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền căn cứ vào các quy định pháp luật để ban hành các quyết định cá biệt
làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể.
Như vậy, ADPL vừa là một hình thức thực hiện pháp luật diễn ra trong
hoạt động thực hiện quyền hành pháp và thực hiện quyền tư pháp của nhà
nước. Đây là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước, là đảm bảo
của nhà nước cho các quy phạm pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong
đời sống xã hội.
- ADPL được thực hiện trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, ADPL trong trường hợp cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế
bằng các chế tài thích hợp đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Thí
dụ, viện kiểm sát nhân dân ADPL để ra một quyết định truy tố đối với người
có hành vi phạm tội.
Thứ hai, ADPL khi các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không
tự phát sinh nếu khơng có sự tác động của nhà nước. Trong nhiều trường hợp
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qui định trong Hiến pháp và các
đạo luật phải thông qua các quyết định cụ thể của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền mới nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể đối với các cá
nhân cụ thể. Thí dụ, Điều 57 (Hiến pháp 1992) quy định cơng dân có quyền tự
do kinh doanh, nhưng chỉ khi nào công dân đến đăng ký và cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ra quyết định cho phép (cấp giấy đăng ký kinh doanh) thì lúc
đó cơng dân mới được quyền kinh doanh.
Thứ ba, ADPL khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa
các bên tham gia các quan hệ pháp luật mà họ khơng tự giải quyết được. Thí
dụ: tranh chấp giữa những bên tham gia hợp đồng lao động, thương mại, hợp
đồng dân sự v.v..
Thứ tư, ADPL trong trường hợp nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để
11
kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc nhà nước
xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế. Đó
là các hoạt động chứng nhận, chứng thực, công chứng v.v..
- Kết quả ADPL chủ yếu được thể hiện bằng các văn bản ADPL. Văn bản
này có các đặc điểm sau:
+ Văn bản ADPL chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ
chức xã hội được trao quyền mới có quyền ban hành và được bảo đảm thực
hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
+ Văn bản ADPL chỉ đích danh tên các cá nhân, tổ chức cụ thể trong
những trường hợp xác định và chỉ áp dụng một lần.
+ Văn bản ADPL phải căn cứ và dựa vào văn bản qui phạm pháp luật và
phải phù hợp với chúng. Nếu không căn cứ và phù hợp với văn bản qui phạm
pháp luật, văn bản ADPL sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ.
+ Văn bản ADPL thường thể hiện dưới các hình thức như: bản án, quyết
định, lệnh.
- Các giai đoạn của quá trình ADPL:
ADPL phải trải qua các giai đoạn từ việc xác định những tình tiết thực tế
khách quan của vụ việc, tìm kiếm và phân tích quy phạm pháp luật thích ứng với
vụ việc đó đến ra quyết định giải quyết vụ việc và tổ chức, kiểm tra thực hiện
quyết định ấy trên thực tế. ADPL được chia ra các giai đoạn sau:
+ Phân tích những tình tiết thực tế khách quan của vụ việc và các đặc
trưng pháp lý của nó
Đây là giai đoạn đầu của quá trình ADPL, yêu cầu người có thẩm quyền
ADPL phải nghiên cứu khách quan, tồn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của
vụ việc; xác định đặc trưng pháp lý của vụ việc; tuân thủ tất cả các quy định
mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
+ Lựa chọn quy định pháp luật tương ứng để giải quyết vụ việc
12
Trước hết là, phải xác định vụ việc này do ngành luật nào điều chỉnh, sau
đó lựa chọn quy phạm pháp luật cụ thể thích ứng với vụ việc. Quy phạm được
lựa chọn phải là quy phạm đang có hiệu lực.
+ Làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật đưa ra áp dụng
Để làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung các quy phạm pháp luật, đưa ra áp
dụng, cần phải biết giải thích pháp luật. Thơng thường, có các phương pháp
cơ bản sau đây để giải thích pháp luật: Phương pháp lơgíc, là phương pháp sử
dụng những quy tắc suy đốn lơgíc để làm rõ nội dung quy phạm pháp luật;
Phương pháp giải thích về mặt văn phạm, làm sáng tỏ nội dung quy phạm
pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng câu và xác định mối liên hệ
ngữ pháp giữa chúng; Phương pháp giải thích về mặt lịch sử, tức là làm rõ tư
tưởng, nội dung quy phạm pháp luật bằng cách phân tích hồn cảnh lịch sử
xây dựng văn bản có chứa đựng quy phạm ấy và các mục đích được đặt ra khi
thông qua văn bản; Phương pháp giải thích hệ thống, là làm rõ nội dung, tư
tưởng quy phạm pháp luật thơng qua đối chiếu nó với các quy phạm khác và
xác định mối liên hệ giữa chúng trong tồn bộ hệ thống pháp luật. Ngồi ra,
cịn một số phương pháp giải thích pháp luật khác nhau như: giải thích giải
thích mở rộng, giải thích hạn chế...
Tóm lại, giai đoạn thứ ba của quá trình ADPL nhằm nhận thức đúng đắn
nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật dưa ra áp dụng thơng qua trình
độ của người có thẩm quyền ADPL.
+ Ra văn bản ADPL
Khi ra quyết định, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khơng thể xuất
phát từ ý muốn chủ quan hoặc tình cảm cá nhân. Quyết định ADPL phải phù
hợp với qui phạm pháp luật đưa ra áp dụng.
Văn bản ADPL phải được ban hành đúng thẩm quyền, tên gọi, có cơ sở
thực tế và cơ sở pháp lý, theo đúng thể thức đã quy định. Nội dung của văn
bản phải rõ ràng, chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể cụ thể.
13
+ Tổ chức thực hiện văn bản ADPL
Đây là giai đoạn cuối cùng của qúa trình ADPL. Trong giai đoạn này, cần
tiến hành các hoạt động bảo đảm cho việc thực hiện đúng đắn, đầy đủ văn bản
ADPL. Đồng thời, cần tiến hành kiểm tra, giám sát việc thi hành văn bản
ADPL, nhằm bảo đảm để quyết định trở thành hiện thực trong đời sống.
- ADPL tương tự
Trong quá trình xây dựng pháp luật, nhà làm luật luôn luôn bám sát thực
tiễn để phát hiện kịp thời các đòi hỏi và nhu cầu phải điều chỉnh bằng pháp
luật. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, pháp luật thường lạc hậu
hơn sự biến đổi của tồn tại khách quan. Do vậy, hệ thống pháp luật khơng
tránh khỏi có những lỗ hổng hoặc chưa ban hành kịp thời các qui phạm pháp
luật tương ứng để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong trường hợp này, để
bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và của công
dân, khoa học pháp lý đưa ra nguyên tắc ADPL tương tự.
ADPL tương tự là biện pháp mang tính tạm thời nhằm khắc phục những
lỗ hổng của pháp luật, ADPL tương tự chia làm hai loại: Áp dụng tương tự
quy phạm pháp luật và áp dụng tương tự pháp luật.
+ Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là việc áp dụng một qui phạm
pháp luật để giải quyết một vụ việc tương tự với một vụ việc khác do chính
quy phạm này điều chỉnh.
+ Áp dụng tương tự pháp luật là việc áp dụng những nguyên tắc pháp lý
chung và ý thức pháp luật để giải quyết một vụ việc cụ thể mà chưa có qui phạm
pháp luật tương ứng điều chỉnh hoặc chưa có qui phạm pháp luật tương tự.
Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật và áp dụng tương tự pháp luật đòi
hỏi phải được tiến hành trong sự tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, để bảo đảm áp dụng tương tự đúng đắn cần phải
nắm vững các điều kiện chung và riêng sau đây:
14
Cần xác định đặc trưng pháp lý của vụ việc cần áp dụng. Nếu vụ việc
khơng có đặc trưng pháp lý thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối
khơng xem xét nó.
Khi ADPL tương tự cần làm rõ cơ sở khoa học của việc áp dụng tương tự
pháp luật hay áp dụng tương tự qui phạm pháp luật đối với vụ việc.
Khi ADPL tương tự cần phân tích, giải thích pháp luật để lựa chọn đúng
quy phạm pháp luật điều chỉnh trường hợp gần giống với sự việc cần áp dụng,
hoặc tìm ra những nguyên tắc nhất định, từ đó giải quyết vụ việc Trong áp
dụng tương tự pháp luật, ý thức pháp luật, kiến thức pháp lý, kinh nghiệm
thực tiễn của người có thẩm quyền đóng vai trị quan trọng.
Ngồi những điều kiện chung nói trên, cịn có những điều kiện riêng cho
mỗi loại áp dụng tương tự như sau:
Đối với áp dụng tương tự quy phạm pháp luật, chỉ được áp dụng khi xác
định chính xác chưa có quy phạm pháp luật tương ứng điều chỉnh vụ việc này,
đồng thời phải tìm kiếm qui phạm pháp luật định sử dụng để áp dụng tương tự.
Đối với áp dụng tương tự pháp luật, chỉ được áp dụng khi đã chỉ rõ trong hệ
thống pháp luật chưa có một qui phạm pháp luật nào điều chỉnh vụ việc này.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất, ADPL là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Vì vậy, về
nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Pháp
luật quy định các cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm quyền ADPL khác
nhau. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi được nhà nước uỷ quyền, một số
tổ chức xã hội cũng được ADPL.
Bản thân pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhà nước, việc ADPL được
coi là tiếp tục thể hiện ý chí đó trong q trình điều chỉnh pháp luật, vì vậy ở
một chừng mực nhất định ADPL cịn mang tính chính trị, nó phục vụ cho
những mục đích chính trị nhất định. Khác với các hình thức thực hiện pháp
15
luật khác, ADPL được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị
ADPL. Trong một số trường hợp, việc ADPL đối với các trường hợp đó chỉ
được tiến hành khi có yêu cầu của tổ chức hay cá nhân nhất định theo quy
định của pháp luật. Chẳng hạn Toà án thụ lý giải quyết, ADPL, khi có yêu
cầu chia di sản thừa kế của cá nhân nào đó. Tính quyền lực nhà nước trong
hoạt động ADPL thể hiện ở tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
các chủ thể có liên quan. Dù việc ADPL được tiến hành theo ý chí nhà
nước hay ý chí của chủ thể bị áp dụng thì quyết định ADPL cũng chỉ do các
chủ thể có thẩm quyền ban hành. Văn bản ADPL có tính bắt buộc phải thực
hiện đối với những tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong những trường
hợp cần thiết, nhà nước có thể cưỡng chế thi hành văn bản ADPL. Chẳng
hạn, việc cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trái phép, khi người vi
phạm khơng tự thực hiện.
Thứ hai, ADPL là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục pháp lý chặt
chẽ. Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của ADPL, chủ thể bị ADPL có
thể được hưởng những lợi ích rất lớn hoặc chịu những hậu quả bất lợi nghiêm
trọng, nên pháp luật luôn xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục,
quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong q trình ADPL. Nó địi hỏi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá trình ADPL phải
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục đó. Thí dụ: việc áp dụng
Luật Hình sự để giải quyết một vụ án hình sự phải tuân thủ Luật Tố tụng hình
sự với những qui định rất chặt chẽ, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các bên có liên quan trong quá trình ADPL phải tuân thủ nghiêm ngặt
các qui định có tính thủ tục đó.
Thứ ba, áp dụng pháp luật ADPL là hoạt động điều chỉnh có tính chất
cá biệt, cụ thể đối với quan hệ xã hội xác định. Nếu quy phạm pháp luật là
16
những khuôn mẫu chung, tiêu chuẩn xử sự chung giữa người với người trong
các mối quan hệ xã hội cụ thể thì hoạt động áp dụng pháp luật ADPL ln
mang tính cụ thể. Bởi vì, đối tượng của áp dụng pháp luật là những quan hệ
xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những mệnh lệnh
chung trong quy phạm pháp luật. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật,
những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hố một cách cụ thể và
chính xác. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng quy phạm pháp
luật cho từng trường hợp cụ thể, đối với cá nhân cơ quan tổ chức cụ thể. Ví
dụ: trong một vụ án hình sự đồng phạm, Tồ án phải đánh giá chính xác vai
trị tham gia của từng bị cáo, căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự để cá
thể hố hình phạt, sao cho phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội
mà mỗi bị cáo đã gây ra.
Thứ tư, ADPL là hoạt động mang tính sáng tạo. Các tình huống dự liệu
quy định trong các quy phạm pháp luật chỉ là những dấu hiệu chung nhất có
tính khái qt cao. Trong khi tình huống, sự kiện pháp lý diễn ra trong thực tế
hoạt động ADPL lại phong phú, cụ thể nên hoạt động ADPL có tính thực tiễn
cao và địi hỏi tính sáng tạo. Khi ADPL, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó, lựa
chọn quy phạm áp dụng, từ đó ra quyết định, văn bản ADPL và tổ chức thi hành.
Các trường hợp pháp luật chưa quy định, hoặc quy định chưa rõ thì phải
vận dụng sáng tạo bằng cách ADPL tương tự để giải quyết, việc vận dụng
phải phù hợp với quy định chung của luật pháp. Như vậy, ADPL là quá trình
vận dụng cái chung (các quy phạm pháp luật) để giải quyết các vụ việc cụ thể.
Điều đó địi hỏi người có thẩm quyền ADPL phải vận dụng cái chung phù hợp
với cái riêng rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Để làm điều đó người ADPL
khơng thể máy móc, rập khn mà địi hỏi phải có ý thức pháp luật cao, có
kiến thức tổng hợp, kinh nghiệm cuộc sống phong phú.
17
1.1.3. Khái niệm, đĐặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật áp
dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án nhân dântrong xét xử sơ thẩm
các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường
bộ của Tịa án nhân dân cấp huyện
1.1.3.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm và áp dụng pháp luật trong xét xử
các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường
bộ của Tịa án nhân dân cấp huyện
a) Khái niệm xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ của TAND cấp huyện
Theo từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền xét xử là: sự phân định thẩm
quyền xét xử (giải quyết) các vụ án giữa các Toà án với nhau. Thẩm quyền xét
xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên hay xét xử lần đầu, là cơ sở để xác định thẩm
quyền Toà án các cấp. Vì vậy, muốn xác định thẩm quyền Toà án các cấp, trước
hết phải xác định thẩm quyền của Toà án cấp sơ thẩm. Theo khoản 1 và khoản 2
điều 170 BLTTHS năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
1. TAND cấp huyện và Toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ
án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội sau đây:
A, Các tội xâm phạm an ninh quốc gia
B, Các tội phá hoại hồ bình, chống lồi người và tội phạm chiến tranh
C, Các tội quy định tại điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của BLHS.
2. TAND cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những
vụ án hình sự về những tội phạm khơng thuộc thẩm quyền của TAND cấp
huyện và Toà án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền cấp
dưới mà mình lấy lên để xét xử.
Như vậy, Tồ án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy
18
định trong BLTTHS là TAND cấp huyện, Toà án quân sự khu vực, TAND cấp
tỉnh và Toà án quân sự cấp quân khu. Căn cứ phân định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của Tồ án chủ yếu dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, tính nghiêm trọng và phức tạp của tội phạm. Mức độ tội
phạm hình sự càng nguy hiểm thì Bộ luật hình sự quy định mức hình phạt đối
với tội đó càng nghiêm khắc.
Xét xử sơ thẩm hình sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng, bắt đầu từ
khi Toà án nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng hay Quyết định truy tố do
Viện kiểm sát chuyển đến và Toà án vào sổ thụ lý, cho đến khi ra bản án hoặc
quyết định hình sự sơ thẩm. Bản án, quyết định hình sự sơ thẩm có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo,
kháng nghị trong thời hạn luật định thì có hiệu lực thi hành. Xét xử sơ thẩm
hình sự của Tồ án là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hình sự.
b) Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
được quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm
2009): Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
là hành vi của người điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ mà vi phạm
quy định về an tồn giao thơng đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc
gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác [20, tr.519].
Theo quy định của Luật giao thơng đường bộ thì:
Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ.
Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ.
Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới)
gồm ơ tơ, máy kéo, rơ mc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai
bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương
tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.
Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm
19
xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lơ, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe
súc vật kéo và các loại xe tương tự.
Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm
nghiệp và các loại xe đặc chủng khác có sử dụng vào mục đích quốc phịng,
an ninh có tham gia giao thơng đường bộ.
Người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô
sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.
Như vậy, điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ là hành
vi trực tiếp thực hiện các chức năng điều khiển sự chuyển động của phương
tiện giao thông đường bộ.
Đối với phương tiện giao thơng đường bộ, nói chung khơng khó xác
định. Tuy nhiên, đối với xe máy chuyên dùng, việc xác định có phải là
phương tiện tham gia giao thơng hay khơng, có nhiều trường hợp phức tạp. Ví
dụ, một chiếc máy ủi đang thi cơng trên một đoạn đường thì chiếc máy ủi này
có tham gia giao thơng hay chỉ là phương tiện thi cơng bình thường? Thực tế xét
xử cho thấy, nếu chiếc máy ủi này đang thi cơng thì khơng coi là tham giam giao
thông, nhưng nếu chiếc máy ủi này di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác hoặc
từ nơi tập kết xe máy đến công trường thì được coi là tham gia giao thơng.
Ngồi ra, cịn có những dấu hiệu khách quan khác như: đường bộ, cơng
trình đường bộ, đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ, phần đường
xe chạy, làn đường, khổ giới hạn của đường bộ, đường phố, dải phân cách,
đường cao tốc; v.v... Các yếu tố này cũng rất quan trọng khi xác định hành vi
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Hành vi vi phạm các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được xác định
là những hành vi không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ (được biểu
hiện bằng cách hành động hoặc không hành động) của người điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ để thực hiện các quy định về bảo đảm trật tự an toàn
20
giao thơng đường bộ của Nhà nước. Ví dụ: Người điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ đã không chấp hành quy định: “Xe xin vượt chỉ được vượt khi
không có chướng ngại vật phía trước, khơng có xe chạy ngược chiều trong đoạn
đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về
bên phải”(khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ).
Như vậy, việc xác định hành vi vi phạm quy định về bảo đảm trật tự an
tồn giao thơng đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ đã đủ, hay chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật
hình sự cũng cần phải căn cứ vào các quy định của Luật giao thông đường bộ
và văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền để xem xét.
- Các trường hợp vi phạm:
+ Vi phạm quy định về điều kiện người điều khiển phương tiện tham
gia giao thông đường bộ: Luật giao thông đường bộ quy định người lái xe
tham gia giao thông phải phải đảm bảo độ tuổi, sức khỏe theo quy định và có
giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp. Người điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia
giao thơng phải có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức về pháp luật giao thơng
đường bộ, có bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng do cơ sở
đào tạo người điều khiển xe máy chuyên dùng cấp; v.v... Những hành vi vi
phạm chủ yếu trong trường hợp này là người điều khiển khơng có giấy phép
lái xe, uống rượu quá mức quy định vẫn điều khiển xe cơ giới tham gia giao
thông; v.v...
+ Vi phạm về quy tắc tham gia giao thông đường bộ: Người điều khiển
phương tiện tham gia giao thông thường vi phạm về quy tắc tham gia giao
thông như: không chấp hành báo hiệu đường bộ, vi phạm về tốc độ và khoảng
cách giữa các xe, vi phạm quy định về vượt xe, chuyển hướng xe, lùi xe, tránh
xe đi ngược chiều, không nhường đường tại nơi đường giao nhau, đoạn đường
bộ giao cắt đường sắt, vi phạm quy định về dừng xe, đỗ xe trên đường ngoài
21
đô thị và trong đô thị, vi phạm quy định khi qua phà, qua cầu, vi phạm quy
định về giao thông trên đường cao tốc, trong hầm đường bộ, vi phạm quy định
về bảo đảm tải trọng và khổ giới hạn của đường bộ quy định, vi phạm về kéo
xe, kéo rơ moóc, chở người, đội mũ bảo hiểm, điều khiển xe; v.v...
+ Vi phạm quy định về thể lệ vận tải: Người điều khiển phương tiện tham
gia giao thông thường vi phạm quy định về thể lệ vận tải như: chở hàng hóa, chở
hành khách quá tải trọng của xe; xếp hàng hóa trên xe cồng kềnh, hàng to quá
khổ; chở hàng độc hại, dễ cháy nổ sai quy định, chở súc vật trên xe chở khách;
+ Vi phạm các quy định hành chính trong q trình điều khiển phương
tiện giao thông: Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông không chấp
hành sự điều khiển hướng dẫn giao thơng, khơng xuất trình giấy phép khi bị
kiểm tra. Đây là trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ đã không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển
hoặc hướng dẫn giao thông nên đã gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây tổn
hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc tài sản của người khác. Không chấp hành
hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao
thông được coi là một hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ.
- Hậu quả của hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ:
Hậu quả (những thiệt hại vật chất) là dấu hiệu bắt buộc của phần lớn
các cấu thành của tội phạm này. Nếu hành vi vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc
chưa gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì chưa
cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 của Điều luật.
Trường hợp tuy chưa gây ra các thiệt hại vật chất cụ thể nhưng hành vi vi
phạm trật tự an tồn giao thơng của người điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ trên thực tế đã đặt khách thể cần bảo vệ trong tình trạng đặc biệt
22
nguy hiểm, nếu khơng được ngăn chặn kịp thời thì hậu quả vụ phạm tội dứt
khoát sẽ xảy ra.
Để kịp thời đáp ứng tình hình xét xử các vụ tai nạn giao thông đường
bộ đối với hành vi điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ, Hội đồng
Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2003/NQHĐTP ngày 17/4/2003, song cũng chỉ mới hướng dẫn trường hợp gây thiệt hại
cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của
người khác; gây hậu quả nghiêm trọng; rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng do hành vi điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ gây ra.
Thiệt hại cho tính mạng là làm cho người khác bị chết. Thiệt hại nghiêm
trọng cho sức khỏe, hoặc tài sản của người khác là làm cho người khác bị
thương nặng hoặc làm cho tài sản của người khác bị mất mát hư hỏng nặng.
Ngoài ra, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng
Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao cũng có những hướng dẫn áp dụng thống
nhất về các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm
trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202 Bộ luật
hình sự năm 1999.
Khi xác định thiệt hại tài sản của người khác cần chú ý: Chỉ tính những tài
sản do hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
trực tiếp gây ra mang tính định lượng cụ thể, cịn những thiệt hại gián tiếp từ tính
định tính thì khơng tính là thiệt hại để xác định trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội; như: do bị thương nên phải chi phí cho việc điều trị và các
khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả; v.v...). Mặc dù
các thiệt hại này người phạm tội vẫn phải bồi thường nhưng khơng tính để xác
định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội. Thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tài sản mà người phạm tội gây ra là thiệt hại đối với người khác, nên
khơng tính thiệt hại mà người phạm tội gây ra cho chính mình.
c) Khái niệm ADPL trong xét xử các vụ án vi phạm quy định về điều
23
khiển phương tiện giao thông đường bộ của TAND cấp huyện
ADPL trong xét xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ là việc Nhà nước thơng qua Tồ án bằng
hoạt động xét xử để quyết định về trách nhiệm hình sự và những chế tài hình
sự đối với người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thơng đường bộ trong phiên tồ sơ thẩm. ADPL trong xét xử các vụ án vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ ngồi việc
đảm bảo những nguyên tắc đặc thù nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và
ngăn chặn các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thơng đường bộ thì cịn nhằm giáo dục cơng dân khi tham gia các giao
thông cần chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Xét xử sơ thẩm tại
phiên toà là trọng tâm của cả giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tại đây, Hội đồng
xét xử nhân danh Nhà nước tổ chức cho những người tiến hành tố tụng
(trong đó Hội đồng xét xử) và người tham gia tố tụng thực hiện các quyền
và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật, nhằm thẩm tra, đánh giá
toàn diện các chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra cũng như tại
phiên toà; xem xét các lý lẽ, cơ sở buộc tội và gỡ tội của các bên đưa ra để
từ đó Hội đồng xét xử đưa ra những phán quyết là văn bản áp dụng pháp
luật, quyết định bị cáo có phạm tội hay khơng, hình phạt và các biện pháp
tư pháp khác...
Nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, xét
xử sơ thẩm các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng
đường bộ nói riêng chủ yếu là nghiên cứu việc ADPL thơng qua hoạt động của
Tồ án, Hội đồng xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm) bằng các quyết định, bản án
ADPL kể từ khi Toà án thụ lý giải quyết vụ án đến khi Toà án ra bản án hoặc
quyết định hình sự sơ thẩm.
Từ phân tích nêu trên có thể đi đến khái niệm như sau:
ADPL trong hoạt động xét xử các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
24
phương tiện giao thông đường bộ là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước
của Toà án, được thực hiện thông qua Hội đồng xét xử trên cơ sở tuân thủ
những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự và
căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố,
nhằm áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự vào vụ án vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với bị cáo cụ thể để ra một bản án
nhằm xác định bị cáo có tội hay khơng có tội, quyết định trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo, nếu họ có tội và trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật quy
định.
1.1.3.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử của Tòa án nhân
dân trong xét xử sơ thẩm và áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường bộ của Tịa án
nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, áp dụng pháp luật ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm trong
xét xử các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng
đường bộ của TAND cấp huyện của Tịa án là hoạt động nhân danh quyền lực
nhà nước, do Toà án tiến hành được thực hiện thơng qua những người có thẩm
quyền mà trực tiếp là Hội đồng xét xử.
Toà án là cơ quan có thẩm quyền xét xử duy nhất của nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam. Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Toà án nhân dânTAND tối
cao, Toà án nhân dânTAND địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác
do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam" [11, tr.25].
Áp dụng pháp luật ADPL trong hoạt động xét xử , Toà án phải tuân thủ
những nguyên tắc chung của tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, đồng thời,
phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc do pháp luật quy định trong từng bước
của trình tự tố tụng. Đó là nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo, nguyên tắc hai cấp xét xử, nguyên tắc không
25
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án
đã có hiệu lực pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật...Có chấp hành
nghiêm các nguyên tắc trên phán quyết của Toà án với ý nghĩa là kết quả cuối
cùng của quá trình tố tụng mới đảm bảo khách quan, công bằng.
Áp dụng pháp luật ADPL trong hoạt động xét xử án hình sự của Toà án,
được dựa trên kết quả của hoạt động điều tra, truy tố của cơ quan điều tra và
Viện Kiểm sát, song là một giai đoạn tố tụng độc lập. Căn cứ vào các tài liệu
chứng cứ mà cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát thu thập được và kết quả điều
tra cơng khai tại phiên tồ, Tồ án có quyền trả lại hồ sơ đề nghị điều tra bổ
sung, ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc đưa ra phán quyết cuối cùng là các bị
cáo có tội hay khơng có tội.
Chủ thể trực tiếp áp dụng pháp luật ADPL trong hoạt động xét xử là Hội
đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, là những người được
quyền nhân danh nhà nước để tiến hành hoạt động xét xử và đưa ra phán
quyết cuối cùng của Toà án. Việc pháp luật quy định, Toà án thực hiện chế độ
xét xử có Hội thẩm tham gia, khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm
phán, là để bảo đảm tính dân chủ, cơng bằng trong hoạt động xét xử của Toà
án.
Toà án thực hiện quyền lực nhà nước thơng qua phiên tồ xét xử cơng
khai, mà kết quả của quá trình xét xử là Hội đồng xét xử nhân danh nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam công bố bằng một bản án. Bản án phải thể hiện ý
chí của nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Tồ án cơng bố bản án khơng nhân danh cơ quan Tồ án cũng không nhân
danh cá nhân người tiến hành tố tụng mà nhân danh nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam để phán quyết. Điều này có nghĩa, Tồ án nhân danh lợi ích
chung của cả dân tộc, của cả đất nước. Do đó, Tồ án ln ln phải xuất phát
từ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc để bảo đảm tính cơng bằng và nghiêm minh